TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP ĐÔNG ĐÔ
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế: thực trạng và giải pháp
GVHD
: TS.Phạm Huy Vinh
SVTH
: Lương Thị Thanh Lan
Lớp
: K11 Kinh tế đối
ngoại
Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2009
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHO CNH, HĐH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ..................4
1.1. Các khái niệm...................................................................................................................4
1.2. Kinh nghiệm thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của một số quốc gia
trong hội nhập kinh tế quốc tế...............................................................................................18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NNL CHO CNH, HĐH Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ................................23
2.1. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam..........................................23
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam............................................................................25
2.3. Đánh giá ưu và nhược điểm của công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam trong thời gian qua..........................................................................................................32
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHO CNH, HĐH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.. 35
3.1. Phương hướng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong hội nhập kinh
tế quốc tế.................................................................................................................................35
3.2. Quan điểm về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.....................37
3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nguồn nhân lực
cho CNH HĐH ở Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế..............................................40
KẾT LUẬN.............................................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................48
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính bức thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, đối với mọi quốc gia không phân biệt lớn, nhỏ, giàu nghèo,
thì con người luôn là một trong những yếu tố quyềt định đến sự thành bại, phát
triển hay kém phát triển của quốc gia đó. Nguồn tài nguyên con người là nguồn tài
nguyên vô cùng quý giá, vừa là nguồn vật chất vừa là nguồn tinh thần đối với sự
phát triển kinh tế xã hội.
Bước vào thế kỷ XXI, khi mà khoa học công nghệ phát triển mạnh như vũ
bão và được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất kinh doanh thì việc đào tạo một đội
ngũ nhân lực có tri thức có tri thức, năng lực, phẩm chất đạo đức là vấn đề quan
tâm hàng đầu của mọi quốc gia.
Từ xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2006. Gia nhập WTO
cơ hội đến với Viêt Nam là rất nhiều nhưng thách thức không phải là ít. Điều đó
cũng đòi hỏi Việt Nam phải có một đội ngũ nhân lực có chất lượng thích ứng với
hội nhập với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trước yêu cầu bức thiết của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nguồn
nhân lực cho công nghiệp hoá hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế với Việt
Nam , em đã chọn đề tài: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế : thực
trạng và giải pháp.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Từ nghiên cứu tình hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho CNH
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế để thấy được những thành tựu và hạn chế.
Với mục đích nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh
trong thời kỳ hội nhập kinh tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực cho CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những vấn đề sau:
+ Nội dung phương pháp đào tạo nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Kết quả và hạn chế trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho CNH,
HĐH ở Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng
với sự kết hợp giữa phương pháp lịch sử và lôgic.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Là phương pháp thống kê đối chứng so
sánh, phương pháp chuyên gia và phương pháp và phân tích xử lý thông tin trên cơ
sở kết hợp các nguồn tư liệu cả trong nước và nước ngoài.
5. Nội dung khoá luận
Nội dung khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
cho CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH
ở Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
cho CNH, HĐH ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế.
4
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC.
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có thể hiểu là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất
định theo qui định của pháp luật và có khả năng tham gia lao động.
* Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng
Số lượng: Được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng
nguuồ nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực của một quốc gia là tăng số người trong
độ tuổi lao động của quốc gia đó và thời gian có thể huy động được của họ.
Việc qui định đủ độ tuổi của mỗi quốc gia là khác nhau tuỳ thuộc yêu cầu
của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn .ở Việt Nam độ
tuổi lao động đối với nữ là 15 đến 55 tuổi, đối với nam là 15 đến 60 tuổi.
5
Các chỉ tiêu về số lượng nay có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc
độ tăng dân số. Qui mô càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì đẫn đến qui mô và
tốc độ tăng nguồn nhân lựccang lớn và ngược lại.
Chất lượng : Nguồn nhân lực là trình độ chuyên môn, sức khoẻ, trình độ
văn hoá và năng lực phẩm chất của người lao động…
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua một hệ thống chỉ
tiêu,trong đó các chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khoẻ của nguuồn nhân lực :Sức khoẻ là
trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thầncủa con người thông qua chuẩn
mức đo lường chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa…Bên cạnh
đó việc đánh giấ trạnh thái sức khoẻ của người lao động còn dựa trên các chỉ tiêu
chung của một quốc gia như tỉ lệ sinh, chết, tỉ lệ tử vong, suy dinh dưỡng của trẻ
em,tuổi thọ trung bình,cơ cấu giới tính, mức GDP/đầu người…Người lao động có
sức khoẻ tốt thể hiện ở khả năng tập trung, làm việc cao độ,năng suất cao
+ Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của người lao động : chỉ tiêu nay được
lượng hoá qua các quan hệ tỉ lệ như số lượng và tỉ lệ người biết chữ , số lương và
tỉ lệ người qua các cấp học như tiểu học, phổ thông cơ sở, trung học phổ thông, cao
đẳng, đại học, trên đại học ,… lao động có trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp
thu và vận dụng một cách nhanh chóng, những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực
tiễn .
+Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực : trình
độ chuyên môn kỹ thuật là trạng thái hiểu biết, kỹ năng thực hành về một số
chuyên môn nghề nghiệp nào đó được biểu hiện qua:
Số lượng lao động đào tạo và chưa đào tạo.
Cơ cấu lao động được đào tạo.
Cơ cấu đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao cấp)
Công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn.
Trình độ đào tạo (cơ cấu bậc thợ, cơ cấu ngành nghề,…)
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, thông
qua chỉ tiêu này cho thấy nâng lực sản xuất của con người trong một doanh nghiệp
6
trong một ngành, trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, khả năng sử dụng khoa
học hiện đại vào sản xuất.
Cũng giống như các loại nguồn lực khác, nguồn nhân lực bao hàm số lượng
đặc biệt là chất lượng đóng vai trò hết sức quan trọng trong tạo ra của cải vật chất
và văn hoá cho xã hội.
