Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận: Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.29 KB, 24 trang )

KHOA KINH TẾ ­ QUẢN TRỊ
BỘ MÔN QUẢN TRỊ
­­­­­­­­­­­­­

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NGUỒN NHÂN LỰC
Đề tài:

Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho  
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.

-1­


MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nông nghiệp, 
nông thôn cũng đang trong tiến trình này. Các nguồn lực đều được ưu tiên cho công 
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có nguồn nhân lực giữ vị trí  
then chốt, quyết định cho sự thành bại của công cuộc đổi mới này.
Cả 3 lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chúng ta đều không  
xem nhẹ cái nào. Tất cả đều phải phát triển, tất cả đều có yêu cầu nguồn nhân lực 
tốt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay nguồn nhân lực vừa thừa lại 
vừa thiếu. Thừa là thừa lao động chân tay, lao động giản đơn; Thiếu là thiếu lao  
động tay nghề cao, thiếu người quản lý, tổ  chức giỏi. Cả hai điều đó đều tác động 
xấu và cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn.
Để nông nghiệp, nông thôn phát triển tốt, tương xứng với kỳ vọng phát triển 
đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ  bản trở  thành nước công nghiệp,  
nghĩa là khi đó nông nghiệp, nông thôn đạt mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cơ 
bản, lực lượng lao động trong nông nghiệp và ở nông thôn lúc này phải đảm bảo là  


động lực duy trì và phát triển.
Như vậy nông nghiệp, nông thôn nước ta phải có nguồn nhân lực tốt, điều đó 
không tự nhiên có được mà phải thực hiện đào tạo. Công tác này đã và đang ở đâu?  
Để  trả  lời một phần câu hỏi lớn này chúng ta cần nghiên cứu đề  tài   “Đào tạo  
nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam ­ thực trạng, chủ trương  
chính sách và khuyến nghị giải pháp”.
-2­


2. Giới hạn nghiên cứu.
Đề  tài giới hạn trong phạm vi thời gian những năm gần đây, liên quan đến  
bức tranh nguồn nhân lực ở nông thôn và trong nông nghiệp, thực trạng công tác đào 
tạo  nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp, các thuận lợi, khó khăn và hạn chế 
của nó; từ đó có những khuyến nghị về chủ trương chính sách. Không đi sâu và mở 
rộng cho toàn bộ  các ngành kinh tế và khu vực khác ngoài khu vực nông nghiệp và 
nông thôn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu chung: Nghiên cứu thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho nông 
nghiệp, nông thôn nước ta, chủ  trương và chính sách chính hiện tại, từ  đó đề  ra 
khuyến nghị giải pháp chính.
b. Các mục tiêu cụ thể:
­ Hệ thống hoá lý thuyết về nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn; đào  
tạo nguồn nhân lực (cho nông nghiệp, nông thôn).
­ Thực trạng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
­ Xu thế vận động của nguồn nhân lực trong khu vực nông nghiệp nông thôn.
­ Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
­ Chủ trương và chính sách chủ yếu đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực  
cho nông nghiệp, nông thôn. Khuyến nghị giải pháp chính.
4. Phương pháp nghiên cứu
­ Khai thác các nguồn số liệu có sẵn đã qua xử  lý (thu thập số liệu thứ cấp)  

từ các nguồn khác nhau để mô tả thực trạng (thống kê mô tả).
­ Xây dựng khung lý thuyết để khái quát vấn đề.

-3­


NỘI DUNG

1.   LÝ   LUẬN   VỀ   NGUỒN   NHÂN   LỰC,   NGUỒN   NHÂN   LỰC   CHO  
NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
1.1. Nguồn nhân lực
Dưới đây là một số khái niệm về nguồn nhân lực:
­ Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ  trình độ  chuyên môn mà con người  
tích  luỹ   được,   có   khả   năng   đem   lại   thu   nhập   trong   tương   lai   (Beng,   Fischer   &  
Dornhusch, 1995). Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các  
tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công  
việc lao động nào đó. 
­ Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ  lành nghề,  
là kiến thức và năng lực của toàn bộ  cuộc sống con người hiện có thực tế  hoặc  
tiềm năng để phát triển kinh tế ­ xã hội trong một cộng đồng. 
­ Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hoá được trong công tác 
kế hoạch hoá ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số, bao gồm những  
người trong độ  tuổi lao động có khả  năng lao động theo quy định của Bộ  luật lao  
động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến hết 55 tuổi).
Trên cơ  sở  đó, một số  nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân lực  
hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó 
-4­


lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong 

độ  tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao  
động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ  tuổi lao động  
nhưng không có nhu cầu lao động.

1.2. Nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn.
Từ các khái niệm trên, ta có thể hiểu là: 
­ Nguồn nhân lực cho nông nghiệp hay nguồn lực con người cho nông nghiệp 
bao gồm lực lượng lao động trong nông nghiệp và lao động dự trữ cho nông nghiệp.
­ Nguồn nhân lực cho nông thôn hay nguồn lực con người cho nông thôn bao 
gồm lực lượng lao động hiện có đang phục vụ cho nông thôn và lao động dự trữ sẽ 
phục vụ cho nông thôn cũng như sẽ có ở nông thôn. Nguồn nhân lực này bao gồm cả 
số lượng lao động sẽ từ nông thôn chuyển cho khu vực đô thị và của khu vực đô thị 
cung cấp cho nông thôn.
1.3. Đào tạo nguồn nhân lực, chủ  trương chủ  yếu cho đào tạo nguồn  
nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
Theo giáo trình kinh tế lao động “Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị 
kiến thức nhất định và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm 
nhận được một số công việc nhất định. Đào tạo gồm đào tạo kiến thức phổ  thông 
và đào tạo kiến thức chuyên nghiệp”.
Theo quá trình quản trị  nhân lực đào tạo được biểu hiện là các hoạt động  
nhằm giúp cho người lao động có thể  thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ  của  
mình.
Với nguồn nhân lực thì đào tạo luôn đi liền với phát triển. Theo nghĩa rộng: 
phát triển nguồn nhân lực là tổng thể  các hoạt động học tập có tổ  chức được tiến 
-5­


hành trong những khoảng thời gian nhất định để  nhằm tạo ra sự  thay đổi hành vi 
nghề  nghiệp của người lao động. Theo nghĩa hẹp: phát triển là các hoạt động học 
tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho 

họ  những công việc mới dựa trên cơ  sở  những định hướng tương lai của tổ  chức  
hoặc phát triển khả năng nghề nghiệp của họ (giáo trình QTNL).
Một cách định nghĩa khác : Phát triển được hiểu là quá trình làm tăng kiến 
thức, kỹ  năng, năng lực và trình độ  của cá nhân người lao động để  họ  hoàn thành 
công việc ở vị trí cao hơn trong nghề nghiệp của bản thân họ (theo giáo trình KTLĐ)
Phát triển xét trên phạm vi phát triển con người thì đó là sự gia tăng giá trị cho 
con người về cả  tinh thần, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, kỹ  năng…lẫn thể  chất. Phát  
triển nguồn lực con người nhằm gia tăng các giá trị  ấy cho con người, làm cho con 
người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng 
được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển kinh tế­xã hội.
Theo Nghị  quyết số  26­NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị  lần thứ 
bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Đào  
tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn được cụ  thể  hoá là: “Tăng cường  
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ  thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến,  
hiện đại cho nông dân; đào tạo nghề cho bộ phận con em nông dân để chuyển nghề,  
xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ 
quản lý, cán bộ cơ sở. Hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề,  
phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông  
thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề”. Đây là một chủ trương  
lớn của Đảng nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn.
2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN 
LỰC CHO NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM

-6­


2.1. Tình hình lao động nông nghiệp, nông thôn hiện nay
Trong những năm gần đây, dù dã có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực 
song phần lớn lao động của nước ta vẫn  ở  nông thôn, hoạt động trong sản xuất 
nông nghiệp chiếm tỷ lệ áp đảo (xem bảng 1 và 2). 


Bảng 1. Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân ngành kinh 
tế (2004­2008)
(Đơn vị: Nghìn người)

2004

2005

2006

2007

Sơ bộ 
2008

TỔNG SỐ

41586,3

42526,9

43338,9

44173,8

44915,8

Nông nghiệp và lâm nghiệp


23026,1

22800,0

22439,3

22177,4

21950,4

1404,6

1482,4

1555,5

1634,5

1684,3

324,4

341,2

370,0

397,5

431,2


4832,0

5248,5

5655,8

5963,4

6306,2

137,2

151,4

173,4

197,0

224,6

Xây dựng

1922,9

1998,9

2136,5

2267,8


2394,0

TN;   sửa   chữa   xe   có   động   cơ,   mô   tô,  
xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình

4767,0

4933,1

5114,0

5291,9

5371,9

755,3

767,5

783,3

813,9

830,9

Thuỷ sản
Công nghiệp khai thác mỏ
Công nghiệp chế biến
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt


Khách sạn và nhà hàng
-7­


Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc

1202,2

1208,2

1213,8

1217,4

1221,7

124,9

156,3

182,8

209,9

220,1

25,0

24,5


26,0

26,9

26,9

Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài 
sản và dịch vụ tư vấn

129,7

151,4

178,7

216,0

251,5

QLNN; bảo đảm XH bắt buộc

535,6

648,4

716,9

793,2

866,9


1183,9

1233,7

1300,2

1356,7

1401,4

Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội

344,7

359,7

372,7

384,3

399,8

Hoạt động văn hoá và thể thao

128,8

132,7

134,3


136,4

134,7

Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội

125,9

149,5

171,5

192,9

220,1

Hoạt động phục vụ  cá nhân, công cộng và 
dịch vụ làm thuê

616,1

739,5

814,2

896,7

979,2


Tài chính, tín dụng
Hoạt động khoa học và công nghệ

Giáo dục và đào tạo

                                 Nguồn: Tổng cục thống kê.

Bảng 2. Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo 
ngành kinh tế.
(Đơn vị: Nghìn người)
2004

2005

2006

2007

Sơ bộ 2008

TỔNG SỐ

100,0

100,0

100,0

100,0


100,0

Nông nghiệp và lâm nghiệp

55,37

53,61

51,78

50,20

48,87

3,38

3,49

3,59

3,70

3,75

Thuỷ sản

-8­


Công nghiệp khai thác mỏ


0,78

0,80

0,85

0,90

0,96

11,62

12,34

13,05

13,50

14,04

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt

0,33

0,36

0,40

0,44


0,50

Xây dựng

4,62

4,70

4,93

5,13

5,33

11,46

11,60

11,80

11,98

11,96

Khách sạn và nhà hàng

1,82

1,80


1,81

1,84

1,85

Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc

2,89

2,84

2,80

2,76

2,72

Tài chính, tín dụng

0,30

0,37

0,42

0,48

0,49


Hoạt động khoa học và công nghệ

0,06

0,06

0,06

0,06

0,06

Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và 
dịch vụ tư vấn

0,31

0,36

0,41

0,49

0,56

QLNN; bảo đảm XH bắt buộc

1,29


1,52

1,65

1,80

1,93

Giáo dục và đào tạo

2,85

2,90

3,00

3,07

3,12

Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội

0,83

0,85

0,86

0,87


0,89

Hoạt động văn hoá và thể thao

0,31

0,31

0,31

0,31

0,30

Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội

0,30

0,35

0,40

0,44

0,49

Hoạt động phục vụ cá nhân, công cộng và dịch vụ 
làm thuê

1,48


1,74

1,88

2,03

2,18

Công nghiệp chế biến

TN; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, 
xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình

Nguồn: Tổng cục thống kê.

Qua 2 bảng số liệu cho ta thấy tổng số lao động hoạt động trong các ngành 
kinh tế  thuộc lĩnh vực nông nghiệp (tạm tính, gồm nông lâm nghiệp và thuỷ  sản) 
đến 2008 là 23,647 triệu người, chiếm 52,62% trên tổng số lao động của cả  nước. 
Về cơ cấu lao động như vậy là quá lạc hậu so với các nước phát triển (dưới 10%). 

-9­


Theo   Tổ   chức   Lương   nông   LHQ   (FAO),   năm   2005   tỷ   lệ   lao   động   nông 
nghiệp ở nước ta còn quá cao (67%), trong khi đó ở nhiều nước trong khu vực Đông 
Nam Á, tỷ  lệ  này thấp hơn nhiều: Thái Lan (56%), Indonesia (48%), Philippines 
(39%) và Malaysia (18%); Theo số  liệu tại bảng 1, tỷ  lệ  này có sai lệch (khoảng  
57,1%) nhưng vẫn cao hơn so với các nước đó.
Về năng suất lao động của lao động ngành nông nghiệp cũng rất thấp, dù đã 

tăng từ 4 triệu đồng/người năm 2000 lên 12,2 triệu đồng/người năm 2008 (tăng 3.05  
lần trong 8 năm), song so với bình quân của tất cả các ngành kinh tế (năm 2008: 32,9  
triệu đồng/người/năm) là quá thấp, mức chênh lệch lên tới gần 2,7 lần.
Nguyên nhân lao động nông nghiệp có năng suất thấp là do sản xuất nông 
nghiệp chủ  yếu  ở quy mô nhỏ;   Trong những năm qua, mặc dù diện tích đất nông 
nghiệp có tăng lên, nhưng do quá trình đô thị  hoá, đất phát triển công nghiệp và các 
nhu cầu khác không ngừng tăng lên, nên diện tích đất nông nghiệp tăng không đáng 
kể. Trong khí đó dân số  tăng nhanh làm cho đất nông nghiệp bình quân đầu người 
giảm. Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp chỉ  còn 1.224 m2/người (bình quân trên  
thế giới là 2.500 m2/người). Thấp nhất là khu vực đồng bằng sông Hồng chỉ có 497  
m2. Mặt khác, đất nông nghiệp lại phân bổ  manh mún. Hiện nay, cả  nước có tới  
hơn 75 triệu thửa ruộng, làm cho sản xuất nông nghiệp rất khó áp dụng những tiến 
bộ  khoa học kỹ  thuật, cơ  giới hoá, hiện đại hoá để  sản xuất mang tính hàng hoá. 
Đồng thời trình độ  công nghệ  lạc hậu, tỷ  lệ  thất nghiệp và thiếu việc làm  ở  khu  
vực nông thôn cao (xem bảng 3).
Bảng 3. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động 
trong độ tuổi năm 2008 phân theo vùng(*)
Tỷ lệ thất 
nghiệp
Chung

Tỷ lệ thiếu việc làm
Thành thị

Nông thôn 

-10­

Chung


Thành thị

Nông thôn 


CẢ NƯỚC

2,38

4,65

1,53

5,10

2,34

6,10

Đồng bằng 
sông Hồng

2,29

5,35

1,29

6,85


2,13

8,23

Trung du và 
miền núi phía 
Bắc

1,13

4,17

0,61

2,55

2,47

2,56

Bắc Trung 
Bộ và duyên 
hải miền 
Trung

2,24

4,77

1,53


5,71

3,38

6,34

Tây Nguyên

1,42

2,51

1,00

5,12

3,72

5,65

Đông Nam 
Bộ

3,74

4,89

2,05


2,13

1,03

3,69

Đồng bằng 
sông Cửu 
Long

2,71

4,12

2,35

6,39

3,59

7,11

 

 

 

Nguồn: Tổng cục thống kê.


 Số liệu sơ bộ.

(*)

Đặc biệt là trình độ  tay nghề  của lao động nông nghiệp quá thấp.  Sự  phát 
triển mạnh mẽ  của khoa học và công nghệ  tác động mạnh đến nông nghiệp, nông  
dân, nông thôn. Khoa học, công nghệ  trực tiếp giúp nâng cao năng suất lao động, 
chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp... Nhưng 
do lao động nông thôn Việt Nam qua đào tạo nghề còn ít nên sản xuất nông nghiệp  
chủ  yếu dựa vào kinh nghiệm, đa số  chưa đủ  khả  năng tiếp thu và ứng dụng khoa  
học, công nghệ vào sản xuất. Số lao động ở  khu vực nông thôn qua đào tạo chiếm  
tỷ lệ thấp, chỉ 17,65% trong năm 2006, và tăng lên 18,68% vào năm 2007. (Song theo  
Bộ trưởng Bộ  NN&PTNT, Cao Đức Phát, năm 2009 tỷ  lệ  lao động ở  nông thôn đã  
được qua đào tạo chỉ đạt 16%, trong tổng số 25 triệu nông dân).
-11­


 2 .2. Xu th
 
ế vận động của lao động khu vực nông nghiệp, nông thôn 
Với tốc độ  phát triển đô thị  nhanh trong những năm qua, các khu đô thị  luôn  
được mở rộng, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế và dịch vụ tại đô thị đã 
tạo sức hút lớn đối với lao động từ nông thôn.  Quá trình này diễn ra cũng đồng nghĩa 
với việc lao động đang dịch chuyển rất mạnh mẽ từ lao động nông nghiệp sang lao  
động công nghiệp và dịch vụ.
Theo số  liệu từ năm 2007, Việt Nam có 34,8 triệu lao động  ở  khu vực nông  
thôn (chiếm 74,5%). Tuy nhiên, tỷ lệ này đang biến đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ 
lệ  lao động làm việc trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ, đồng 
thời giảm tỷ lệ lao động trong khu vực nông ­ lâm ­ ngư nghiệp (năm 2006, lao động  
làm việc trong nhóm ngành nông ­ lâm ­ ngư nghi ệp là 23,2 triệu người (chiếm  

69%). Năm 2007 còn 21,7 triệu người (chiếm 62,5%), giảm 6,5%). 
Xu thế này là tất yếu trong quá trình phát triển của các nước đang phát triển.  
Việt Nam chúng ta cũng vậy. Song điều cần quan tâm ở đây là sự  chuyển dịch này  
diễn ra không như mong muốn. Thể hiện ở việc phần lớn lao động chuyển từ nông  
thôn ra thành thị  và chuyển từ  nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ  là lao động 
chưa qua đào tạo, chưa có tay nghề cao; vì vậy họ là những người phải chấp nhận 
mức thu nhập thấp, công việc bếp bênh không ổn định, rất dễ thất nghiệp và buộc 
phải quay lại khu vực nông thôn và chấp nhận làm nông nghiệp (dù thu nhập rất  
thấp). Tâm lý của các lao động chuyển từ  khu vực nông nghiệp, nông thôn sang 
thành thị và khu vực kinh tế phi nông nghiệp, là không ổn định, họ không dời bỏ hẳn 
được nông nghiệp nông thôn. Hiện tượng này lý giải cho tỷ  lệ  thiếu việc làm (bán 
thất nghiệp)  ở  khu vực nông thôn lên tới 6,1%. Theo tác giả  Bùi Quang Bình ­ Đại 
học kinh tế Đà Nẵng, năm 2002 số người không có việc làm ở  nông thôn (theo quy 
đổi) lên tới 7,5 triệu người. Các vấn đề  nói trên nói lên là sự  chuyển dịch đó là 
không có tính bền vững, dễ đẩy xã hội nông thôn đến sự xáo trộn và thiếu an toàn, 

-12­


đặc biệt nghiêm trọng hơn trong trường hợp gặp phải các cú sốc bất thường như 
khủng hoảng kinh tế.
Trong lúc đòi hỏi nguồn nhân lực cao để  đáp  ứng yêu cầu phát triển nông  
nghiệp nông thôn thì sức hút của khu vực này lại kém hấp dẫn. Vì vậy việc giữ 
được lao động có tay nghề trình độ cao lại nông thôn nông nghiệp và từ khu vực đô  
thị  về là khá yếu  ớt. Tình hình đó làm trầm trọng hơn sự yếu kém của nguồn nhân 
lực nông nghiệp, nông thôn, tạo sức ép lớn cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho  
nông nghiệp nông thôn.
2.3. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt 
Nam
2.3.1.   Khó   khăn   trong   phát   triển   nguồn   nhân   lực   cho   nông   thôn,   nông  

nghiệp và sức ép của các khó khăn đó cho công tác đào tạo.
Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong những  
năm qua luôn được quan tâm và ngày càng được quan tâm. Ở  đây ta cũng cần phân 
biệt rõ, nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn không chỉ  nằm trong số  đối  
tượng là nông dân. Đó là tất cả lao động ở đầy đủ các lĩnh vực kinh tế, quản lý. Vì  
nông thôn chứa đựng tất cả các yếu tố về kinh tế, văn hoá, xã hội, sản xuất và kinh 
doanh (nông lâm ngư ngiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ).
Xét về  nguồn nhân lực cho nông thôn: Nông thôn Việt Nam cũng như  nông  
thôn của các nước đang phát triển, trong đó chứa đựng toàn bộ các lĩnh vực về kinh  
tế, chính trị, văn hoá xã hội. Nông thôn không chỉ  đòi hỏi nguồn nhân lực có chất 
lượng cho nông lâm ngư  nghiệp, bởi vì nông thôn không chỉ  có nông nghiệp mà có  
đầy đủ các ngành thuộc nông nghiệp và dịch vụ. Vì vậy đòi hỏi cần phải có đầy đủ 
nhân lực có chất lượng cho cả công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Song tâm lý phổ  biến của các lao động đã được đào tạo có chất lượng cao 
không muốn về nông thôn, họ bám trụ ở đô thị để có cơ hội việc làm và mức lương 
-13­


cao hơn. Tâm lý đó được tạo ra bởi thực tế khách quan là nông thôn không có đầy 
đủ cơ sở vật chất kỹ thuật để sử dụng người lao động tay nghề  cao, các cá nhân ít 
có cơ  hội thăng tiến về  nghề  nghiệp cũng như  phát huy được tính năng động sáng 
tạo; mặt khác là do sự ít đa dạng về sản xuất  và hoạt động kinh doanh, sự không  
hoàn thiện của sản xuất dẫn đến việc chỉ  dừng lại  ở  nhu cầu sử  dụng lao động 
chân tay đơn giản, không có nhu cầu sử  dụng lao động kỹ  thuật cao và phức tạp,  
thành ra người có kiến thức và tay nghề   ở  nông thôn trở  nên bị  thừa một cách bất  
đắc dĩ.
Xét riêng trong lĩnh vực lao động trong nông lâm ngư nghiệp cũng bị giới hạn  
bởi đặc điểm của nông nghiệp nước ta: nhỏ  lẻ, manh mún và giản đơn. Thực tế 
nông nghiệp nước ta vẫn rất thiếu lao động tay nghề  cao cho phát triển, nhưng sự 
phát triển nông nghiệp quá chậm lại làm cản trở công tác đào tạo nghề. Ví dụ  đơn 

giản như để có nhiều người làm cơ  khí nông nghiệp thì nông nghiệp phải sử dụng  
nhiều máy móc thiết bị cơ giới; để sử  dụng nhiều máy móc cơ giới thì đồng ruộng  
phải đủ  lớn về quy mô diện tích. Song  ở nước ta ruộng đất manh mún, toàn mảnh  
nhỏ nên không cần máy móc, từ đó máy không có nhiều dẫn đến không có người có 
nhu cầu được đào tạo về cơ  khí nông nghiệp. Đây chính là nguyên nhân các cơ  sở 
đào tạo nghề nông nghiệp cũng không phát triển được, điều này cũng diễn ra cả trên 
góc độ đào tạo tay nghề cũng như đào tạo quản lý cho nông nghiệp, nông thôn.
Xét về đào tạo nhân lực cho công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, điều tương  
tự  cũng xảy ra, nhưng nguyên nhân lại  ở  khía cạnh khác. Để  có đội ngũ đông đảo 
lao động có trình độ và tay nghề cao trong hoạt động thương mại, dịch vụ  thì điều  
cần là thương mại và dịch vụ  phải phát triển. Riêng về  dịch vụ, xuất phát cho sự 
phát triển là nhu cầu, nhu cầu dịch vụ lại bắt đầu từ  sự  phân công và chuyên môn  
hoá.  Ở  nông thôn nói chung, trong sản xuất nông nghiệp nói riêng của nước ta thì 
mức độ chuyên môn hoá còn quá thấp, phần lớn các hộ nông dân còn hoạt động sản  
xuất ở dạng tự cung, tự cấp dẫn đến các nhu cầu về dịch vụ thương mại hàng hoá 
-14­


khó phát triển. Thu nhập thấp của đa số cư dân nông thôn cũng cản trở dịch vụ phát 
triển, họ  không đủ  để  chi trả  cho các dịch vụ  về  y tế, giáo dục, thông tin và bảo  
hiểm  ở  mức độ  trung bình. Điều này là một phần nguyên nhân làm cho các ngành  
dịch vụ  này  ở  nông thôn phát triển chậm, lao động hoạt động trong lĩnh vực này ở 
nông thôn cũng có thu nhập không cao và luôn mong muốn chuyển từ nông thôn về 
làm việc tại đô thị  và chuyển từ các vùng sâu, vùng xa khó khăn về nơi đồng bằng.  
Xu hướng này làm cho nông thôn nói chung và vùng nông thôn miền núi luôn bị mất  
đi những người giỏi, mặc dù được quan tâm hơn trong công tác đào tạo.
Trên đây là những vấn đề nói lên sự khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực  
cho nông thôn, nông nghiệp; Mặt khác các vấn đề đó cũng thể hiện một phần sự bất  
cập cũng như sức ép đối với công tác đào tạo nhân lực cho nông nhiệp, nông thôn,  
đó là: trong giai đoạn hiện nay nông thôn, nông nghiệp sự bổ sung là ít hơn sự mất  

đi của nguồn nhân lực có tay nghề, năng lực và trình độ  cao , nếu không muốn nói  
rằng: ở nông thôn, trong nông nghiệp càng đào tạo thì càng mất đi người giỏi.
2.3.2. Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông  
nghiệp.
Như  đã nói  ở  trên, đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn không chỉ  đào tạo 
lao động trong sản xuất, mà cả  đào tạo nhân lực cho quản lý; nông thôn không chỉ 
cần có nhân lực cho nông nghiệp mà cần cả nhân lực cho công nghiệp, thương mại  
và dịch vụ. Đồng thời đào tạo phải gắn liền với sử dụng, tạo công ăn việc làm, đào  
tạo bổ sung đi đôi với giữ lại nhân tài cho nông thôn, nông nghiệp. Phần này chúng 
ta xem xét thực trạng công tác đào tạo, các mặt thuận lợi, khó khăn và yếu kém của 
nó. Sau đó kết hợp với các phân tích về  thực trạng nguồn lao động và các xu thế 
dịch chuyển của lao động ở nông thôn, nông nghiệp để có các khuyến nghị cho chủ 
trương và chính sách.

-15­


Hiện cả  nước có 13 trường ĐH, CĐ có đào tạo về  nông lâm nghiệp; 60%  
trường TCCN, CĐ nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề  về  nông lâm nghiệp. 
Các trường này chuyên đào tạo các cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý, đào tạo tay  
nghề  cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Thực tế  cho thấy nhu cầu về  cán bộ 
được đào tạo qua các trường này là rất lớn, nhưng hầu hết các trường này lại có sức  
hấp dẫn thấp, công tác tuyển sinh gặp nhiều khó khăn trong các năm qua. 
Thực tế  công tác đào tạo lại đang diễn ra ngược lại với yêu cầu của nguồn 
nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Các ngành về chế biến nông ­ lâm ­ thuỷ sản,  
đào tạo lao động cho công nghiệp chế biến, rất cần cho phát triển nông thôn, đồng  
thời nhu cầu về nguồn nhân công được đào tạo  ở các ngành này là rất lớn; Nhưng  
hàng năm các trường tuyển sinh rất khó khăn vì học sinh cho rằng sau khi tốt nghiệp  
các trường này phải làm ở nông thôn, ở các vùng khó khăn nên không thích.
Các ngành về  công nghiệp, xây dựng liên quan đến nông nghiệp, nông thôn 

mặc dù rất dễ xin việc sau khi đào tạo nhưng cũng không có sức hấp dẫn như công  
nghiệp thuỷ điện, xây dựng thuỷ lợi, cơ khí nông nghiêp vv…
Trong những năm gần đây, công tác đào tạo nghề tại chỗ cho lực lượng lao  
động tại nông thôn, đào tào nghề nông nghiệp được quan tâm. Hoạt động dạy nghề 
đi liền với chuyển đổi ngành nghề  được áp dụng cho các địa phương có diện tích  
đất nông nghiệp bị thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng như xây dựng đô thị, khu  
công nghiệp. Nông dân mất đất dều được  ưu tiên đào tạo chuyển đổi ngành nghề 
với một phần kinh phí do ngân sách nhà nước cung cấp. Hầu các đơn vị  cấp huyện  
có nông nghiệp nông dân đều có trạm khuyến nông, đây là đơn vị  chuyên công tác 
chuyển giao khoa học kỹ  thuật cho nông dân. Việc học nghề cũng được phát triển  
qua các trung tâm dạy nghề  cấp huyện, thông qua sự  phối hợp của các đoàn thể 
(như Hội Nông dân Việt Nam) với các tổ chức đào tạo.

-16­


Nhìn chung về  hình thức thì công tác dạy nghề  cho nông dân đã có những  
chuyển biến tích cực, nhất là trong một năm qua, kể  từ  khi có   Nghị  quyết số  26­
NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương 
khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Song vẫn còn những tồn tại yếu kém 
lớn như: Đào tạo theo số lượng, chất lượng đào tạo kém, tổ chức đào tạo mang tính 
hình thức, theo phong trào, nông dân không tích cực tham gia đào tạo nghề vì nhiều  
chương trình đào tạo không thiết thực… Trong khi đó các cơ sở đào tạo nghề có cơ 
sở vật chất yếu kém, đội ngũ giáo viên thiếu, yếu về chuyên môn, chất lượng thấp  
cũng là nguyên nhân làm cho nông dân không tin tưởng vào các chương trình đào tạo  
của chính phủ và không tham gia học tập tích cực.

3. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC 
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG THÔN, 
NÔNG NGHIỆP; MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH.

3.1. Chủ  trương và chính sách chủ  yếu về  đào tạo nguồn nhân lực cho 
nông thôn, nông nghiệp.
Thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển đất nước, đào  
tạo nhân lực cho nông nghiệp, nông dân không nằm ngoài chiến lược này. Chính 
sách cho giáo dục và đào tạo đã bao hàm những điểm chung nhất cho việc đào tạo  
nhân lực, trong đó có đào tạo nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp. Song với đặc thù  
nông thôn, nông nghiệp có những đặc điểm riêng, với yêu cầu bức thiết trong giai 
đoạn phát triển hiện nay, Đảng đã có Nghị quyết số 26­NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 
2008 Hội nghị  lần thứ  bảy Ban Chấp hành Trung  ương khoá X về  nông nghiệp, 
nông dân, nông thôn. Trong nghị quyết này, chủ trương về đào tạo nhân lực đã được  
cụ  thể  hoá là: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản  
xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân; đào tạo nghề  cho bộ  phận con  
em nông dân để  chuyển nghề, xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung đào tạo  
-17­


nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở. Hình thành chương trình mục  
tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào  
tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào  
tạo nghề”.
Thực hiện chủ  trương này, Chính phủ  đã xây dựng ““Đao tao nghê cho lao
̀ ̣
̀
 
đông nông thôn đên năm 2020”. Đ
̣
́
ề án này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt  
tại quyết định số 1956/QĐ­TTg, ngày  27  tháng 11 năm 2009. Theo Đề án này, công  
tác đào tạo nghề  cho nông dân mang tính toàn diện: Đảm bảo đào tạo lao động có 

tay nghề đáp ứng được yêu cầu cho phát triển nông thôn, nông nghiệp, cung cấp lao  
động cho nhu cầu phát triển của đất nước, dần chuyển đổi cơ  cấu lao đông theo  
hướng tích cực, từ đó góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế đất nước, đáp ứng được  
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; đồng thời có cơ cấu  
lao động hợp lý khi nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 
(như mục tiêu mà Đảng và nhà nước đề ra).
3.2. Một số khuyến nghị chính sách.
Chính sách cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp 
nằm trong hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, để phát huy được 
yêu cầu phải có sự  đồng bộ  trong việc xây dựng và thực hiện. Việc hoàn thiện 
chính sách đào tạo phải đi liền với việc hoàn thiện các chính sách khác. Suy rộng ra  
thì chính sách đào tạo nhân lực cho nông nghiệp nông thôn cũng không thể tách rời ra 
với các chính sách đào tạo nhân lực cho khu vực đô thị  và các ngành công nghiệp, 
thương mại dịch vụ.
Căn cứ vào tình hình thực tế của nguồn nhân lực và thực trạng công tác đào  
tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay, thì chính sách sách 
của nhà nước cần tập trung giải quyết một số các vấn đề sau:

-18­


Thứ nhất: Tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo và hướng nghiệp từ bậc  
phổ thông tại khu vực nông thôn. 
Đầu tư  cả  về  cơ  sở  vật chất, lẫn tạo điều kiện thuận lợi để  thu hút được  
đội ngũ giáo viên có chất lượng và tâm huyết thật sự  với nông thôn, nông nghiệp.  
Trong đó cần giải quyết chế độ thu nhập hợp lý để đội ngũ giáo viên yên tâm công  
tác không bỏ nghề và bỏ địa bàn nông thôn để về thành thị, bỏ miền núi vùng sâu để 
về miền xuôi.
Cải tiến chương trình giáo dục, tập trung nhiều hơn về  đào tạo tay nghề, 
hướng nghiệp ngành nghề để phân luồng học sinh nông thôn từ bậc trung học, trong 

đó có sự phân loại học sinh theo tiêu chuẩn hợp lý để hướng học sinh vào cấp học  
và ngành học hợp lý để tránh lãng phí trong đào tạo. Làm tốt việc này sẽ góp phần 
tránh được hiện tượng thừa thầy thiếu thợ  như  hiện nay, lao động ít phải đào tạo  
lại và bằng lòng với nghề nghiệp đã được lựa chọn, không gây xáo trộn trong nông  
thôn ngay từ lúc bước vào độ tuổi lao động của cư dân nông thôn.
Đa dạng hoá hình thức đào tạo dạy nghề như chủ trương đã đề ra, nhất là có  
cơ  chế   ưu đãi cho các tổ  chức doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề  theo yêu cầu  
của chính doanh nghiệp, thực hiện doanh nghiệp phải đào tạo lấy lao động, và phải  
trả phí cho cơ sở đào tạo công nếu tuyển lao động từ các cơ  sở  đào tạo nhà nước.  
Thực hiện được điều này sẽ  tiết kiệm được ngân sách nhà nước trong đào tạo và  
dạy nghề, vì lượng tiền ngân sách bỏ ra hỗ trợ doanh nghiệp trong liên kết đào tạo  
nghề sẽ có thể ít hơn nhiều so với việc nhà nước phải bỏ kinh phí trực tiếp cho đào  
tạo, hơn nữa là doanh nghiệp chịu trách nhiệm với chất lượng lao động của mình 
đào tạo ra như vậy làm chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn.
Hướng  ưu tiên vào các đối tượng theo học các ngành phục vụ  nông thôn, 
nông nghiệp như miễn giảm học phí, tăng mức học bổng cho học sinh sinh viên. Từ 
đây sẽ giải quyết được tình hình khó khăn trong tuyển sinh đầu vào cho các ngành  

-19­


phục vụ  nông thôn nông nghiệp, đồng thời lựa chọn được nhân tài thực sự  vì tạo  
được sự  cạnh tranh trong công tác tuyển sinh  ở  các trường cao đẳng và đại học, 
cũng như tạo điều kiện cho con em nông thôn có cơ hội học tập nhiều hơn.
Thứ  hai: Hướng chính sách vào việc đãi ngộ  nhân tài phục vụ   ở  nông thôn,  
nông nghiệp, nhằm thu hút người giỏi quản lý và lãnh đạo về  với nông thôn, từ  đó  
phá bỏ tính cục bộ địa phương và kích thích sự vươn của nông thôn trong phát hiện  
và đào tạo nhân tài.
Chế độ đãi ngộ được phân thành hai loại: thu nhập và cơ hội thăng tiến trong 
nghề  nghiệp. Với thu nhập là tăng lương, tăng các khoản phúc lợi được hưởng để 

tạo thu nhập cao cho cán bộ  quản lý  ở  nông thôn, xoá bỏ  sự  bất hợp lý trong việc  
hưởng lương cao theo thâm niên công tác, tập trung  ưu tiên theo chế  độ  trả  lương  
theo hiệu quả công việc và tính sáng tạo.
Với cơ  hội thăng tiến, tập trung vào việc phá bỏ  tính cục bộ  địa phương  ở 
nông thôn, (đây là điểm cố hữu trong văn hoá nông thôn), thực hiện chính sách luân 
chuyển cán bộ  hợp lý, kiên quyết không để  tình trạng địa phương không sử  dụng  
người tài từ  nơi khác đến trong khi không có người đủ  tầm lãnh đạo địa phương 
mình.
Đây là việc rất cần thiết để thu hút lực lượng lao động trẻ có trình độ cao đã  
được về với nông thôn, nông nghiệp, đồng thời tạo áp lực lên chính cộng đồng dân 
cư nông thôn trong việc tự đào tạo và phát triển nhân tài tránh sự  áp đặt nguồn cán 
bộ quản lý và lãnh từ cấp trên.
Thứ ba: Hướng chính sách vào giải quyết tình hình dịch chuyển lao động từ  
nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác với phương châm  
đào tạo từng phần theo thời gian, không nóng vội trong mục tiêu đào tạo toàn diện.
Việc di chuyển lao động từ  nông thôn ra thành thị  là xu hướng tất yếu trong  
qua trình phát triển. Các nước phát triển và đang phát triển trên thế  giới đều đã và 
-20­


đang diễn ra quá trình này, ở nước ta cũng phải chấp nhận đây là một thực tế mang  
tính tất yếu. Thực tế diễn ra là rất nhanh chóng mang tính cấp bách, đặt ra yêu cầu  
không thể đào tạo nhân lực một cách toàn diện trong một thời gian ngắn đối với lực 
lượng lao động có nguồn gốc nông thôn.
Một mặt lực lượng lao động nông thôn vừa có trình độ  tay nghề  thấp đồng  
thời có hiểu biết xã hội và trình độ nhận thức pháp luật thấp. Việc đào tạo tay nghề 
phải có thời gian và phải có môi trường lao động cụ thể làm đầu ra cho công tác đào 
tạo, quá trình lao động thực tế  kiếm sống nơi đô thị  trong các ngành công nghiệp 
dịch vụ  bắt buộc các lao động này phải học tập và tích luỹ  về  mặt nghề  nghiệp.  
Nhưng để  đảm bảo an toàn cho quá trình mưu sinh và chuyển đổi nghề  nghiệp 

trước hết lực lượng này phải được trang bị các kiến thức về xã hội, pháp luật để có  
khả  năng thích nghi với xã hội và môi trường sống mới nơi đô thị  và ngành nghề 
mới. Vì vậy việc tổ chức cho lao động nông thôn học tập các kiến thức pháp luật,  
tìm hiểu về tác phong công nghiệp, văn hoá đô thị và các kinh nghiệm tồn tại trong  
môi   trường   khác   nông  thôn   phải   tiến   hành  trước   khi   định  hướng   đào   tạo  nghề 
nghiệp mới cho họ, sau đó mới là bước đào tạo nâng cao tay nghề.  Như vậy chính  
sách nhà nước phải đồng thời quan tâm cả hai mặt: trình độ tay nghề và trình độ xã  
hội cho lao động  ở  nông thôn, phải có sự   ưu tiên đầu tư  công trong đào tạo kiến  
thức xã hội, luật pháp, tác phong và môi trường cho lao động nông thôn. Kết hợp 
điểm này với mục tiêu tư  nhân hoá công tác đào tạo tay nghề  được nêu  ở  khuyến 
nghị thứ nhất sẽ được mô hình đào tạo toàn diện hơn, mang tính khả thi hơn.
Mặt khác lao động dịch chuyển từ  nông thôn nông nghiệp sang đô thị, công 
nghiệp dịch vụ  chưa bền vững, một tỷ lệ lớn lao động qua thời gian lại phải quay  
về với nông thôn, nông nghiệp. Quá trình này chỉ có thể không lặp lại khi nền kinh 
tế  đã bền vững, nông thôn ­ đô thị, nông nghiệp ­ công nghiệp ­ dịch vụ  phát triển  
hài hoà. Như  vậy khu vực đô thị  không phải là không có trách nhiệm với công tác 
đào tạo nhân lực cho khu vực nông thôn, nông nghiệp. Tại các đô thị, bản thân các 
-21­


ngành công nghiệp, dịch vụ cũng phải có các phương án đào tạo lao động cho nông  
thôn, nông nghiệp. Một mặt khu vực ngoài nông thôn nông nghiệp có phương án đào  
tạo cho khu vực nông thôn, nông nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc đào tạo và lựa 
chọn nhân lực cho khu vực của mình, mặt khác sẽ góp phần cho việc cung cấp trở 
lại cho nông thôn, nông nghiệp nguồn nhân lực có đủ  năng lực hoà nhập lại nông  
thôn cũng như  đến nông thôn, nông nghiệp để  khai thác phục vụ  phát triển (cả 
chung và riêng). Để nâng cao tính trách nhiệm này, nhà nước phải hướng chính sách  
đến việc bắt buộc khu vực đô thị, công nghiệp, dịch vụ phải có trách nhiệm đào tạo  
nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp.


KẾT LUẬN

Đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nhiệp là công việc lớn quan  
trọng không thể xem nhẹ trong chiến lược phát triển đất nước nói chung, cho phát  
triển nông thôn nói riêng. Tình hình nguồn nhân lực  ở nông thôn, nông nghiệp hiện  
nay đang tạo ra sức ép cho công tác đào tạo và định hướng chính sách rất lớn. Giải  
quyết vấn đề  việc làm  ở  nông thôn và việc làm cho lao động nông thôn, nâng cao  
chất lượng nguồn nhân lực khu vực này là điều kiện cần để  đưa đất nước phát 
triển; gánh nặng đó đặt một phần lớn trong công tác đào tạo, trong tình hình công tác 
này còn nhiều bất cập và yếu kém. Đảng và nhà nước đã đề  ra các chủ  trương và  
chính sách mang tính định hướng chiến lược, song để  đẩy mạnh hơn nữa, đạt kết 
quả  cao hơn nữa đòi hỏi phải có sự  hoàn thiện không ngừng các chính sách về  cả 

-22­


nội dung lẫn sự phối hợp. Chính sách cho cho công tác đào tạo này phải kết hợp cân 
đối giữa đào tạo kiến thức tay nghề đi đôi với trang bị cho lao động kiến thức xã hội 
­ pháp luật, trong đó đào tạo tay nghề không thể đi trước. Một điều không thể không 
đề  cập, đó là đến lúc mọi khu vực, mọi ngành, mọi thành phần cùng phải bắt tay  
phối hợp và chia sẻ  trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông 
nghiệp./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quang Bình ­ Đại học kinh tế  Đà Nẵng,  “Sử  dụng nguồn nhân lực  
nông thôn Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”  Ultilization of Human resources in 
Vietnam’rural area.
2.  Báo điện tử  Đảng cộng sản Việt Nam, Bài: “Dạy nghề cho nông dân: 
Tháo gỡ nút thắt quan trọng trong vấn đề an sinh xã hội”. 
3. Chính phủ: Quyết định số 1956/QĐ­TTg, ngày 27/11/2009 “Quyết định phê 

duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
4. Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Bắc Ninh.

-23­


5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 26­NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm  
2008 Hội nghị  lần thứ  bảy Ban Chấp hành Trung  ương khoá X về  nông nghiệp, 
nông dân, nông thôn.
6. GS.TS. Đỗ Kim Chung ­ GS.TS. Phạm Vân Đình ­ TS Đinh Văn Đãn ­ Ths.  
Nguyễn Văn Mác ­ Ths. Nguyễn Thị  Minh Thu:  Giáo trình nguyên lý kinh tế  Nông  
nghiệp; NXB Nông nghiệp ­ 2009.
7. GS.TS. Phạm Vân Đình ­ TS. Dương Văn Hiểu ­ Ths. Nguyễn Phượng Lê:  
Giáo trình Chính sách nông nghiệp ­ NXB Nông nghiệp 2009.
8. PGS,TS Đức Vượng ­ Báo cáo Khoa học tại Hội thảo quốc tế Việt Nam  
học lần thứ ba với chủ đề: "Việt Nam: Hội nhập và phát triển", tổ chức tại Hà Nội, 
Việt Nam, tháng 12­2008. 
9. PGS.TS. Quyền  Đình Hà, Trường  Đại học Nông nghiệp Hà Nội:  “Bài 
giảng Phát triển nông thôn”; Hà Nội, 2007.
10.  Trần   Nhật:  “Đào   tạo   nghề   cho   lao   động   nông   thôn:   Đường   xa   gập  
nghềnh”.

-24­



×