KHOA KINH TẾ QUẢN TRỊ
BỘ MÔN QUẢN TRỊ
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NGUỒN NHÂN LỰC
Đề tài:
Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
-1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nông nghiệp,
nông thôn cũng đang trong tiến trình này. Các nguồn lực đều được ưu tiên cho công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có nguồn nhân lực giữ vị trí
then chốt, quyết định cho sự thành bại của công cuộc đổi mới này.
Cả 3 lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chúng ta đều không
xem nhẹ cái nào. Tất cả đều phải phát triển, tất cả đều có yêu cầu nguồn nhân lực
tốt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay nguồn nhân lực vừa thừa lại
vừa thiếu. Thừa là thừa lao động chân tay, lao động giản đơn; Thiếu là thiếu lao
động tay nghề cao, thiếu người quản lý, tổ chức giỏi. Cả hai điều đó đều tác động
xấu và cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn.
Để nông nghiệp, nông thôn phát triển tốt, tương xứng với kỳ vọng phát triển
đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp,
nghĩa là khi đó nông nghiệp, nông thôn đạt mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cơ
bản, lực lượng lao động trong nông nghiệp và ở nông thôn lúc này phải đảm bảo là
động lực duy trì và phát triển.
Như vậy nông nghiệp, nông thôn nước ta phải có nguồn nhân lực tốt, điều đó
không tự nhiên có được mà phải thực hiện đào tạo. Công tác này đã và đang ở đâu?
Để trả lời một phần câu hỏi lớn này chúng ta cần nghiên cứu đề tài “Đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thực trạng, chủ trương
chính sách và khuyến nghị giải pháp”.
-2
2. Giới hạn nghiên cứu.
Đề tài giới hạn trong phạm vi thời gian những năm gần đây, liên quan đến
bức tranh nguồn nhân lực ở nông thôn và trong nông nghiệp, thực trạng công tác đào
tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp, các thuận lợi, khó khăn và hạn chế
của nó; từ đó có những khuyến nghị về chủ trương chính sách. Không đi sâu và mở
rộng cho toàn bộ các ngành kinh tế và khu vực khác ngoài khu vực nông nghiệp và
nông thôn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu chung: Nghiên cứu thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp, nông thôn nước ta, chủ trương và chính sách chính hiện tại, từ đó đề ra
khuyến nghị giải pháp chính.
b. Các mục tiêu cụ thể:
Hệ thống hoá lý thuyết về nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn; đào
tạo nguồn nhân lực (cho nông nghiệp, nông thôn).
Thực trạng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
Xu thế vận động của nguồn nhân lực trong khu vực nông nghiệp nông thôn.
Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
Chủ trương và chính sách chủ yếu đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực
cho nông nghiệp, nông thôn. Khuyến nghị giải pháp chính.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khai thác các nguồn số liệu có sẵn đã qua xử lý (thu thập số liệu thứ cấp)
từ các nguồn khác nhau để mô tả thực trạng (thống kê mô tả).
Xây dựng khung lý thuyết để khái quát vấn đề.
-3
NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC, NGUỒN NHÂN LỰC CHO
NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
1.1. Nguồn nhân lực
Dưới đây là một số khái niệm về nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người
tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer &
Dornhusch, 1995). Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các
tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công
việc lao động nào đó.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề,
là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc
tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng.
Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hoá được trong công tác
kế hoạch hoá ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số, bao gồm những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy định của Bộ luật lao
động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến hết 55 tuổi).
Trên cơ sở đó, một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân lực
hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó
-4
lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong
độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao
động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động
nhưng không có nhu cầu lao động.
1.2. Nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn.
Từ các khái niệm trên, ta có thể hiểu là:
Nguồn nhân lực cho nông nghiệp hay nguồn lực con người cho nông nghiệp
bao gồm lực lượng lao động trong nông nghiệp và lao động dự trữ cho nông nghiệp.
Nguồn nhân lực cho nông thôn hay nguồn lực con người cho nông thôn bao
gồm lực lượng lao động hiện có đang phục vụ cho nông thôn và lao động dự trữ sẽ
phục vụ cho nông thôn cũng như sẽ có ở nông thôn. Nguồn nhân lực này bao gồm cả
số lượng lao động sẽ từ nông thôn chuyển cho khu vực đô thị và của khu vực đô thị
cung cấp cho nông thôn.
1.3. Đào tạo nguồn nhân lực, chủ trương chủ yếu cho đào tạo nguồn
nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
Theo giáo trình kinh tế lao động “Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị
kiến thức nhất định và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm
nhận được một số công việc nhất định. Đào tạo gồm đào tạo kiến thức phổ thông
và đào tạo kiến thức chuyên nghiệp”.
Theo quá trình quản trị nhân lực đào tạo được biểu hiện là các hoạt động
nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của
mình.
Với nguồn nhân lực thì đào tạo luôn đi liền với phát triển. Theo nghĩa rộng:
phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến
-5
hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi
nghề nghiệp của người lao động. Theo nghĩa hẹp: phát triển là các hoạt động học
tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho
họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức
hoặc phát triển khả năng nghề nghiệp của họ (giáo trình QTNL).
Một cách định nghĩa khác : Phát triển được hiểu là quá trình làm tăng kiến
thức, kỹ năng, năng lực và trình độ của cá nhân người lao động để họ hoàn thành
công việc ở vị trí cao hơn trong nghề nghiệp của bản thân họ (theo giáo trình KTLĐ)
Phát triển xét trên phạm vi phát triển con người thì đó là sự gia tăng giá trị cho
con người về cả tinh thần, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, kỹ năng…lẫn thể chất. Phát
triển nguồn lực con người nhằm gia tăng các giá trị ấy cho con người, làm cho con
người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển kinh tếxã hội.
Theo Nghị quyết số 26NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Đào
tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn được cụ thể hoá là: “Tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến,
hiện đại cho nông dân; đào tạo nghề cho bộ phận con em nông dân để chuyển nghề,
xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ
quản lý, cán bộ cơ sở. Hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề,
phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông
thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề”. Đây là một chủ trương
lớn của Đảng nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn.
2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN
LỰC CHO NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM
-6
2.1. Tình hình lao động nông nghiệp, nông thôn hiện nay
Trong những năm gần đây, dù dã có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực
song phần lớn lao động của nước ta vẫn ở nông thôn, hoạt động trong sản xuất
nông nghiệp chiếm tỷ lệ áp đảo (xem bảng 1 và 2).
Bảng 1. Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân ngành kinh
tế (20042008)
(Đơn vị: Nghìn người)
2004
2005
2006
2007
Sơ bộ
2008
TỔNG SỐ
41586,3
42526,9
43338,9
44173,8
44915,8
Nông nghiệp và lâm nghiệp
23026,1
22800,0
22439,3
22177,4
21950,4
1404,6
1482,4
1555,5
1634,5
1684,3
324,4
341,2
370,0
397,5
431,2
4832,0
5248,5
5655,8
5963,4
6306,2
137,2
151,4
173,4
197,0
224,6
Xây dựng
1922,9
1998,9
2136,5
2267,8
2394,0
TN; sửa chữa xe có động cơ, mô tô,
xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình
4767,0
4933,1
5114,0
5291,9
5371,9
755,3
767,5
783,3
813,9
830,9
Thuỷ sản
Công nghiệp khai thác mỏ
Công nghiệp chế biến
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt
Khách sạn và nhà hàng
-7
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
1202,2
1208,2
1213,8
1217,4
1221,7
124,9
156,3
182,8
209,9
220,1
25,0
24,5
26,0
26,9
26,9
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài
sản và dịch vụ tư vấn
129,7
151,4
178,7
216,0
251,5
QLNN; bảo đảm XH bắt buộc
535,6
648,4
716,9
793,2
866,9
1183,9
1233,7
1300,2
1356,7
1401,4
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
344,7
359,7
372,7
384,3
399,8
Hoạt động văn hoá và thể thao
128,8
132,7
134,3
136,4
134,7
Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
125,9
149,5
171,5
192,9
220,1
Hoạt động phục vụ cá nhân, công cộng và
dịch vụ làm thuê
616,1
739,5
814,2
896,7
979,2
Tài chính, tín dụng
Hoạt động khoa học và công nghệ
Giáo dục và đào tạo
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Bảng 2. Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo
ngành kinh tế.
(Đơn vị: Nghìn người)
2004
2005
2006
2007
Sơ bộ 2008
TỔNG SỐ
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Nông nghiệp và lâm nghiệp
55,37
53,61
51,78
50,20
48,87
3,38
3,49
3,59
3,70
3,75
Thuỷ sản
-8
Công nghiệp khai thác mỏ
0,78
0,80
0,85
0,90
0,96
11,62
12,34
13,05
13,50
14,04
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt
0,33
0,36
0,40
0,44
0,50
Xây dựng
4,62
4,70
4,93
5,13
5,33
11,46
11,60
11,80
11,98
11,96
Khách sạn và nhà hàng
1,82
1,80
1,81
1,84
1,85
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
2,89
2,84
2,80
2,76
2,72
Tài chính, tín dụng
0,30
0,37
0,42
0,48
0,49
Hoạt động khoa học và công nghệ
0,06
0,06
0,06
0,06
0,06
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và
dịch vụ tư vấn
0,31
0,36
0,41
0,49
0,56
QLNN; bảo đảm XH bắt buộc
1,29
1,52
1,65
1,80
1,93
Giáo dục và đào tạo
2,85
2,90
3,00
3,07
3,12
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
0,83
0,85
0,86
0,87
0,89
Hoạt động văn hoá và thể thao
0,31
0,31
0,31
0,31
0,30
Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
0,30
0,35
0,40
0,44
0,49
Hoạt động phục vụ cá nhân, công cộng và dịch vụ
làm thuê
1,48
1,74
1,88
2,03
2,18
Công nghiệp chế biến
TN; sửa chữa xe có động cơ, mô tô,
xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Qua 2 bảng số liệu cho ta thấy tổng số lao động hoạt động trong các ngành
kinh tế thuộc lĩnh vực nông nghiệp (tạm tính, gồm nông lâm nghiệp và thuỷ sản)
đến 2008 là 23,647 triệu người, chiếm 52,62% trên tổng số lao động của cả nước.
Về cơ cấu lao động như vậy là quá lạc hậu so với các nước phát triển (dưới 10%).
-9
Theo Tổ chức Lương nông LHQ (FAO), năm 2005 tỷ lệ lao động nông
nghiệp ở nước ta còn quá cao (67%), trong khi đó ở nhiều nước trong khu vực Đông
Nam Á, tỷ lệ này thấp hơn nhiều: Thái Lan (56%), Indonesia (48%), Philippines
(39%) và Malaysia (18%); Theo số liệu tại bảng 1, tỷ lệ này có sai lệch (khoảng
57,1%) nhưng vẫn cao hơn so với các nước đó.
Về năng suất lao động của lao động ngành nông nghiệp cũng rất thấp, dù đã
tăng từ 4 triệu đồng/người năm 2000 lên 12,2 triệu đồng/người năm 2008 (tăng 3.05
lần trong 8 năm), song so với bình quân của tất cả các ngành kinh tế (năm 2008: 32,9
triệu đồng/người/năm) là quá thấp, mức chênh lệch lên tới gần 2,7 lần.
Nguyên nhân lao động nông nghiệp có năng suất thấp là do sản xuất nông
nghiệp chủ yếu ở quy mô nhỏ; Trong những năm qua, mặc dù diện tích đất nông
nghiệp có tăng lên, nhưng do quá trình đô thị hoá, đất phát triển công nghiệp và các
nhu cầu khác không ngừng tăng lên, nên diện tích đất nông nghiệp tăng không đáng
kể. Trong khí đó dân số tăng nhanh làm cho đất nông nghiệp bình quân đầu người
giảm. Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp chỉ còn 1.224 m2/người (bình quân trên
thế giới là 2.500 m2/người). Thấp nhất là khu vực đồng bằng sông Hồng chỉ có 497
m2. Mặt khác, đất nông nghiệp lại phân bổ manh mún. Hiện nay, cả nước có tới
hơn 75 triệu thửa ruộng, làm cho sản xuất nông nghiệp rất khó áp dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hoá, hiện đại hoá để sản xuất mang tính hàng hoá.
Đồng thời trình độ công nghệ lạc hậu, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở khu
vực nông thôn cao (xem bảng 3).
Bảng 3. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động
trong độ tuổi năm 2008 phân theo vùng(*)
Tỷ lệ thất
nghiệp
Chung
Tỷ lệ thiếu việc làm
Thành thị
Nông thôn
-10
Chung
Thành thị
Nông thôn
CẢ NƯỚC
2,38
4,65
1,53
5,10
2,34
6,10
Đồng bằng
sông Hồng
2,29
5,35
1,29
6,85
2,13
8,23
Trung du và
miền núi phía
Bắc
1,13
4,17
0,61
2,55
2,47
2,56
Bắc Trung
Bộ và duyên
hải miền
Trung
2,24
4,77
1,53
5,71
3,38
6,34
Tây Nguyên
1,42
2,51
1,00
5,12
3,72
5,65
Đông Nam
Bộ
3,74
4,89
2,05
2,13
1,03
3,69
Đồng bằng
sông Cửu
Long
2,71
4,12
2,35
6,39
3,59
7,11
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Số liệu sơ bộ.
(*)
Đặc biệt là trình độ tay nghề của lao động nông nghiệp quá thấp. Sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ tác động mạnh đến nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. Khoa học, công nghệ trực tiếp giúp nâng cao năng suất lao động,
chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp... Nhưng
do lao động nông thôn Việt Nam qua đào tạo nghề còn ít nên sản xuất nông nghiệp
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, đa số chưa đủ khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa
học, công nghệ vào sản xuất. Số lao động ở khu vực nông thôn qua đào tạo chiếm
tỷ lệ thấp, chỉ 17,65% trong năm 2006, và tăng lên 18,68% vào năm 2007. (Song theo
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, Cao Đức Phát, năm 2009 tỷ lệ lao động ở nông thôn đã
được qua đào tạo chỉ đạt 16%, trong tổng số 25 triệu nông dân).
-11
2 .2. Xu th
ế vận động của lao động khu vực nông nghiệp, nông thôn
Với tốc độ phát triển đô thị nhanh trong những năm qua, các khu đô thị luôn
được mở rộng, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế và dịch vụ tại đô thị đã
tạo sức hút lớn đối với lao động từ nông thôn. Quá trình này diễn ra cũng đồng nghĩa
với việc lao động đang dịch chuyển rất mạnh mẽ từ lao động nông nghiệp sang lao
động công nghiệp và dịch vụ.
Theo số liệu từ năm 2007, Việt Nam có 34,8 triệu lao động ở khu vực nông
thôn (chiếm 74,5%). Tuy nhiên, tỷ lệ này đang biến đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ
lệ lao động làm việc trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ, đồng
thời giảm tỷ lệ lao động trong khu vực nông lâm ngư nghiệp (năm 2006, lao động
làm việc trong nhóm ngành nông lâm ngư nghi ệp là 23,2 triệu người (chiếm
69%). Năm 2007 còn 21,7 triệu người (chiếm 62,5%), giảm 6,5%).
Xu thế này là tất yếu trong quá trình phát triển của các nước đang phát triển.
Việt Nam chúng ta cũng vậy. Song điều cần quan tâm ở đây là sự chuyển dịch này
diễn ra không như mong muốn. Thể hiện ở việc phần lớn lao động chuyển từ nông
thôn ra thành thị và chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ là lao động
chưa qua đào tạo, chưa có tay nghề cao; vì vậy họ là những người phải chấp nhận
mức thu nhập thấp, công việc bếp bênh không ổn định, rất dễ thất nghiệp và buộc
phải quay lại khu vực nông thôn và chấp nhận làm nông nghiệp (dù thu nhập rất
thấp). Tâm lý của các lao động chuyển từ khu vực nông nghiệp, nông thôn sang
thành thị và khu vực kinh tế phi nông nghiệp, là không ổn định, họ không dời bỏ hẳn
được nông nghiệp nông thôn. Hiện tượng này lý giải cho tỷ lệ thiếu việc làm (bán
thất nghiệp) ở khu vực nông thôn lên tới 6,1%. Theo tác giả Bùi Quang Bình Đại
học kinh tế Đà Nẵng, năm 2002 số người không có việc làm ở nông thôn (theo quy
đổi) lên tới 7,5 triệu người. Các vấn đề nói trên nói lên là sự chuyển dịch đó là
không có tính bền vững, dễ đẩy xã hội nông thôn đến sự xáo trộn và thiếu an toàn,
-12
đặc biệt nghiêm trọng hơn trong trường hợp gặp phải các cú sốc bất thường như
khủng hoảng kinh tế.
Trong lúc đòi hỏi nguồn nhân lực cao để đáp ứng yêu cầu phát triển nông
nghiệp nông thôn thì sức hút của khu vực này lại kém hấp dẫn. Vì vậy việc giữ
được lao động có tay nghề trình độ cao lại nông thôn nông nghiệp và từ khu vực đô
thị về là khá yếu ớt. Tình hình đó làm trầm trọng hơn sự yếu kém của nguồn nhân
lực nông nghiệp, nông thôn, tạo sức ép lớn cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho
nông nghiệp nông thôn.
2.3. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam
2.3.1. Khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực cho nông thôn, nông
nghiệp và sức ép của các khó khăn đó cho công tác đào tạo.
Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong những
năm qua luôn được quan tâm và ngày càng được quan tâm. Ở đây ta cũng cần phân
biệt rõ, nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn không chỉ nằm trong số đối
tượng là nông dân. Đó là tất cả lao động ở đầy đủ các lĩnh vực kinh tế, quản lý. Vì
nông thôn chứa đựng tất cả các yếu tố về kinh tế, văn hoá, xã hội, sản xuất và kinh
doanh (nông lâm ngư ngiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ).
Xét về nguồn nhân lực cho nông thôn: Nông thôn Việt Nam cũng như nông
thôn của các nước đang phát triển, trong đó chứa đựng toàn bộ các lĩnh vực về kinh
tế, chính trị, văn hoá xã hội. Nông thôn không chỉ đòi hỏi nguồn nhân lực có chất
lượng cho nông lâm ngư nghiệp, bởi vì nông thôn không chỉ có nông nghiệp mà có
đầy đủ các ngành thuộc nông nghiệp và dịch vụ. Vì vậy đòi hỏi cần phải có đầy đủ
nhân lực có chất lượng cho cả công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Song tâm lý phổ biến của các lao động đã được đào tạo có chất lượng cao
không muốn về nông thôn, họ bám trụ ở đô thị để có cơ hội việc làm và mức lương
-13
cao hơn. Tâm lý đó được tạo ra bởi thực tế khách quan là nông thôn không có đầy
đủ cơ sở vật chất kỹ thuật để sử dụng người lao động tay nghề cao, các cá nhân ít
có cơ hội thăng tiến về nghề nghiệp cũng như phát huy được tính năng động sáng
tạo; mặt khác là do sự ít đa dạng về sản xuất và hoạt động kinh doanh, sự không
hoàn thiện của sản xuất dẫn đến việc chỉ dừng lại ở nhu cầu sử dụng lao động
chân tay đơn giản, không có nhu cầu sử dụng lao động kỹ thuật cao và phức tạp,
thành ra người có kiến thức và tay nghề ở nông thôn trở nên bị thừa một cách bất
đắc dĩ.
Xét riêng trong lĩnh vực lao động trong nông lâm ngư nghiệp cũng bị giới hạn
bởi đặc điểm của nông nghiệp nước ta: nhỏ lẻ, manh mún và giản đơn. Thực tế
nông nghiệp nước ta vẫn rất thiếu lao động tay nghề cao cho phát triển, nhưng sự
phát triển nông nghiệp quá chậm lại làm cản trở công tác đào tạo nghề. Ví dụ đơn
giản như để có nhiều người làm cơ khí nông nghiệp thì nông nghiệp phải sử dụng
nhiều máy móc thiết bị cơ giới; để sử dụng nhiều máy móc cơ giới thì đồng ruộng
phải đủ lớn về quy mô diện tích. Song ở nước ta ruộng đất manh mún, toàn mảnh
nhỏ nên không cần máy móc, từ đó máy không có nhiều dẫn đến không có người có
nhu cầu được đào tạo về cơ khí nông nghiệp. Đây chính là nguyên nhân các cơ sở
đào tạo nghề nông nghiệp cũng không phát triển được, điều này cũng diễn ra cả trên
góc độ đào tạo tay nghề cũng như đào tạo quản lý cho nông nghiệp, nông thôn.
Xét về đào tạo nhân lực cho công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, điều tương
tự cũng xảy ra, nhưng nguyên nhân lại ở khía cạnh khác. Để có đội ngũ đông đảo
lao động có trình độ và tay nghề cao trong hoạt động thương mại, dịch vụ thì điều
cần là thương mại và dịch vụ phải phát triển. Riêng về dịch vụ, xuất phát cho sự
phát triển là nhu cầu, nhu cầu dịch vụ lại bắt đầu từ sự phân công và chuyên môn
hoá. Ở nông thôn nói chung, trong sản xuất nông nghiệp nói riêng của nước ta thì
mức độ chuyên môn hoá còn quá thấp, phần lớn các hộ nông dân còn hoạt động sản
xuất ở dạng tự cung, tự cấp dẫn đến các nhu cầu về dịch vụ thương mại hàng hoá
-14
khó phát triển. Thu nhập thấp của đa số cư dân nông thôn cũng cản trở dịch vụ phát
triển, họ không đủ để chi trả cho các dịch vụ về y tế, giáo dục, thông tin và bảo
hiểm ở mức độ trung bình. Điều này là một phần nguyên nhân làm cho các ngành
dịch vụ này ở nông thôn phát triển chậm, lao động hoạt động trong lĩnh vực này ở
nông thôn cũng có thu nhập không cao và luôn mong muốn chuyển từ nông thôn về
làm việc tại đô thị và chuyển từ các vùng sâu, vùng xa khó khăn về nơi đồng bằng.
Xu hướng này làm cho nông thôn nói chung và vùng nông thôn miền núi luôn bị mất
đi những người giỏi, mặc dù được quan tâm hơn trong công tác đào tạo.
Trên đây là những vấn đề nói lên sự khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực
cho nông thôn, nông nghiệp; Mặt khác các vấn đề đó cũng thể hiện một phần sự bất
cập cũng như sức ép đối với công tác đào tạo nhân lực cho nông nhiệp, nông thôn,
đó là: trong giai đoạn hiện nay nông thôn, nông nghiệp sự bổ sung là ít hơn sự mất
đi của nguồn nhân lực có tay nghề, năng lực và trình độ cao , nếu không muốn nói
rằng: ở nông thôn, trong nông nghiệp càng đào tạo thì càng mất đi người giỏi.
2.3.2. Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông
nghiệp.
Như đã nói ở trên, đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn không chỉ đào tạo
lao động trong sản xuất, mà cả đào tạo nhân lực cho quản lý; nông thôn không chỉ
cần có nhân lực cho nông nghiệp mà cần cả nhân lực cho công nghiệp, thương mại
và dịch vụ. Đồng thời đào tạo phải gắn liền với sử dụng, tạo công ăn việc làm, đào
tạo bổ sung đi đôi với giữ lại nhân tài cho nông thôn, nông nghiệp. Phần này chúng
ta xem xét thực trạng công tác đào tạo, các mặt thuận lợi, khó khăn và yếu kém của
nó. Sau đó kết hợp với các phân tích về thực trạng nguồn lao động và các xu thế
dịch chuyển của lao động ở nông thôn, nông nghiệp để có các khuyến nghị cho chủ
trương và chính sách.
-15
Hiện cả nước có 13 trường ĐH, CĐ có đào tạo về nông lâm nghiệp; 60%
trường TCCN, CĐ nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề về nông lâm nghiệp.
Các trường này chuyên đào tạo các cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý, đào tạo tay
nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Thực tế cho thấy nhu cầu về cán bộ
được đào tạo qua các trường này là rất lớn, nhưng hầu hết các trường này lại có sức
hấp dẫn thấp, công tác tuyển sinh gặp nhiều khó khăn trong các năm qua.
Thực tế công tác đào tạo lại đang diễn ra ngược lại với yêu cầu của nguồn
nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Các ngành về chế biến nông lâm thuỷ sản,
đào tạo lao động cho công nghiệp chế biến, rất cần cho phát triển nông thôn, đồng
thời nhu cầu về nguồn nhân công được đào tạo ở các ngành này là rất lớn; Nhưng
hàng năm các trường tuyển sinh rất khó khăn vì học sinh cho rằng sau khi tốt nghiệp
các trường này phải làm ở nông thôn, ở các vùng khó khăn nên không thích.
Các ngành về công nghiệp, xây dựng liên quan đến nông nghiệp, nông thôn
mặc dù rất dễ xin việc sau khi đào tạo nhưng cũng không có sức hấp dẫn như công
nghiệp thuỷ điện, xây dựng thuỷ lợi, cơ khí nông nghiêp vv…
Trong những năm gần đây, công tác đào tạo nghề tại chỗ cho lực lượng lao
động tại nông thôn, đào tào nghề nông nghiệp được quan tâm. Hoạt động dạy nghề
đi liền với chuyển đổi ngành nghề được áp dụng cho các địa phương có diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng như xây dựng đô thị, khu
công nghiệp. Nông dân mất đất dều được ưu tiên đào tạo chuyển đổi ngành nghề
với một phần kinh phí do ngân sách nhà nước cung cấp. Hầu các đơn vị cấp huyện
có nông nghiệp nông dân đều có trạm khuyến nông, đây là đơn vị chuyên công tác
chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân. Việc học nghề cũng được phát triển
qua các trung tâm dạy nghề cấp huyện, thông qua sự phối hợp của các đoàn thể
(như Hội Nông dân Việt Nam) với các tổ chức đào tạo.
-16
Nhìn chung về hình thức thì công tác dạy nghề cho nông dân đã có những
chuyển biến tích cực, nhất là trong một năm qua, kể từ khi có Nghị quyết số 26
NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Song vẫn còn những tồn tại yếu kém
lớn như: Đào tạo theo số lượng, chất lượng đào tạo kém, tổ chức đào tạo mang tính
hình thức, theo phong trào, nông dân không tích cực tham gia đào tạo nghề vì nhiều
chương trình đào tạo không thiết thực… Trong khi đó các cơ sở đào tạo nghề có cơ
sở vật chất yếu kém, đội ngũ giáo viên thiếu, yếu về chuyên môn, chất lượng thấp
cũng là nguyên nhân làm cho nông dân không tin tưởng vào các chương trình đào tạo
của chính phủ và không tham gia học tập tích cực.
3. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG THÔN,
NÔNG NGHIỆP; MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH.
3.1. Chủ trương và chính sách chủ yếu về đào tạo nguồn nhân lực cho
nông thôn, nông nghiệp.
Thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển đất nước, đào
tạo nhân lực cho nông nghiệp, nông dân không nằm ngoài chiến lược này. Chính
sách cho giáo dục và đào tạo đã bao hàm những điểm chung nhất cho việc đào tạo
nhân lực, trong đó có đào tạo nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp. Song với đặc thù
nông thôn, nông nghiệp có những đặc điểm riêng, với yêu cầu bức thiết trong giai
đoạn phát triển hiện nay, Đảng đã có Nghị quyết số 26NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm
2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Trong nghị quyết này, chủ trương về đào tạo nhân lực đã được
cụ thể hoá là: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản
xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân; đào tạo nghề cho bộ phận con
em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung đào tạo
-17
nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở. Hình thành chương trình mục
tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào
tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào
tạo nghề”.
Thực hiện chủ trương này, Chính phủ đã xây dựng ““Đao tao nghê cho lao
̀ ̣
̀
đông nông thôn đên năm 2020”. Đ
̣
́
ề án này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại quyết định số 1956/QĐTTg, ngày 27 tháng 11 năm 2009. Theo Đề án này, công
tác đào tạo nghề cho nông dân mang tính toàn diện: Đảm bảo đào tạo lao động có
tay nghề đáp ứng được yêu cầu cho phát triển nông thôn, nông nghiệp, cung cấp lao
động cho nhu cầu phát triển của đất nước, dần chuyển đổi cơ cấu lao đông theo
hướng tích cực, từ đó góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế đất nước, đáp ứng được
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; đồng thời có cơ cấu
lao động hợp lý khi nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020
(như mục tiêu mà Đảng và nhà nước đề ra).
3.2. Một số khuyến nghị chính sách.
Chính sách cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp
nằm trong hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, để phát huy được
yêu cầu phải có sự đồng bộ trong việc xây dựng và thực hiện. Việc hoàn thiện
chính sách đào tạo phải đi liền với việc hoàn thiện các chính sách khác. Suy rộng ra
thì chính sách đào tạo nhân lực cho nông nghiệp nông thôn cũng không thể tách rời ra
với các chính sách đào tạo nhân lực cho khu vực đô thị và các ngành công nghiệp,
thương mại dịch vụ.
Căn cứ vào tình hình thực tế của nguồn nhân lực và thực trạng công tác đào
tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay, thì chính sách sách
của nhà nước cần tập trung giải quyết một số các vấn đề sau:
-18
Thứ nhất: Tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo và hướng nghiệp từ bậc
phổ thông tại khu vực nông thôn.
Đầu tư cả về cơ sở vật chất, lẫn tạo điều kiện thuận lợi để thu hút được
đội ngũ giáo viên có chất lượng và tâm huyết thật sự với nông thôn, nông nghiệp.
Trong đó cần giải quyết chế độ thu nhập hợp lý để đội ngũ giáo viên yên tâm công
tác không bỏ nghề và bỏ địa bàn nông thôn để về thành thị, bỏ miền núi vùng sâu để
về miền xuôi.
Cải tiến chương trình giáo dục, tập trung nhiều hơn về đào tạo tay nghề,
hướng nghiệp ngành nghề để phân luồng học sinh nông thôn từ bậc trung học, trong
đó có sự phân loại học sinh theo tiêu chuẩn hợp lý để hướng học sinh vào cấp học
và ngành học hợp lý để tránh lãng phí trong đào tạo. Làm tốt việc này sẽ góp phần
tránh được hiện tượng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay, lao động ít phải đào tạo
lại và bằng lòng với nghề nghiệp đã được lựa chọn, không gây xáo trộn trong nông
thôn ngay từ lúc bước vào độ tuổi lao động của cư dân nông thôn.
Đa dạng hoá hình thức đào tạo dạy nghề như chủ trương đã đề ra, nhất là có
cơ chế ưu đãi cho các tổ chức doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề theo yêu cầu
của chính doanh nghiệp, thực hiện doanh nghiệp phải đào tạo lấy lao động, và phải
trả phí cho cơ sở đào tạo công nếu tuyển lao động từ các cơ sở đào tạo nhà nước.
Thực hiện được điều này sẽ tiết kiệm được ngân sách nhà nước trong đào tạo và
dạy nghề, vì lượng tiền ngân sách bỏ ra hỗ trợ doanh nghiệp trong liên kết đào tạo
nghề sẽ có thể ít hơn nhiều so với việc nhà nước phải bỏ kinh phí trực tiếp cho đào
tạo, hơn nữa là doanh nghiệp chịu trách nhiệm với chất lượng lao động của mình
đào tạo ra như vậy làm chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn.
Hướng ưu tiên vào các đối tượng theo học các ngành phục vụ nông thôn,
nông nghiệp như miễn giảm học phí, tăng mức học bổng cho học sinh sinh viên. Từ
đây sẽ giải quyết được tình hình khó khăn trong tuyển sinh đầu vào cho các ngành
-19
phục vụ nông thôn nông nghiệp, đồng thời lựa chọn được nhân tài thực sự vì tạo
được sự cạnh tranh trong công tác tuyển sinh ở các trường cao đẳng và đại học,
cũng như tạo điều kiện cho con em nông thôn có cơ hội học tập nhiều hơn.
Thứ hai: Hướng chính sách vào việc đãi ngộ nhân tài phục vụ ở nông thôn,
nông nghiệp, nhằm thu hút người giỏi quản lý và lãnh đạo về với nông thôn, từ đó
phá bỏ tính cục bộ địa phương và kích thích sự vươn của nông thôn trong phát hiện
và đào tạo nhân tài.
Chế độ đãi ngộ được phân thành hai loại: thu nhập và cơ hội thăng tiến trong
nghề nghiệp. Với thu nhập là tăng lương, tăng các khoản phúc lợi được hưởng để
tạo thu nhập cao cho cán bộ quản lý ở nông thôn, xoá bỏ sự bất hợp lý trong việc
hưởng lương cao theo thâm niên công tác, tập trung ưu tiên theo chế độ trả lương
theo hiệu quả công việc và tính sáng tạo.
Với cơ hội thăng tiến, tập trung vào việc phá bỏ tính cục bộ địa phương ở
nông thôn, (đây là điểm cố hữu trong văn hoá nông thôn), thực hiện chính sách luân
chuyển cán bộ hợp lý, kiên quyết không để tình trạng địa phương không sử dụng
người tài từ nơi khác đến trong khi không có người đủ tầm lãnh đạo địa phương
mình.
Đây là việc rất cần thiết để thu hút lực lượng lao động trẻ có trình độ cao đã
được về với nông thôn, nông nghiệp, đồng thời tạo áp lực lên chính cộng đồng dân
cư nông thôn trong việc tự đào tạo và phát triển nhân tài tránh sự áp đặt nguồn cán
bộ quản lý và lãnh từ cấp trên.
Thứ ba: Hướng chính sách vào giải quyết tình hình dịch chuyển lao động từ
nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác với phương châm
đào tạo từng phần theo thời gian, không nóng vội trong mục tiêu đào tạo toàn diện.
Việc di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị là xu hướng tất yếu trong
qua trình phát triển. Các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới đều đã và
-20
đang diễn ra quá trình này, ở nước ta cũng phải chấp nhận đây là một thực tế mang
tính tất yếu. Thực tế diễn ra là rất nhanh chóng mang tính cấp bách, đặt ra yêu cầu
không thể đào tạo nhân lực một cách toàn diện trong một thời gian ngắn đối với lực
lượng lao động có nguồn gốc nông thôn.
Một mặt lực lượng lao động nông thôn vừa có trình độ tay nghề thấp đồng
thời có hiểu biết xã hội và trình độ nhận thức pháp luật thấp. Việc đào tạo tay nghề
phải có thời gian và phải có môi trường lao động cụ thể làm đầu ra cho công tác đào
tạo, quá trình lao động thực tế kiếm sống nơi đô thị trong các ngành công nghiệp
dịch vụ bắt buộc các lao động này phải học tập và tích luỹ về mặt nghề nghiệp.
Nhưng để đảm bảo an toàn cho quá trình mưu sinh và chuyển đổi nghề nghiệp
trước hết lực lượng này phải được trang bị các kiến thức về xã hội, pháp luật để có
khả năng thích nghi với xã hội và môi trường sống mới nơi đô thị và ngành nghề
mới. Vì vậy việc tổ chức cho lao động nông thôn học tập các kiến thức pháp luật,
tìm hiểu về tác phong công nghiệp, văn hoá đô thị và các kinh nghiệm tồn tại trong
môi trường khác nông thôn phải tiến hành trước khi định hướng đào tạo nghề
nghiệp mới cho họ, sau đó mới là bước đào tạo nâng cao tay nghề. Như vậy chính
sách nhà nước phải đồng thời quan tâm cả hai mặt: trình độ tay nghề và trình độ xã
hội cho lao động ở nông thôn, phải có sự ưu tiên đầu tư công trong đào tạo kiến
thức xã hội, luật pháp, tác phong và môi trường cho lao động nông thôn. Kết hợp
điểm này với mục tiêu tư nhân hoá công tác đào tạo tay nghề được nêu ở khuyến
nghị thứ nhất sẽ được mô hình đào tạo toàn diện hơn, mang tính khả thi hơn.
Mặt khác lao động dịch chuyển từ nông thôn nông nghiệp sang đô thị, công
nghiệp dịch vụ chưa bền vững, một tỷ lệ lớn lao động qua thời gian lại phải quay
về với nông thôn, nông nghiệp. Quá trình này chỉ có thể không lặp lại khi nền kinh
tế đã bền vững, nông thôn đô thị, nông nghiệp công nghiệp dịch vụ phát triển
hài hoà. Như vậy khu vực đô thị không phải là không có trách nhiệm với công tác
đào tạo nhân lực cho khu vực nông thôn, nông nghiệp. Tại các đô thị, bản thân các
-21
ngành công nghiệp, dịch vụ cũng phải có các phương án đào tạo lao động cho nông
thôn, nông nghiệp. Một mặt khu vực ngoài nông thôn nông nghiệp có phương án đào
tạo cho khu vực nông thôn, nông nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc đào tạo và lựa
chọn nhân lực cho khu vực của mình, mặt khác sẽ góp phần cho việc cung cấp trở
lại cho nông thôn, nông nghiệp nguồn nhân lực có đủ năng lực hoà nhập lại nông
thôn cũng như đến nông thôn, nông nghiệp để khai thác phục vụ phát triển (cả
chung và riêng). Để nâng cao tính trách nhiệm này, nhà nước phải hướng chính sách
đến việc bắt buộc khu vực đô thị, công nghiệp, dịch vụ phải có trách nhiệm đào tạo
nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp.
KẾT LUẬN
Đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nhiệp là công việc lớn quan
trọng không thể xem nhẹ trong chiến lược phát triển đất nước nói chung, cho phát
triển nông thôn nói riêng. Tình hình nguồn nhân lực ở nông thôn, nông nghiệp hiện
nay đang tạo ra sức ép cho công tác đào tạo và định hướng chính sách rất lớn. Giải
quyết vấn đề việc làm ở nông thôn và việc làm cho lao động nông thôn, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực khu vực này là điều kiện cần để đưa đất nước phát
triển; gánh nặng đó đặt một phần lớn trong công tác đào tạo, trong tình hình công tác
này còn nhiều bất cập và yếu kém. Đảng và nhà nước đã đề ra các chủ trương và
chính sách mang tính định hướng chiến lược, song để đẩy mạnh hơn nữa, đạt kết
quả cao hơn nữa đòi hỏi phải có sự hoàn thiện không ngừng các chính sách về cả
-22
nội dung lẫn sự phối hợp. Chính sách cho cho công tác đào tạo này phải kết hợp cân
đối giữa đào tạo kiến thức tay nghề đi đôi với trang bị cho lao động kiến thức xã hội
pháp luật, trong đó đào tạo tay nghề không thể đi trước. Một điều không thể không
đề cập, đó là đến lúc mọi khu vực, mọi ngành, mọi thành phần cùng phải bắt tay
phối hợp và chia sẻ trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông
nghiệp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quang Bình Đại học kinh tế Đà Nẵng, “Sử dụng nguồn nhân lực
nông thôn Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” Ultilization of Human resources in
Vietnam’rural area.
2. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Bài: “Dạy nghề cho nông dân:
Tháo gỡ nút thắt quan trọng trong vấn đề an sinh xã hội”.
3. Chính phủ: Quyết định số 1956/QĐTTg, ngày 27/11/2009 “Quyết định phê
duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
4. Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Bắc Ninh.
-23
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 26NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm
2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn.
6. GS.TS. Đỗ Kim Chung GS.TS. Phạm Vân Đình TS Đinh Văn Đãn Ths.
Nguyễn Văn Mác Ths. Nguyễn Thị Minh Thu: Giáo trình nguyên lý kinh tế Nông
nghiệp; NXB Nông nghiệp 2009.
7. GS.TS. Phạm Vân Đình TS. Dương Văn Hiểu Ths. Nguyễn Phượng Lê:
Giáo trình Chính sách nông nghiệp NXB Nông nghiệp 2009.
8. PGS,TS Đức Vượng Báo cáo Khoa học tại Hội thảo quốc tế Việt Nam
học lần thứ ba với chủ đề: "Việt Nam: Hội nhập và phát triển", tổ chức tại Hà Nội,
Việt Nam, tháng 122008.
9. PGS.TS. Quyền Đình Hà, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội: “Bài
giảng Phát triển nông thôn”; Hà Nội, 2007.
10. Trần Nhật: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Đường xa gập
nghềnh”.
-24