1.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
1.1.2.1. Khái niệm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Vốn được hiểu là giá trị mang lại lợi ích kinh tế, vốn được biểu hiện dưới
nhiều dạng khác nhau như vốn nhân lực (con người), vốn tài chính tiền tệ,vốn hiện
vật(tài sản)… trong đó vốn nhân lực là một trong những loại vốn quan trọng nhất.
Vốn nhân lực là nguồn lực con người song không phải bất kỳ người nào
cũng có thể trở thành vốn nhân lực, cũng giống như các nguồn khác để đưa lại lợi
ích kinh tế cũng phải có giá trị, yếu tố con người muốn trở thành vốn nhân lực cũng
cần phải có giá trị, chính là giá trị sức lao động. Giá trị sức lao động cao hay thấp
phụ thuộc vào trình độ phát triển lành nghề của nhân lực. Có ý nghĩa để người lao
động trở thành vốn nhân lực không thể có con đường nào khác ngoài công tác đào
tạo nghề cho họ.
Vốn nhân lực tự nó đòi hỏi con người phải có kiến thức chuyên môn, nghề
nghiệp và để có nguồn nhân lực ngày càng cao các nhà quản lý phải quan tâm tới
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Cùng với quá trình hội nhập, công nghệ tiên
tiến dẫn tới hàng loạt nghành công nghiệp truyền thống trở nên lạc hậu và nhiều
nghành công nghiệp mới ra đời. Vì vậy chất lượng đội ngũ nhân lực cần hướng vào
việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Như vậy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là tất cả những hoạt động
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mọi tổ chức, bao gồm việc cung cấp
các kiến thức, thông tin, sự hiểu biết về tổ chức và mục tiêu của tổ chức,rèn luyện
kỹ năng và xây dựng các phẩm chất nghề nghiệp cho người lao động, giúp họ thực
hịên tốt công việc của mình cả trong hiện tại và tương lai.
1.1.2.2. Mục tiêu và vai trò của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Mục tiêu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là giúp cho người lao động
tiếp thu các kiến thức, học các kỹ năng mới và thay đổi các quan điểm hành vi cho
7
phù hợp với công việc, giúp họ thực hiện công việc hiệu quả hơn và giúp doanh
nghiệp khai thác được tối đa nguồn nhân lực của mình. Từ đó mà doanh nghiệp có
thể đạt được mục tiêu đề ra.
Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các nội dung:
+ Đào tạo kiến thức phổ thông.
+ Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp.
Trang bị kiến thức đào tạo được chia ra:
+ Đào tạo mới: đã được áp dụng đối với những người chưa có nghề.
+ Đào tạo lại: đào tạo những người đã có nghề song vì lý do nào đó nghề của
họ không còn phù hợp nữa.
+ Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề : nhằm bồi dưỡng nâng cao kiến thức
và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận những công việc
phức tạp hơn.
Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của đội
ngũ lao động. Để đạt tới trình độ nào đó trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn
nhân lực.
Nghề được hiểu là một tập hợp hay toàn bộ những công việc tương tự về
nội dung và có liên quan với nhau ở mức độ nhất định. Đòi hỏi người lao động phải
có những hiểu biết về chuyên môn và nghiệp vụ,đòi hỏi phải có kinh nghiệm, kỹ
năng để thực hiện công việc nào đó.
Đối với người lao động, đào tạo và phát triển giúp người lao động làm việc
tốt hơn, đồng thời mang lại cho họ sự thoả mãn về nhu cầu thăng tiến và thành đạt.
Đào tạo và phát triển nâng cao năng lực của người lao động, vì thế giúp họ làm
việc tốt hơn và ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn do họ có được cách nhìn và tư
duy mới mẻ. Bên cạnh đó, phát triển nguồn nhân lực lại làm tăng khả năng thích
nghi của người lao động đối với những biến đổi của công việc trong tương lai, giúp
họ mở rộng tầm nhìn và mang lại cho họ sự tự tin, thoả mãn, đồng thời giúp họ
tiến những bước dài trong nấc thang sự nghiệp của mình.
Việc đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho nguồn nhân lực thực sự cần
thiết vì hàng năm có nhiều thanh niên bước vào tuổi lao động nhưng chưa được đào
tạo một nghề, một chuyên môn nào, ngoài trình độ văn hoá phổ thông. Cùng với nền
8
kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu công nghệ thay đổi, sản xuất ngày càng phát triển
cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, phân công lao động sâu
sắc,nhiều nghề chuyên môn cũ thay đổi, chuyên môn mới ra đời. Đội ngũ nhân lực
cần phả được đào tạo nâng cao thêm cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Không
chỉ đáp ứng được yêu cầu đội ngũ nhân lực trước mắt mà còn trong tương lai.
Đối với xã hội, hoạt động đào tạo và phát triển giúp cho xã hội có được
nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy sự hợp tác và phát triển trong xã hội.
Nguồn nhân lực được đào tạo và phát triển sẽ có những năng lực, phẩm chất cần
thiết, đáp ứng yêu cầu công việc trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Đồng thời
con người được đào tạo và phát triển sẽ mang lại những phẩm chất tốt do có quá
trình làm việc nghiêm túc và hiệu quả. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực được đào tạo
và phát triển sẽ làm việc tốt hơn, các doanh nghiệp do vậy cũng hoạt động có hiệu
quả hơn. Vì vậy, xã hội doanh nghiệp người lao động tăng cường mối quan hệ
hợp tác với nhau, thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển đều là công việc cung cấp kiến thức, rèn luyện các kỹ
năng phẩm chất nghề nghiệp cho người lao động; tuy nhiên đào tạo nhấn mạnh
đến việc huấn luyện trong hiện tại và chú trọng đến công việc trong hiện tại, còn
phát triển là chú trọng đến các công việc trong tương lai. Như vậy, đào tạo luôn
gắn với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của doanh nghiệp. Đào tạo chỉ đáp ứng
yêu cầu công việc hiện tại, còn phát triển giúp thoả mãn nhu cầu thăng tiến và làm
tăng khả năng thích ứng của người lao động đối với những biến đổi của công việc
trong tương lai.
1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế đã được các nhà kinh
tế khẳng định và chứng minh. Đi tiên phong trong hướng này có các nhà kinh tế
thuộc cách tiếp cận phần dư. Xuất phát từ các nỗ lực giải thích nguồn gốc tăng
trưởng kinh tế bằng các hàm số sản xuất theo mô hình tân cổ điển, các tác giả của
phương pháp tính toán tăng trưởng đã gặp phải những phần dư không giải thích
9
được giữa đầu vào và đầu ra. Nguồn gốc chính của sự chênh lệch không được giải
thích được coi là giáo dục. Phần dư được R. Solow tìm ra, lúc đầu, đạt tới mức rất
lớn, 90% của sự tăng sản lượng của một người lao động trong một giờ trong
trường hợp phân tích nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của
Denision lại chỉ ra tác động của giáo dục, bằng cách trừ đi phần đóng góp cho tăng
trưởng của các loại đầu vào khác, như lao động và vốn, ở mức thấp hơn nhiều.
Theo Denision, giáo dục đóng góp 23% tăng trưởng thu nhập quốc dân và 42% tăng
trưởng thu nhập đầu người trong nền kinh tế Mỹ trong giai đoạn 1929 1957. Kết
quả này, theo một số nhà kinh tế lượng vẫn là cao do bỏ qua một số biến số quan
trọng cần được đưa vào. Tuy vậy, một công trình nghiên cứu khác của Griliches,
tính toán hàm sản xuất đối với sản phẩm ngô lai trong nền kinh tế Mỹ vần khẳng
định vai trò to lớn của giáo dục, cho rằng giáo dục đóng góp đáng kể đối với năng
suất. Mô hình tăng trưởng dân số cổ điển chủ yếu được dùng cho các tính toán tăng
trưởng nói trên là mô hình SolowSwan, sử dụng hàm số sản xuất tổng thể dưới
dạng: Y(t) = F {K(t), L(t),t}
Trong đó Y(t) là tổng sản lượng tại điểm t, K(t) và L(t) là vốn và lao động tại
thời điểm t, hàm sản xuất Y(t) phụ thuộc vào thời điểm t, chỉ trình độ của tiến bộ
công nghệ tậi thời điểm t. Mô hình này sử dụng các giả thiết về lợi tức không đổi
theo quy mô, lợi tức giảm dần đối với mỗi dàu vào lao động và vốn và hệ số co
giãn thay thế giữa hai đầu vào là dương và thuần nhất. Điểm mạnh của mô hình
này xét từ góc độ lý thuyết tăng trưởng, là ở hai dự đoán mà mô hình có thể đưa ra.
Thứ nhất, đó là sự hội tụ có điều kiện. Theo mô hình này, những quốc gia có GDP
bình quân đầu người thấp, trong tầm dài hạn sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh hơn nếu trnh thủ được các cơ hội. Sự hội tụ về thu nhập bình quân đầu
người là có điều kiện bởi vì tỷ lệ tăng trưởng đó phụ thuộc vào vốn bình quân đầu
người, sản lượng bình quân đầu người, tỷ lệ tiết kiệm và tốc độ tăng dân số. Tính
điều kiện này có ý nghĩa quan trọng cho phép sử dụng để giải thích sự khác biệt
tăng trưởng giữa các nền kinh tế do các yếu tố nói trên khác nhau theo mỗi nước.
Dự đoán thứ hai của mô hình này nếu không cải tiến công nghệ liên tục thì tăng
trưởng thu nhập trên đầu người sẽ dừng lại. Điều này chỉ ra tầm quan trọng của
cải công nghệ liên tục trong một nền kinh tế. Tuy vậy trong mô hình này tiến bộ
10
công nghệ chỉ là một yếu tố ngoại sinh. Hiện tượng phần dư cũng đã được các nhà
lý thuyết của trường phái cách tiếp cận phần dư cho rằng do nguyên nhân chệch
hướng, tức chưa đưa hết các biến giải thích tăng trưởng vào. Theo họ, biến số đó
chính là giáo dục, giáo dục có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Như chúng ta đã biết, xét đến cùng yếu tố giữ vai trò chi phối, quyết định sự
vận động và phát triển của xã hội chính là lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, yếu tố
quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất chính là con người.
Trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ vai trò quyết định sức mạnh
của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên và trí tuệ hoá lao động đang
trở thành xu thế phổ biến. Vì vậy để thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, hơn lúc nào hết, chúng ta phải nhanh chóng nâng cao năng lực trí tuệ, vốn
văn hoá, kỹ năng và trình độ về chuyên môn nghề nghiệp cho người lao động, đồng
thời phải quan tâm đặc biệt đến đội ngũ lao động chất xám, khai thác tốt nhất tiềm
năng và sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc và thời đại.
Nói một cách tổng quát, trong toàn bộ sự phát triển xã hội, con người luôn
luôn tồn tại với hai tư cách: vừa là chủ thể, vừa là đối tượng. Là chủ thể,con người
quyết định sự phát triển xã hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất; là đối
tượng, con người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Không có con
người thì không có sự phát triển. Trong sự tiến hoá của lịch sử trái đất, con người
là trung tâm.
Đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vị trí trung tâm của nguồn
lực con người biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, nguồn lực con người là chủ
thể trực tiếp, hiện thực, quyết định toàn bộ quá trình CNH, HĐH. Điều này được
thể hiện từ khâu xác định mục tiêu, nội dung, cách thức công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đến việc tổ chức khai thác nguồn nhân lực khác để thực hiện CNH, HĐH. Bản
thân các nguồn lực khác tự nó không thể tham gia vào quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, chúng chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội và thực sự trở thành
nguồn lực của quá trình CNH, HĐH khi được kết hợp với sức lực và trí tuệ của con
người. Quá trình CNH, HĐH sẽ không thể đạt được kết quả tốt, thậm chí thất bại,
nếu không lựa chọn được mô hình đúng, các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu
11
hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ
các nguồn lực khác.
Bản thân các nguồn lực con người là khách thể được khai thác triệt để
trong quá trình CNH, HĐH. Đó là toàn bộ những năng lực và phẩm chất sinh lý tâm
lý xã hội của con người được phản ánh qua hai yếu tố cơ bản là thể lực và trí
lực. Trong điều kiện ngàu nay, khi cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại
phát triển mạnh mẽ, trí tuệ hoá lao động đang trở thành xu thế phổ biến, thì cái cần
được tập trung khai thác ở nguồn nhân lực con người cho quá trình CNH, HĐH
chính là tiềm năng trí tuệ. Vì vậy, việc nuôi dưỡng phát triển và khai thác, sử dụng
có hiệu quả sức lao động, nhất là trí lực, trở thành yêu cầu cấp bách và hàng đầu
trong toàn bộ quá trình CNH, HĐH.
Con người là đối tượng duy nhất mà chính quá trình CNH, HĐH phải
hướng vào phục vụ. Do đó, tư tưởng cơ bản chỉ đạo toàn bộ quá trình CNH, HĐH
là CNH, HĐH vì con người. Điều này đòi hỏi quá trình CNH, HĐH phải giải quyết
toàn diện các yêu cầu: Tăng trưởng đi đôi với phát triển, gắn tăng trưởng kinh tế
với việc đáp ứng phúc lợi của nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội, với bảo
vệ và cải thiện môi trường sống cho con người đạt tới phát triển bền vững.
Như vậy vị trí trung tâm của nguồn lực con người trong quá trình CNH
HĐH, thể hiện ở chỗ, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là động lực,
vừa là mục tiêu của CNH, HĐH, vừa là đối tượng được thụ hưởng thành quả của
CNH, HĐH. Điều đó có nghĩa là CNH, HĐH do con người và vì con người; mối
quan hệ giữa nguồn lực con người và CNH, HĐH là mối quan hệ biện chứng, trong
đó nguồn lực con người giữ vai trò quyết định nội dung, cách thức và kết quả của
quá trình CNH, HĐH.
Để thực hiện thành công CNH, HĐH, phải có các nguồn nhân lực cần thiết
như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên,… trong đó nguồn lực con
người giữ vai trò quyết định. Sự khẳng định này xuất phát từ vị trí, đặc điểm và sức
mạnh của nguồn nhân lực con người trong quan hệ so sánh với các nguồn lự khác
và trong mối quan hệ hữu cơ với các nguồn lực khác đối với toàn bộ quá trình CNH,
HĐH.
12
Các nguồn lực cho quá trình CNH, HĐH đều quan trọng và cần thiết, song
nếu có đủ các nguồn lực khác mà không có những con người có những phẩm chất
và năng lực tương xứng, đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì sự giàu có của
các nguồn lực khác cũng không phát huy được tác dụng. Nói cách khác, các nguồn
lực khác chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển của xã hội khi được kết hợp với nguồn
lực con người, thông qua sự tác động, khai thác hợp lý của con người nguồn lực
con người là yếu tố tất yếu, không thể thay thế được.
Trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội thì nguồn lực con
người mà cái cốt lõi là trí tuệ có tiềm năng vô tận. Mối quan hệ giữa trí tuệ con
người là mối quan hệ biện chứng. Vì vậy, việc phát huy nguồn lực con người trong
quá trình CNH, HĐH đòi hỏi trước hết phải tìm cách nuôi dưỡng, kích thích sự sáng
tạo của con người, khai thác tốt tiềm năng trí tuệ to lớn của cả cộng đồng.
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn, nhất là trong điều kiện ngay
nay, khi trí tuệ lao động đang trở thành xu thế phổ biến, đối tượng khai thác đang
được chuyển vào chính bản thân con người. Giờ đây, trí tuệ trở thành nền tảng sức
mạnh của mỗi quốc gia và được coi là tài nguyên của mọi tài nguyên.
Như vậy, nguồn lực con người là nguồn lực nội tại, cơ bản tất yếu, giữ vị
trí trung tâm trong hệ thông các nguồn lực của sự phát triển xã hội; là chủ thể trực
tiếp, hiện thưv quyết định toàn bộ sự nghiệp CNH, HĐH; đồng thời là đối tượng
được thụ hưởng những thành quả của công cuộc CNH, HĐH.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn chú ý khai thác
một cách hợp lý các nguồn lực tự nhiên, kết hợp với mục tiêu phát triển kinh tế với
phát triển xã hội.Từ thực tế phát triên kinh tế xã hội của nước ta những năm qua
cùng với kinh nghiệm của các nước đi trước đã chỉ ra rằng việc đầu tư vốn và công
nghệ sẽ không hiệu quả nếu không có nguồn nhân lực tương xứng với các yêu cầu
của phát triển.
Xuất phát từ thực tế cũng như xu hướng đầu tư và phát triển của các nước
trên thế giới,bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, mà đặc
biệt là từ Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn vai
trò của nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế xã hội.Từ đó đến nay, Đảng ta
luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đảng ta đã
13
khẳng định: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát huy nguồn nhân lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá
hiện đại hoá. Chính vì thế, nguồn nhân lực được coi là nguồn lực quan trọng nhất.
“quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt là đối với nước ta,khi nguồn lực tài
chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”.
Là một nước nông nghiệp nghèo nàn, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế của
chúng ta còn rất nhiều hạn chế, trong khi đó để tiến hành CNH, HĐH ở nước ta
không thể sớm hoàn thành. Đảng và Nhà nước ta đã xác định đất nước ta cần phát
huy nguồn lực quan trọng nhất để tiến hành CNH, HĐH đất nước là nguồn nhân
lực con người. Do vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là biện pháp giúp chúng
ta có thể khai thác các nguồn lực trong nước một cách có hiệu quả.
Trước hết, chúng ta cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp
ứng yêu cầu của công tác chuyển giao công nghệ. Hiện nay, nhiều nước trên thế
giới đã bước vào nền kinh tế hậu công nghiệp kinh tế tri thức, trong khi đó Việt
Nam mới chỉ bắt đầu thời kỳ CNH, HĐH, khoảng cách lạc hậu về trình độ phát
triển kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới có nguy cơ
ngày càng xa. Vì vậy, nước ta phải tranh thủ các lợi thế của người đi sau để có thể
học tập kinh nghiệm của các nước đi trước để có thể rút ngắn được khoảnh cách
tụt hậu đó. Theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, chúng ta cần nhanh chóng phát triển
công nghệ theo hướng đi thẳng vào công nghệ hiện đại để có thể đi trước đón đầu,
nhanh chóng bắt kịp các nước trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để có thể thực hiện mục tiêu đó một cách có
hiệu quả, đòi hỏi nước ta phải có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, đội
ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ cao để vừa có khả năng tiếp nhận khoa học
công nghệ, vừa có khả năng tiếp nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để
khắc phục tình trạng thiếu vốn ở trong nước, đồng thời tổ chức quản lý và sử dụng
các nguồn vốn đó một cách hiệu quả trong CNH, HĐH và góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ cách nhìn nhận trên cho thấy, nguồn nhân lực đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ của
chúng ta là cùng với tăng cường số lượng phải không ngừng nâng cao chất lượng
14
để có thể phát huy vai trò to lớn đó của nguồn nhân lực để nguồn nhân lực thực sự
thành động lực quan trọng đẩy nhanh nhịp độ CNH, HĐH đất nước.
1.1.4. Nội dung và phương pháp đào tạo nguồn nhân lực cho CNH – HĐH
ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.4.1. Nội dung đào tạo và phát triên nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển chuyên môn kĩ thuật là nội dung đào tạo căn bản
nhất vì không có chuyên môn thì người lao động không thể làm việc được. Đào tạo
và phất triển chuyên môn – kĩ thuật bao gồm đào tạo các tri thức nghề nghiệp, các
kỹ năng nghề nghiệp và các phẩm chất, kinh nghiệm nghề nghiệp.
Đào tạo và phát triển kỹ năng cơ bản. Những kỹ năng cơ bản là những kỹ
năg cần thiết đối với hầu hết người lao động, bao gồm kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
ngoai ngữ. Đào tạo và phát triển những kỹ năng này giúp cho người lao động có thể
hoà nhập dễ dàng với môi trường làm việc và thực hiên công việc một cách tốt hơn.
Đào tạo và nâng cao trình độ chính trị và lý luận là đào tạo để nâng cao
phẩm chất chính trị và trang bị lý luân cho người lao động. Nội dung đào tạo này
thường thấy ở các doanh nghiệp nhà nước. Đào tạo chính trị thường gồm các nghị
quyết, đương lối, cính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản pháp luật, đạo đức
kinh doanh, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đào tạo về lý luận nhận thức bao
gồm các học thuyết kinh tế, các quy luật kinh tế, quy luật tự nhiên, quy luật xã hội.
Đào tạo về phương pháp tác nghiệp giúp cho nhân viên nắm được
phương pháp làm việc khoa học và đúng đắn. Đào tạo và phát triển phương pháp
tác nghiệp thường nằm dưới dạng các thủ tục và quy trình làm việc; nhân viên
được hướng dẫn các quy trình này để làm việc đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.4.2. Phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực rất đa dạng, với nhiều
loại hình đào tạo: Đại học, sau đại học, trung học chuyên nghiệp, trung cấp nghề,
công nhân kỹ thuật… Đồng thời cách thức đào tạo cũng đa dạng với các hình thức:
tại chức, đào tạo ngắn hạn, phương pháp đào tạo cần gắn với các loại hình cụ thể
trong môi trường cụ thể.
15
Ví dụ phương pháp đào tạo nguồn lực cho doanh nghiệp, các phương pháp
đào tạo rất đa dạng và phù hợp với từng đối tượng từ sinh viên thực tập, công nhân
trực tiếp sản xuất, cấp quản trị tuyến thứ nhất (kiểm soát viên, quản đốc phân
xưởng) đến cấp quản trị trung cấp và cao cấp. Bảng 1 là cái nhìn tổng quan về đào
tạo và phát triển. Có 18 phương pháp đào tạo và phát triển cho 3 đối tượng gồm các
nghành quản trị, các chuyên viên ở mức khởi điểm và công nhân trực tiếp sản xuất.
Các phương pháp này được áp dụng tại nơi làm việc hoặc ngoài nơi làm việc.
Bảng 1.1: Các phương pháp đào tạo và phát triển
Áp dụng cho
Thực hiện tại
Quản
Phương pháp
trị gia
Công
Cả hai
Tại nơi
Ngoài nơi
Nhân
cấ p
làm việc
làm việc
1. Dạy kèm
2. Trò chơi kinh doanh
3. Điển quản trị
4. Hội nghị / Thảo luận
5. Mô hình ứng xử
6. Huấn luyện tại bàn giấy
7. Thực tập sinh
8. Đóng lịch
9. Luân phiên công việc
10. Giảng dạy theo thứ tự
viên
_
X
x
x
x
x
x
x
_
_
_
0
0
0
0
0
0
0
_
_
x
0
0
0
0
0
0
0
x
x
X
0
0
0
0
0
X
0
X
0
0
x
x
x
x
x
0
x
0
x
chương trình
11. Giảng dạy nhờ MTV hỗ
_
_
x
0
x
trợ
12. Bài thuyết trình trong lớp
13. Đào tạo tại chỗ
14. Đào tạo học nghề
15. Dụng cụ mô phỏng
16. Đào tạo nơi xa làm việc
_
0
0
0
0
_
x
x
x
x
x
0
0
0
0
0
X
X
0
0
x
0
0
x
x
và
chuyên
16
Ghi chú : : áp dụng cho cả hai cấp quản trị và công nhân
0 : không áp dụng
x : áp dụng
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực với tư cách là yếu tố quan trọng nhất
của tổ chức, là nhiệm vụ thiết yếu đối với tất cả các doanh nghiệp để tồn tại,
cạnh tranh và phát triển nhất là trong thời kỳ hội nhập như hiện nay.
Việc xây dựng chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bao gồm 7
bước.
* Bước 1: Xác định nhu cầu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong điều
kiện hội nhập.
Công việc đầu tiên và trước mắt trong đào tạo và phát triển nhân lực chính là
xác dịnh rõ nhu cầu đào tạo và phát triển. Nhu cầu có thể phát sinh khi doanh
nghiệp tuyển nhân viên mới, cần phải đào tạo để giúp cho nhân viên hội nhập với
công việc và trong môi trường làm việc của doanh nghiệp; hoặc nhu cầu cũng phát
sinh khi doanh nghiệp cần bổ sung thêm những kiến thức, kĩ năng cho nhân viên để
đáp ứng với những sự thay đổi và những yêu cầu mới của công việc. “Xác định nhu
cầu đào tạo và phát triển là xác định khi nào, cần đào tạo những kĩ năng nào, cho
những loại lao động nào, và bao nhiêu người”. Để xác định được nhu cầu đào tạo
và phát triển, doanh nghiệp cần phải thực hiện các phân tích: phân tích doanh
nghiệp, phân tích tác nghiệp và phân tích nhân viên.
Phân tích doanh nghiệp là phân tích chiến lược kinh doanh và kế hoạch nhân
sự của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh của mỗi thời kỳ cho thấy mục tiêu
của doanh nghiệp trong thời kỳ đó. Mục tiêu này đặt ra những kiến thức, kỹ năng
đối với người lao động trong những thời điểm khác nhau, do đó quyết định đến nhu
cầu đào tạo và phát triển của tổ chức.
Kế hoạch nhân sự của tổ chức cho biết sự thay đổi trong cơ cấu lao động
như số lượng lao động cần tuyển dụng mới, tỷ lệ thuyên chuyển công tác, số lao
động về hưu, vắng mặt dài hạn, kỷ luật lao động, tai nạn; từ đó giúp cho nhà qủn
17
trị nắm dược tình hình lao động hiện tại của doanh nghiệp để xác định nhu cầu đào
tạo và phát triển để chuẩn bị cho những chức vụ sẽ bị trống trong tương lai.
Phân tích tác nghiệp là phân tích những kiến thức, kỹ năng phẩm chất cần có
của người lao động để có thể thực hiện tốt công việc được giao, qua đó xác định
được nội dung cần đào tạo và phát triển.
Phân tích nhân viên là phân tích những kiến thức, kỹ năng và phẩm chất hiện
có của nhân viên; phân tích xem họ còn thiếu những phẩm chất và kỹ năng nào để
có thể kịp thời bổ sung, đáp ứng yêu cầu công việc. Phân tích nhân viên còn bao
gồm cả phân tích nguyện vọng của nhân viên để giúp họ thoả mãn nhu cầu đào tạo
và phát triển. Nhu cầu của người lao động góp phần ảnh hưởng đến hoạt động của
tổ chức, và ảnh hưởng đến nhu cầu của toàn bộ tổ chức. Vì vậy phân tích nhu cầu,
nguyện vọng của nhân viên là góp phần giúp nhà quản trị xác định nhu cầu đào tạo
và phát triển của cả tổ chức. Vì vậy phân tích nhu cầu, nguyện vọng của nhân viên
là góp phần giúp nhà quản trị xác định nhu cầu đào tạo và phát triển của cả tổ chức.
* Bước 2: Xác định mục tiêu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Sau khi xác định được nhu cầu, bước tiếp theo của doanh nghiệp cần phải
thực hiện là xác định được mục tiêu đào tạo và phát triển. Doanh nghiệp trả lời cho
câu hỏi: “Đào tạo và phát triển để làm gì?”; từ đó vạch ra mục tiêu cụ thể của việc
đào tạo và phát triển. Mục tiêu đào tạo và phát triển bao gồm những kiến thức, kỹ
năng dự kiến và thời gian đào tạo đề ra là bao nhiêu và bao lâu. Mục tiêu đào tạo và
phát triển gắn liền với mục tiêu chung của tổ chức và nằm trong chiến lược phát
triển của tổ chức.
* Bước 3: Lựa chon đối tượng đào tạo và phát triển.
Đối tượng đào tạo và phát triển là những con người cụ thể được lựa chọn
để đào tạo và phát triển. Thông qua việc phân tích nhân viên, doanh nghiệp sẽ xác
định những nhân viên cụ thể nào cần được đào tạo để đáp ứng với những yêu cầu
của công việc cả trong hiện tại và tương lai.
* Bước 4: Xây dựng chương trình và lựa chọn phương pháp đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực.
Xây dựng chương trình đào tạo là xây dựng hệ thống bài giảng, các môn học
cần thiết để đào tạo các kỹ năng còn thiếu. Dựa trên chương trình đào tạo và đặc
18
điểm nghề nghiệp của nhân viên mà có những phương pháp đào tạo và phát triển
khác nhau.
* Bước 5: Dự tính chi phí đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Dự tính chi phí đào tạo và phát triển là một bước rất quan trọng trong quá
trình tổ chức thực hiện đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bởi vì nó quyết định
việc lựa chọn các phương pháp đào tạo và việc lựa chọn giáo viên. Doanh nghiệp
cần phải cân nhắc những ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp đào tạo
trong mối quan hệ với chi phí đào tạo và phát triển để đưa ra những quyết định
đúng đắn phù hợp.
* Bước 6: Lựa chọn, đào tạo giáo viên.
Doanh nghiệp có thể chọn giáo viên là người trong doanh nghiệp, cũng có
thể là những người ở bên ngoài doanh nghiệp. Thường việc lựa chọn giáo viên
trong doanh nghiệp tốn chi phí ít hơn và việc đào tạo sẽ sát với yêu cầu công việc,
những giáo viên ở bên ngoài lại giảng dạy có tính hệ thống hơn. Việc đào tạo giáo
viên thường được áp dụng những giáo viên là người bên trong doanh nghiệp, do họ
còn thiếu tính sư phạm và những kĩ năng trong việc giảng dạy.
* Bước 7: Đánh giá chương trình và kết quả đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực.
Sau khi thực hiện chương trình đào tạo và phát triển thì đánh giá là một công
việc không thể thiếu được vì nó giúp cho doanh nghiệp chương trình giảng dạy có
đạt hiệu quả và mục tiêu mong muốn hay không. Đánh giá chương trình và kết quả
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vừa chỉ ra cho doanh nghiệp những thành quả
đạt được, đồng thời cũng thể hiện những mặt còn yếu kém để doanh nghiệp rút ra
kinh nghiệm và khắc phuc trong những chương trình đào tạo sau này. Đánh giá kết
quả đào tạo bao gồm đánh giá kết quả học tập của học viên và dánh giá tình hình áp
dụng những kiến thức, kỹ năng được đào tạo vào việc thực hiện công việc của học
viên.
Đánh giá kết quả học tập của học viên là đánh giá xem học viên đã tiếp thu
được những gì sau khi đào tạo.Việc đánh giá kết quả học tập giúp doanh nghiệp
nắm được những kiến thức và kinh nghiệm mà nhân viên đã tiếp thu được, tuy
nhiên nó chỉ phản ánh bề ngoài kết quả đào tạo, vì kết quả thực chất chỉ có được
19
khi nhân viên áp dụng được những kiến thức và kinh nghiệm đó vào trong công
việc. Tình hình thực tế được đánh giá qua các tiêu chí như năng suất lao động, thái
độ làm việc, chất lượng công việc, hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị.
Các phương pháp đánh giá kết quả của học viên bao gồm phỏng vấn, chắc
nghiệm, viết báo cáo dưới dạng chuyên đề, xử lý tình huống. Đánh giá kết quả
thực hiện công việc của học viên sau đào tạo bao gồm ba phương pháp cơ bản là
đánh giá thành tích sau đào tạo; đánh giá thành tích trước và sau đào tạo; đánh giá
thành tích trước và sau đào tạo nhóm kiểm soát.
Đánh giá thành tích sau đào tạo là phương pháp đánh giá được tiến hành sau
khi nhân viên đã được đào tạo. Theo phương pháp nay thì nếu thành tích làm việc
của nhân viên được cải thiện thì có thể coi đó là nhờ quá trình đào tạo.Tuy nhiên
thái độ làm việc của nhân viên cũng có thể thay đổi do các nguyên nhân khác nhau
mà không phải do khoá đào tạo mang đến. Vì thế, cách đánh giá này thường phóng
đại những lợi ích mà khoá đào tạo mang lại.
Đánh giá thành tích trước và sau đào tạo là phương pháp đánh giá trong đó
nhân viên được đánh giá khi được đào tạo, sau khoá đào tạo nhân viên sẽ được đánh
giá lại một lần nữa một cách khách quan. Khi đó, thành tích và thái độ làm việc của
nhân viên sẽ sẽ được so sánh để nhận thấy sự khác biệt. Khác với cách đánh giá sau
đào tạo, phương pháp đánh giá này giúp nhận thấy sự thay đổi trong thái độ làm
việc của nhân viên.
Đánh giá thành tích trước và sau đào tạo với nhóm kiểm soát là phương pháp
đánh giá trong đó có hai nhóm được thiết lập và được dánh giá dựa trên thành tích
làm việc. Các thành viên của nhóm kiểm soát vẫn thực hiên công việc nhưng không
trải qua quá trình đào tạo. Mặt khác, nhóm thực hiện sẽ trải qua quá trình đào tạo.
Khi khoá đào tạo kết thúc, hai nhóm sẽ đánh giá lại một lần nữa. nếu quá trình đào
tạo thật sự được cải thiện, và thành tích của nhóm này sẽ tốt hơn nhóm kiểm soát.
Nguồn lực của một tổ chức là tất cả mọi cá nhân tham gia bất kì hoạt đông
nào của tổ chức đó, bất kể vai trò của họ là gì ? Quản trị nguồn nhân lực là tất cả
các hoạt động của tổ chức để thu hút, duy trì, phát triển va sử dụng có hiệu quả
yếu tố con người trong tổ chức đó nhằm đạt được mục tiêu mà tổ chức đã đề ra.
20
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là tất cả những hoạt động để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức, bao gồm việc cung cấp các kiến thức, rèn
luyện kĩ năng và xây dựng các phẩm chất nghề nghiệp cho người lao động, giúp họ
thực hiện tốt công việc của mình cả trong hiện tại và tương lai. Đào tạo và phát
triển được thực hiện qua bảy bước: Xác định mục tiêu; lựa chọn đối tượng;
chương trình và lựa chọn phương pháp đào tạo và phát triển; dự tính chi phí; lựa
chọn, đào tạo giáo viên; đánh giá chương trình và kết quả đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực.
1.2. Kinh nghiệm thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của
một số quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.1. Kinh nghiệm thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
của Nhật Bản
Sự lớn mạnh vượt bậc của nền kinh tế Nhật Bản nhi ều th ập k ỷ qua đã
chứng minh: coi trọng phát trển nguồn nhân lực là một trong những chìa khoá của
sự thành công. Để có được một đội ngũ lao động có chất lượng nhờ dựa vào một
nền giáo dục hiện đại và thành công. Không phải những thập kỷ gần đây, Nhật
Bản mới coi trọng giáo dục mà phát triển lĩnh vực này từ lâu được coi là một quốc
sách. Thực tế giáo dục phổ cập trước chiến tranh đã đạt mức gần như 100%. Sau
chiến tranh, việc mở rộng giáo dục đã tạo nên cái gọi là “Kỷ nguyên bùng nổ giáo
dục”. Giáo dục bắt buộc cấp trung học cơ sở đã tạo điều kiện cho các em từ tuổi 6
15 được học tập miễn phí…cùng với tỷ lệ cao học sinh gia nhập các trường cao
đẳng, đại học, sau đại học, đã đưa Nhật Bản trở thành một tronh những cuờng
quốc giáo dục của thế giới. Chẳng hạn, số sinh viên của các trường năm 1995 là:
2,55 triệu, năm 1999: 2,7 triệu, năm 2000: 2,74 triệu, năm 2001: 2,77 triệu, năm
2002: 2,79 triệu, năm 2003: 2,80 triệu{3}. Chi tiêu cho giáo dục luôn ở mức khá cao:
năm 2000 chiếm 3,5% GDP (hay 9,3% so với chi tiêu của Chính phủ), năm 2002 là
3,6% {4}. Với một hệ thông giáo dục có quy mô lớn và chất lượng cao – không chỉ
cung cấp nguồn lao động dồi dào, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế nhiều thập kỷ
qua, mà còn tạo nguồn “tài nguyên tri thức” phong phú, giúp Nhật Bản có đầy đủ
sức mạnh để có thể chiến thắng trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hiện nay và trong
21
thế kỷ XXI. Mặc dù thập niên gần đây, dân số Nhật Bản có xu hướng tăng chậm,
đặc biệt lão hoá dân số đã trở thành vấn đề báo động, song tổng số lao động trong
độ tuổi 15 trở lên vẫn duy trì khá ổn định. Nếu năm 1991 là 100.890.000 người thì
năm 1995 là 105.100.000 người và năm 2005 là 109.929.000 người.
Ở Nhật Bản con người luôn được coi là yếu tố quyết định nhất trong quá
trình sản xuất. Nhận thức này, một mặt là kế thừa truyền thống coi trọng con
người đã có từ trước trong lịch sử phát triển của Nhật Bản, mặt khác đó còn là xuất
phát từ hoàn cảnh đặc thù của nước Nhật sau chiến tranh. Ngoài con người Nhật
Bản với bàn tay và khối óc, Nhật Bản không có gì khác cả về tài nguyên thiên nhiên
và nguồn vốn, là một nước quần đảo, luôn bị đe doạ nhấn chìm hoặc phá huỷ bởi
những trận động đất và núi lửa thường xuyên xảy ra. Do vậy, ngay từ bé, trẻ em
Nhật Bản đã được dạy dỗ, khắc sâu một điều là muốn tồn tại và phát triển, người
Nhật Bản không có cách nào khác là phải quyết tâm vươn lên học hỏi và làm việc
cật lực. Và ngay sau chiến tranh, không những Chính phủ, giới kinh doanh, nhà
trường, mà từng cá nhân người Nhật, đã tỏ rõ quyết tâm của mình bằng cách phát
triển nhân tố con người.
Nhật Bản đã kết hợp khéo léo những yếu tố truyền thống và hiện đại trong
việc phát huy, sử dụng nhân tố con người.
Ở Nhật Bản triết lý đào tạo sử dụng quản lý nguồn nhân lực luôn được nhất
quán phù hợp với hoàn cảnh và thực tế phát triển của đất nước. “yếu tố thâm niên
làm việc tại công ty”, “tính tập thể” hơn là “năng lực và thành tích cá nhân”, “tính cá
nhân luôn được đề cao và quán triệt trong mọi chích sách và thái độ ứng xử đối với
các nhân viên của các công ty Nhật Bản.
Ở Nhật Bản, luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình công ty nhà
trường và xã hội trong việc phát huy và sử dụng nguồn nhân lực. Vì “con người là
tổng hoà các mối quan hệ xã hội”, nên việc hình thành, phát triển con người, cả về
năng lực lẫn nhân các, phải là kết quả của sự tác động qua lại giữa gia đình (nơi họ
sinh ra, được nuôi dưỡng và sinh sống), nhà trường (nơi họ được được học tập và
đào tạo), công ty (nơi họ làm việc và phát triển nghề nghiệp thậm chí nhân cách),
lẫn xã hội (nơi họ tồn tại và chịu tác động của nhiều nhân tố), nên các nhân tố này
ở Nhật Bản đều được khai thác và huy động vào việc phát huy, sử dụng nguồn
22
nhân lực. Tính nhân văn được đề cao trong việc sử dụng và phát huy nhân tố con
người. Phát huy và sử dụng nhân tố con người phải gắn chặt với chiến lược phát
triển kinh tế quốc gia cũng như chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Ở Nhật Bản, nhà nước có vai trò quan trọng như là người khởi xướng, vạch
kế hoạch và tổ chức trong việc phát huy và sử dụng nhân tố con người. Nhà nước
là người vạch ra những định hướng, mục tiêu kinh tế lớn trong từng thời kỳ, nhờ đó
huy động và khía thác được hết nguồn lực lớn, nhất là nhân lực để phát triển kinh
tế. Nhà nước tạo ra được một xã hội có trật tự và luật pháp, hình thành được một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với từng thời kỳ. Bộ máy chính phủ của
Nhật Bản mặc dù gọn nhẹ nhất thế giới, nhưng là một bộ máy mạnh, hoạt động có
hiệu quả. Chính phủ Nhật Bản mạnh còn nhờ tập hợp được mộy đội ngũ công
chức giỏi và có trách nhiệm cao. Hầu hết họ đều tốt nghiệp từ trường đại học hàng
đầu nên rất có năng lực, được nể trọng.
Chính phủ Nhật Bản đã thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề con người
đối với sự phát triển kinh tế xã hội, và biết tập trung mọi nguồn lực để đầu tư
thích đáng, có hiệu quả. