LUẬN VĂN:
Áp dụng pháp luật trong giải quyết
các vụ án dân sự của tòa án nhân dân
thành phố lào cai - tỉnh lào cai
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại
hội VI (1986) đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn
định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc
tế không ngừng nâng cao [6, tr.67].
Trong những năm qua, kinh tế tăng trưởng nhanh, với tốc độ tăng GDP năm
2001 là 6,9% đến năm 2007 tăng lên 8,3% [14], đời sống nhân dân được nâng cao,
chính trị xã hội ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, niềm tin của nhân
dân vào chế độ xã hội và sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Trong thời kỳ đổi mới, việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa được đề cao hơn bao giờ hết. Để thực hiện được
mục tiêu đó, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, điều
chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù hợp. Trong cải
cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi lẽ, các cơ quan tư
pháp là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ nhân dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân, bảo
đảm kỷ cương xã hội. Trong những năm qua, các cơ quan tư pháp luôn luôn đứng ở tuyến
đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu
quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng
pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn
định xã hội, phát triển kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân
dân. Đồng thời, các cơ quan tư pháp đã tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo
văn bản pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Có thể khẳng định
rằng, quyền lực tư pháp đã được thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn
bộ hệ thống tư pháp.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật
của Nhà nước Việt Nam luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong xây dựng và thực
hiện pháp luật. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng được yêu cầu của cuộc
sống, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Tại Đại hội IX,
Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở hệ thống các tư tưởng, quan
điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và trong
đời sống xã hội. Đồng thời, là nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật và đề cao
các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Căn cứ
vào những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu
hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật
nghiêm minh. Do đó yêu cầu "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các
cơ quan tư pháp" [5, tr.90] là một trong những đòi hỏi bức xúc ở nước ta hiện nay.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ngày 02
tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TƯ về “Một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể
nhằm cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật động bộ ngày 24 tháng 05 năm
2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”. Mục đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Phương hướng và nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam là tiến hành cải cách tư
pháp khẩn trương đồng bộ; hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục
tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ công khai, minh bạch, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người; tổ chức các cơ quan tư pháp và các định chế bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc.
Trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã
hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp; xây dựng đội ngũ tư pháp, bổ trợ tư
pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng nâng cao quyền hạn trách
nhiệm, tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, chuyên môn; phát huy vai trò giám sát của các
cơ quan dân cử của công dân và nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đổi mới và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án năm 2002, nhiệm
vụ trọng tâm của Tòa án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
tế, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Trên
thực tế, hoạt động trọng tâm của Tòa án là một hoạt động áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự và được tiến hành theo một quá trình gồm nhiều giai đoạn.
Các giai đoạn của áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, kết quả của giai
đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải quyết một vụ án được
chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Vì vậy, sai lầm trong
bất cứ giai đoạn nào cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả chung của việc giải quyết vụ
án.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, các vụ án dân sự với tính chất ngày
càng phức tạp, tinh vi, do đó việc áp dụng pháp luật để giải quyết án dân sự của Tòa án
hiện nay là một vấn đề được coi trọng. Việc áp dụng pháp luật thế nào cho đúng, chính
xác và thấu tình đạt lý được dư luận xã hội quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc giải
quyết các vụ dân sự còn nhiều bất cập và nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội.
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án và Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005, Tòa án
nhân dân thành phố Lào Cai có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự theo trình tự sơ
thẩm. Ở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai trong những năm gần đây số lượng các vụ
án dân sự ngày càng gia tăng, tính chất các vụ án rất phức tạp. Trong những năm qua Tòa
án nhân dân thành phố Lào Cai đã giải quyết những tranh chấp, những vụ kiện phát sinh
trong đời sống của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự đã góp phần ổn định xã hội
và cải thiện các mối quan hệ trong đời sống hàng ngày tại cộng đồng dân cư, giữ gìn kỷ
cương pháp luật, trật tự an toàn xã hội, đồng thời góp phần tằng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trên toàn tỉnh Lào Cai nói chung và trên địa bàn Thành phố Lào Cai nói riêng.
Trong thực tế, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự không chỉ
đơn thuần đấu tranh đối với các hành vi trái pháp luật mà còn phổ biến, tuyên truyền
giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, để người dân hiểu biết về pháp luật, chủ động
tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật và tích cực trong việc tố giác các hành vi
vi phạm pháp luật. Đồng thời, thông qua việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án dân
sự còn phát hiện ra những bất cập, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm sửa đổi, điều
chỉnh các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai
đoạn cụ thể. Bên cạnh đó, quá trình kiểm tra xét xử án phúc thẩm và giám đốc thẩm của
Tòa án cấp trên trong những năm qua cho thấy, việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân thành phố Lào Cai còn nhiều bất cập dẫn đến nhiều vụ án bị hủy, sửa, tình
trạng án tồn đọng chưa được giải quyết. Còn tồn tại nhiều vụ án bị kéo dài vượt quá thời
hạn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và có nhiều vụ án áp dụng pháp luật chưa thật sự
chuẩn xác, nghiêm minh đã dẫn đến việc bị sửa, hủy làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Là một cán bộ của ngành tòa án, bản thân tôi mong muốn thông qua đề tài nghiên
cứu của mình sẽ góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Vì lẽ đó, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Áp dụng
pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai”
làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật. Hy vọng
rằng, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử và áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự của ngành Tòa án nói chung, Tòa án nhân Thành
phố Lào Cai nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự nói riêng cũng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý, nhất là
những người làm công tác xét xử của nhành Tòa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công
trình khoa học, bài viết đề cập đến những vấn đề trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết
các vụ án dân sự như: TS Đặng Quang Phương (1999) “Thực trạng của các bản án hiện nay
và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 7,8; Lê Thu
Hà “Án dân sự bị kéo dài- vài nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
10/1997; Lê Thu Hà “Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự của Tòa án nhân
dân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/1999; Ngô Vĩnh Bạch Dương : "Vấn đề áp dụng
hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự ở Việt Nam”- Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2001.
Một số luận văn thạc sỹ Luật học của Ngô Thị Minh Ngọc (2000) “Thủ tục xét xử các vụ án
dân sự tại phiên tòa sơ thẩm”; Phạm Thị Dần (2000) “Điều tra trong tố tụng dân sự”; Chu
Đức Thắng (2004) “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”; Hoàng Văn Hạnh (2006) Luận văn thạc sỹ Luật
học “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân
Tỉnh Thái Nguyên”; Ngô Minh Ngọc (2000) “ Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa
sơ thẩm”.
Như vậy cho đến nay chưa có một đề tài, công trình nghiên cứu khoa học tương
đối toàn diện, có hệ thống về mảng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự ở cấp sơ thẩm nói chung và ở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai nói riêng từ khi Bộ
Luật tố tụng Dân sự 2004 và Bộ Luật Dân sự năm 2005 ra đời.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân
Thành phố Lào Cai - tỉnh Lào Cai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu xem xét tình hình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai trong khoảng thời gian từ năm
2004 đến năm 2008.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích của luận văn
+ Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết
các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai
+ Thông qua các số liệu báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân
Thành phố Lào Cai đánh giá thực trạng tình hình hoạt động áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, Từ đó đề ra giải
pháp mang tính hệ thống để nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, nhằm đảm bảo việc giải
quyết vụ án một cách chính xác, công bằng, hiệu quả góp phần ổn định xã hội và mang
lại cho nhân dân niềm tin vào pháp luật.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, các giai đoạn của áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự.
+ Đánh giá thực trạng của áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, những kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn
chế của hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân Thành phố Lào Cai.
+ Từ đó nêu lên các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào
Cai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật,
trong đó có áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học Mác-
Lê nin, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án dân sự của Lào Cai.
Trên cơ sở thực trạng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của
Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, nêu ra những điểm mới trong việc áp dụng pháp
luật khi có bộ luật ra đời, đồng thời chỉ ra những bất cập trong hoạt động ADPL trong
việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai và đề ra giải
pháp nhằm khắc phục những hạn chế để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt
động giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai nói riêng và
hoạt động áp dụng pháp luật của ngành Tòa án nói chung có hiệu quả, bảo vệ lợi ích hợp
của nhân dân và đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao nhận thức và cung cấp thêm cơ
sở lý luận và thực tiễn cho những cán bộ trực tiếp làm công tác xét xử của ngành Tòa án
trong hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án dân sự.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy,
cho các cán bộ đang trực tiếp làm công tác giải quyết án dân sự của Ngành Tòa án nhân
dân nói chung và của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương,
6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1.1. Một số vấn đề chung có liên quan
Để làm rõ khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân cấp huyện, thì cần thiết phải làm sáng tỏ một số khái niệm liên quan sau đây:
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Ở bất cứ một hình thức nhà nước nào thì pháp luật luôn là một công cụ để đảm bảo
cho một xã hội phát triển ổn định, khi đặt ra những quy phạm pháp luật, Nhà nước ta
mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng lợi ích của nhân
dân lao động và sự tiến bộ xã hội. Mục đích đó chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật trong đời sống thực tế.
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của
quản lý nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc
sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Do đó, xây dựng
pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người
phù hợp với những quy định của pháp luật, thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi
cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội.
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật (QPPL) rất phong phú, do đó hình thức thực
hiện cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động, thực hiện
pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình theo pháp luật quy định.
- Áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy
định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc
chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Áp dụng pháp luật (ADPL) là một hình thức thực hiện pháp luật.Mục đích của áp
dụng pháp luật là đảm bảo cho những quy phạm pháp luật được thực hiện trong đời sống
xã hội. Trong thực tế đời sống xã hội thì áp dụng pháp luật được thể hiện rất rõ trong các
trường hợp như: khi một chủ thể thực hiện hành vi phạm tội thì ngay sau đó trách nhiệm
hình sự không phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành hình phạt tương ứng mà cần
có hoạt động của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật để xét xử, ra bản án trong đó ấn
định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, hay khi xảy ra tranh chấp giữa các bên
tham gia quan hệ pháp luật nhưng các chủ thể không tự mình giải quyết được, trong
trường hợp này quan hệ pháp luật đã phát sinh nhưng quyền và nghĩa vụ giữa các bên
không thực hiện được và có sự tranh chấp, thì áp dụng pháp luật sẽ được áp dụng khi các
chủ thể yêu cầu cơ quan Tòa án giải quyết.
Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm
tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn
tại một số sự việc, sự kiện thực tế như việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp…
Nghiên cứu áp dụng pháp luật cho thấy có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định các cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm
quyền áp dụng pháp luật khác nhau.
Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức- quyền lực nhà nước.
Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp
luật theo ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng. Sự áp
dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và được bảo đảm bởi sức mạnh
cưỡng chế nhà nước.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Ví dụ: việc áp dụng pháp Luật Hình sự để giải quyết một vụ án hình
sự phải tuân thủ Luật Tố tụng hình sự với những quy định chặt chẽ.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi vì, áp dụng pháp
luật là quá trình vận dụng cái chung (các quy phạm pháp luật) để giải quyết các vụ việc
cụ thể. Điều này đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải vận dụng cái chung
cái phù hợp với cái riêng rất phong phú, đa dạng và phức tạp.
Từ sự phân tích trên, cơ thể đưa ra khái niệm: Áp dụng pháp luật là hoạt động
mang tính tổ chức quyền lực của nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao
quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với
các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự
Các quan hệ xã hội rất đa dạng và phức tạp. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội
các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp. Khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp thì
Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các
vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động do Tòa án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó,
đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án
dân sự.
Đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ dân sự,
đó là sự không thống nhất việc thực hiện hay không thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ của
một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự trong cuộc sống thường là (mỗi bên có
thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức), trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc
bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động.
Trong vụ án dân sự đương sự ít nhất phải có hai bên nguyên đơn và bị đơn, một số
trường hợp có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc
có yêu cầu độc lập.
Để hiểu thêm về vụ án dân sự ta cần phân biệt những tranh chấp dân sự thuần túy
theo nghĩa hẹp và tranh chấp kinh doanh thương mại được quy định trong Bộ luật tố tụng
dân sự 2004.
Trong tranh chấp dân sự chủ thể của những tranh chấp này có thể bất cứ là cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào tham gia vào các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội hàng ngày,
khi các quan hệ đó không được thống nhất giải quyết theo thỏa thuận hoặc bất đồng trong
việc giải quyết hậu quả của một quan hệ dân sự trong đời sống xã hội dẫn đến tranh chấp
không giải quyết được và một trong hai bên yêu cầu Tòa án giải quyết. Mục đích tham
gia các quan hệ dân sự của các chủ thể là tiêu dụng.
Còn trong tranh chấp kinh doanh thương mại; chủ thể là các thương nhân bao gồm
tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Mục đích tham gia các quan hệ kinh doanh thương mại của các chủ thể là lợi nhuận,
qua hoạt động kinh doanh các thương nhân thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản suất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân cấp huyện
Trong đời sống xã hội chứa đựng nhiều các quan hệ đa chiều, phức tạp, trong đó vấn
đề quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham
gia vào các quan hệ xã hội. Tuy nhiên không phải chủ thể nào khi tham gia các quan hệ
xã hội cũng đảm bảo được sự chuẩn mực hay nói cách khác là tuân thủ theo những quy
tắc và quy định của pháp luật, do đó dẫn đến những tranh chấp phát sinh, để duy trì trật tự
xã hội, Nhà nước thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức hay chủ thể khác (sau đây gọi chung là các đương sự)
có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật
quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như yêu cầu người có hành vi trái pháp luật chấm
dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Có nhiều lý do và nguyên nhân dẫn đến việc xảy ra các tranh chấp dân sự mà các
bên đương sự không tự mình giải quyết được, cần phải có sự can thiệp của Tòa án. Khi
có sự không đồng thuận giữa các bên đương sự về cách thức giải quyết tranh chấp phát
sinh thì một hoặc các bên đương sự không muốn thực hiện đúng các quy phạm pháp luật
dân sự quy định về các loại vụ việc đó vì nếu như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
của họ. Loại vi phạm này thường xảy ra trong các tranh chấp mà các đương sự có sự hiểu
biết nhất định về pháp luật.
Khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự không phải chủ thể nào cũng hiểu biết
hết về các quy định của pháp luật dân sự, vì vậy họ thường hành xử theo thói quen một
cách bộc phát tự nhiên để bảo vệ lợi ích của mình mà không biết đến việc làm của mình
sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Khi có tranh chấp xảy ra, các đương sự không tự mình giải quyết được thì theo
quy định của pháp luật, đương sự có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân có
thẩm quyền để đề nghị giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Sau khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự Tòa án sẽ xem xét nếu thấy đủ điều
kiện thì sẽ cho thụ lý vụ án và giải quyết theo trình tự của Luật Tố tụng dân sự quy định
như thu thập tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án, lựa chọn quy phạm pháp luật điều
chỉnh để ra bản án hoặc quyết định buộc các đương sự thi hành bằng các hình thức tự
nguyện hoặc có sự cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự.
Theo quy định của BLTTDS thì Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu trong
việc áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án dân sự nói chung và cơ quan thi hành án,
riêng cơ quan Viện kiểm sát thì theo quy định của BLTTDS năm 2004 có nhiều điểm
mới; đó là Viện Kiểm sát chỉ có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định
của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
Như vậy cho thấy Tòa án nhân dân là chủ thể chủ yếu trong việc giải quyết các vụ án
dân sự vì trong hầu hết các giai đoạn áp dụng pháp luật thì Tòa án đều trực tiếp tiến
hành mà không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của bất cứ chủ thể nào khác.
Qua sự phân tích ở trên, có thể định nghĩa: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền
lực Nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử
ở cấp sơ thẩm nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật dân sự vào các tranh chấp dân
sự cụ thể nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự góp phần làm ổn
định trật tự xã hội và củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện là trình tự sơ thẩm, đây là lần xét xử đầu tiên, hầu hết các vụ án dân sự đều được
xét xử ở cấp huyện. Trước đây việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án dân sự ở
cấp sơ thẩm của Tòa án cấp huyện được thực hiện theo pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự năm 1989, từ ngày 1.1.2005 trình tự giải quyết các vụ án dân sự được áp
dụng theo Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004.
1.1.3. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân cấp huyện
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện là sự biểu hiện của áp dụng pháp luật nói chung, nó mang đầy đủ đặc điểm của áp
dụng pháp luật. Tuy nhiên do tính chất phong phú, đa dạng và phức tạp của các quan hệ
pháp luật dân sự cùng với những quy định về trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
của pháp luật tố tụng dân sự trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cho nên áp
dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự có những đặc điểm riêng biệt khác.
1.1.3.1. Đặc điểm về thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của tòa án nhân
dân cấp huyện
Thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của tòa án được quy định rất cụ thể và rõ
ràng tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, quy định về thẩm quyền giải quyết của tòa án
giúp cho việc giải quyết các vụ án dân sự của tòa án được thuận lợi, tạo điều kiện cho
đương sự cũng như đáp ứng được yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Điều 32 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và điều 33 của Bộ luật tố tụng
dân sự (BLTTDS) quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
+ Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam
+ Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
+ Tranh chấp về hợp đồng dân sự
+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 điều 29 BLTTDS (tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ chuyển giao công
nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận)
+ Tranh chấp về thừa kế tài sản
+ Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật về đất đai
+ Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp
luật
Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình
+ Những tranh chấp về kinh doanh thương mại theo quy định tại khoản 1 điều 29
của BLTTDS
+ Những tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31
của BLTTDS.
Như vậy, tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm tất cả các
tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại…việc quy định về thẩm
quyền giải quyết cho tòa án nhân dân cấp huyện giúp cho việc phân cấp xét xử được rõ
ràng hơn và nhằm đảm bảo được các yêu cầu cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân và việc giải quyết vụ việc của tòa án được nhanh chóng, thuận tiện hơn.
1.1.3.2. Đặc điểm về nguyên tắc áp dụng luật, văn bản quy pháp pháp luật để
giải quyết vụ án dân sự của tòa án nhân dân cấp huyện
Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án gồm cả hai việc: áp dụng pháp luật nội
dung để giải quyết vụ án và áp dụng pháp luật tố tụng. Pháp luật nội dung để phân định
quyền hạn và nghĩa vụ của đương sự, để giải quyết về mặt nội dung còn áp dụng pháp
luật tố tụng để xác định vị trí trách nhiệm của thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án
Giai đoạn đầu tiên của quá trình áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân
sự- giai đoạn thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, sau khi Tòa án nhận đơn khởi kiện của
đương sự nếu xét thấy đã có đủ điều kiện và căn cứ thì Tòa án cho thụ lý vụ án và yêu
cầu đương sự cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Nếu như
trước đây tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định thì việc
điều tra, làm rõ các tình tiết của vụ án là nhiệm vụ của Tòa án, Tòa án phải đi điều tra,
thu thập chứng cứ, các tình tiết liên quan đến vụ án, Tòa án là chủ thể trong hoạt động
này thì hiện nay theo quy định của BLTTDS, tại Điều 79 thì đương sự phải tự mình đưa
ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Trong tố tụng hình sự, việc điều tra vụ án để chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều
tra- cơ quan công an và Viện kiểm sát, sự khác nhau giữa hoạt động điều tra tố tụng hình
sự và trong tố tụng dân sự không chỉ đơn thuần ở chủ thể hoạt động điều tra mà còn thể
hiện ở nhiệm vụ điều tra. Trong tố tụng hình sự nếu không có hoạt động điều tra thì hồ sơ
vụ án sẽ không được lập, do đó không có cơ sở để tiến hành hoạt động xét xử, còn trong
tố tụng dân sự, xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự cũng như
tính chất, đặc điểm của việc giải quyết các vụ án dân sự, khi Tòa án thụ lý vụ án thì hồ
sơ vụ án đã được lập, vì khi khởi kiện vụ án theo quy định tại các Điều 161, 165 và
Điều 166 của BLTTDS các đương sự khởi kiện (nguyên đơn) phải có nghĩa vụ gửi
kèm đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là
hợp pháp và có căn cứ.
Sau khi tiến hành các bước áp dụng pháp luật tố tụng để giải quyết vụ án dân sự
thì cơ quan Tòa án mà chủ thể là Hội đồng xét xử hoặc thẩm phán đối chiếu các quy
phạm pháp luật nội dung (cụ thể là Bộ luật dân sự hoặc các luật chuyên ngành khác có
liên quan như Luật đất đai, Luật thương mại…) để giải quyết phân định quyền và nghĩa
vụ của các đương sự trong vụ án.
Hoạt động áp dụng pháp luật nói chung được tiến hành theo ý chí đơn phương
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp
dụng, thì trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án lại không hoàn toàn như
vậy, xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng và quyền tự định đoạt của các đương sự, Tòa
án với vai trò là chủ thể chính của hoạt động áp dụng pháp luật, là “trọng tài” trong
việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên đương sự, sau khi nhận đơn khởi kiện thụ
lý vụ án và thu thập đủ chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án, Tòa án đã cơ bản nắm được
nội dung vụ án, những vấn để thuộc về nguyên nhân và điều kiện phát sinh tranh chấp
cũng như những vướng mắc trong tâm tư tình cảm của các đương sự, nếu không có
căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án thì trước khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án
tiến hành hòa giải để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án,
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cũng như giữ được mối quan hệ
tốt cho các đương sự.
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của tòa án cần phải tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản sau đây;
- Nguyên tắc chung - riêng: thực chất là mối quan hệ giữa BLDS và các đạo luật
chuyên ngành khác như Luật đất đai, Luật thương mại, Luật xây dựng, Luật kinh doanh
bất động sản… chẳng hạn trong một tranh chấp dân sự liên quan đến nhà đất, ngoài việc
áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để gải quyết thì Tòa án cần phải đối chiếu xem
xét các quy phạm pháp luật được quy định trong Luật đất đai để áp dụng giải quyết
nhưng tranh chấp liên quan đến đất đai mà pháp luật dân sự không quy định.
- Nguyên tắc trước - sau: đó là việc áp dụng pháp luật trong trường hợp các văn bản
cùng điều chỉnh về một quan hệ nhưng các văn bản đó được ban hành ở các thời điểm
khác nhau… ví dụ khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời để thi hành BLDS cho phù hợp
với điều kiện thực tiễn Quốc hội ban hành nghị quyết 45/2005/NQ-QH11 về việc thi hành
BLDS có quy định: giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung khác với quy
định của BLDS hoặc giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày BLDS có hiệu lực
mà có tranh chấp xảy ra thì áp dụng qui định của BLDS năm 1995 và các văn bản pháp
luật hướng dẫn áp dụng BLDS năm 1995 để giải quyết.
- Nguyên tắc trên - dưới: nghĩa là giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật khi áp
dụng. Trong giải quyết các vụ án dân sự trước hết Tòa án phải áp dụng các Bộ luật chung
nhất là Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật dân sự, sau đó là các Nghị quyết hướng dẫn áp
dụng pháp luật cụ thể của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết vào
từng trường hợp cụ thể trong từng vụ án.
- Nguyên tắc thỏa thuận - quy định: nguyên tắc này không được quy định trong Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật bởi nếu trong phạm vi quan hệ của một quốc gia
thì không thể có sự thỏa thuận luật áp dụng song nếu các quan hệ dân sự vượt ra ngoài
lãnh thổ Việt Nam thì phải xác định nguồn luật điều chỉnh, trong trường hợp này các bên
đương sự có thể tự thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng.
Ngoài ra, trong áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án có
một đặc điểm riêng biệt đó là áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật, nguyên
tắc này xuất phát từ tính chất đa dạng và phức tạp của các quan hệ dân sự trong đời sống
xã hội, pháp luật không thể dự liệu được hết các tình huống, trường hợp có thể phát sinh
trong giao lưu dân sự, vì vậy tại Điều 3 của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 quy định
“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể
áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật.
Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy
định trong bộ luật này” [21, tr.8].
Hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án không
chỉ tuân thủ và đối chiếu theo các quy định của luật hình thức là Bộ luật tố tụng dân
sự mà còn phải áp dụng các quy định của luật nội dung để giải quyết các vụ án dân sự;
đó là việc Tòa án đối chiếu căn cứ vào các quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự hoặc
văn bản pháp luật liên quan khác để áp dụng vào giải quyết trong từng tranh chấp cụ
thể nhằm phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Chẳng hạn khi giải
quyết một vụ án dân sự có quan hệ pháp luật tranh chấp là Hợp đồng vay tài sản thì
khi áp dụng luật nội dụng để phân định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi đương sự
trong vụ án, Tòa án phải căn cứ vào những quy định về Hợp đồng vay tài sản được
quy định tại Mục 4 chương XVIII của Bộ luật dân sự về Hợp đồng vay tài sản hoặc
khi giải quyết tranh chấp đất đai thì luật nội dung cần phải áp dụng tại các chương
XXIX, XXX, XXXI, XXXII, XXXIII của Bộ luật dân sự quy định về các vấn đề liên
quan đến đất đai, ngoài ra còn phải đối chiếu với các quy định về đất đai trong Luật
đất đai để giải quyết nội dung của vụ án.
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN, NỘI DUNG VÀ CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN
1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện
ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện cũng là sự
biểu hiện cụ thể của ADPL nói chung, tuy nhiên do đặc trưng của của các quan hệ dân sự
luôn là phức tạp và đa dạng và những quy định về thủ tục tố tụng dân sự nên việc ADPL
trong giải quyết các vụ án dân sự có những giai đoạn sau:
Một là, phân tích các tình tiết khách quan của vụ án dân sự, làm rõ các đặc trưng
pháp lý của vụ án.
Đây là hoạt động đầu tiên trong các giai đoạn ADPL giải quyết các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án phải xác định loại vụ việc thuộc thẩm quyền của
Tòa án nào giải quyết, thuộc Tòa án cấp huyện hay cấp tỉnh, có thuộc thẩm quyền theo
lãnh thổ hay không, hoặc Tòa án phải thông báo cho các đương sự biết việc lựa chọn Tòa
án để giải quyết yêu cầu khởi kiện của mình. Khi thụ lý vụ án Tòa án phải xem xét yêu
cầu khởi kiện, xác định nơi cư trú của đương sự hoặc xem xét nguyện vọng của các
đương sự lựa chọn Tòa án nào giải quyết và các giấy tờ có liên quan để xác định thẩm
quyền giải quyết của Tòa án.
Để làm rõ được các tình tiết khách quan và nội dung vụ án dân sự thì Tòa án phải
tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ, việc chứng minh các yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp thuộc về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án, Tòa án yêu cầu
nguyên đơn và bị đơn cung cấp những giấy tờ, chứng cứ có liên quan đến vụ án dân sự
đang tranh chấp, các đương sự tự viết vào bản tự khai. Trong quá trình giải quyết vụ án
các đương sự tự thỏa thuận, định đoạt được các quyền và nghĩa vụ của mình thì Tòa án ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ.
Trên cơ sở kết quả điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án chủ thể ADPL
phân tích những tình tiết khách quan của vụ án dân sự, làm rõ các đặc trưng pháp lý của vụ
án để tiến hành các bước tiếp theo giải quyết vụ án đó.
Hai là, lựa chọn các QPPL về dân sự, tố tụng dân sự tương ứng để giải quyết vụ
án dân sự.
Việc lựa chọn QPPL để ADPL được tiến hành theo ý chí đơn phương của Tòa án có
thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng, điều này được thể hiện
rất rõ trong giải quyết án hình sự và giải quyết vi phạm hành chính, những đối với việc
giải quyết án dận sự về cơ bản cũng giống như hai loại án trên, song có một số trường hợp
có thể trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự có thể thực hiện quyền của mình theo
quy định của pháp luật sẽ thay đổi quan điểm, yêu cầu, nên dẫn đến vụ án không tiếp tục
điều tra, xét xử mà có thể ra một trong các quyết theo hướng khác phụ thuộc vào ý chí của
các chủ thể bị ADPL, chẳng hạn như nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ ra quyết
định đình chỉ vụ án hoặc các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó, nhưng sự lựa chọn các QPPL vẫn là
do cơ quan Tòa án.
Ba là, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của QPPL dân sự để đưa ra áp dụng vào
việc giải quyết các vụ án dân sự.
Đây là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là
tri thức pháp lý, giai đoạn này đòi hỏi người có thẩm quyền ADPL là Thẩm phán phải
nắm vững, nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của các QPPL đưa ra áp dụng để giải
quyết vụ án dân sự và việc ADPL phải thông qua người có thẩm quyền khi ADPL.
Bốn là, ra quyết định áp dụng pháp luật hoạc ra một bản án để giải quyết vụ án
dân sự.
Đây là giai đoạn thể hiện kết quả của ba giai đoạn trên, ở giai đoạn này Tòa án có
thẩm quyền ra quyết định hoặc bản án để quy định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ
của các đương sự đang có tranh chấp trong quan hệ dân sự. Văn bản áp dụng pháp luật
này thể hiện rất rõ năng lực, trình độ của Thẩm phán và Hội đồng xét xử khi ADPL.
Vì trong giai đoạn này các phán quyết cuối cùng mang tính pháp lý, phán quyết này
chính là việc vận dụng các quy định pháp luật về dân sự, về tố tụng dân sự để giải
quyết vụ án.
Quyết định ADPL phải phù hợp với QPPL đưa ra áp dụng chứ không thể xuất phát
từ ý chí chủ quan hoặc tình cảm cá nhân của người có thẩm quyền, nội dung quyết định,
bản án phải rõ ràng, chính xác và tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự và
pháp luật dân sự.
1.2.2. Nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân cấp huyện
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự về quy trình tố tụng và
áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp của vụ án được quy định trong Bộ
luật dân sự.
* Áp dụng pháp luậtt trong thụ lý vụ án:
Khi xét thấy cần khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải làm đơn khởi kiện gửi đến
Tòa án. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa án thông báo ngay cho người khởi kiện
biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp
tiền tạm ứng án phí.
Tòa án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi
kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
giấy báo của Tòa án về việc nộp tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng
án phí.
Tòa án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng
án phí. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng
án phí thì Tòa án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo, nếu có.
Trước đây tại pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Điều 37
quy định “Nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án báo ngay cho đương sự nộp
tiền tạm ứng án phí, trong thời hạn một tháng kể từ ngày nộp đơn… Tòa án thụ lý vụ án kể
từ ngày nguyên đơn nộp tiền”, nhưng hiện nay tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Điều
167 quy định; “Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc
gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau:
- Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình.
- Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo bằng văn bản cho
người khởi kiện biết, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác.
- Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án.
Việc trả lại đơn khởi kiện được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Thời hiệu khởi kiện đã hết.
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không đủ năng lực hành vi tố
tụng dân sự.
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Hết thời hạn được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không
nộp tiền tạm ứng án phí.
- Chưa đủ điều kiện khởi kiện.
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Để thụ lý đơn khởi kiện của đương sự, Tòa án phải xem xét nhiều vấn đề liên quan
như các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án, xem xét đến thẩm quyền theo vụ việc,
thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo cấp, xem xét người khởi kiện có quyền
khởi kiện hay không, có đủ năng lực hành vi dân sự không…sau khi có đủ các điều kiện
để thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng thì Tòa án phải thụ lý vụ án đúng thời
hạn của Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định.
* Điều tra vụ án:
Điều tra vụ án là giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự, thu thập chứng cứ đầy đủ, khách quan thì Tòa án mới có thể phán quyết
chính xác và đúng pháp luật. Do đó đòi hỏi Thẩm phán phải thận trọng khi thu thập
chứng cứ.
Sau khi thu lý vụ án, trong thời hạn 03 ngày làm việc Chánh án Tòa án phân công
một Thẩm phán giải quyết vụ án, Thẩm phán sau khi nhận hồ sơ vụ án phải làm công
việc sau:
- Thông báo việc thụ lý vụ án.
- Yêu cầu đương sự nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án.
- Thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTDS.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của BLTTDS thì về nguyên tắc chung, cung cấp
chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp vừa là quyền,
vừa là nghĩa vụ của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp của người khác. Tuy nhiên, theo quy định tại điều 79 BLTTDS, khi
có yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của người khác đối với mình hoặc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác, thì đương sự, cá nhân, tổ chức khởi kiện yêu cầu có nghĩa
vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nếu thấy chứng cứ mà đương sự giao nộp
chưa đủ cơ sở để giải quyết, thì Tòa án yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ theo
quy định tại khoản 1 Điều 85 BLTTDS. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình
thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số
biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
- Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
- Trưng cầu giám định;
- Quyết định định giá tài sản;
- Xem xét, thẩm định tại chỗ;
- Ủy thác thu thập chứng cứ;
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự.
Việc lấy lời khai của đương sự phải tuân theo quy định tại Điều 86 BTTDS, Thẩm
phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản tự khai hoặc nội
dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng, đương sự phải tự viết bản khai và ký tên mình.
Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương
sự, việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những nội dung đương sự chưa khai.
Tùy từng vụ án cụ thể mà Tòa án quyết định trưng cầu giám định theo sự đề nghị
của các bên đương sự hoặc theo đề nghị của một bên đương sự. Nếu trong trường hợp xét
thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng thì Tòa án ra quyết định giám định bổ sung
hoặc giám định lại.
Đối với những vụ án tranh chấp liên quan đến tài sản, các đương sự tranh chấp về
giá của tài sản thì Tòa án quyết định thành lập Hội đồng định giá và tùy thuộc vào loại tài
sản cần định giá mà tiến hành mời các thành viên hội đồng định giá cho phù hợp.
Ví dụ: Định giá về nhà đất trong vụ án tranh chấp đất đai, Hội đồng định giá bao
gồm đại diện cơ quan tài chính thì phải có cơ quan địa chính, cơ quan xây dựng và đại
diện Ủy ban nhân dân phường xã, tổ dân phố nơi có tài sản định giá chứng kiến việc định
giá và có sự tham gia của Thẩm phán giải quyết vụ án.
Có nhiều vụ án việc thu thập chứng cứ gặp khó khăn do ở những nơi quá xa, trong
trường hợp này Tòa án có thể ra quyết định ủy thác để Tòa án khác hoặc cơ quan có thẩm
quyền lấy lời khai của đương sự, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc có các biện
pháp khác để thu thập chứng cứ. Trong những trường hợp cần thiết pháp luật quy định
cho áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ, tránh gây thiệt hại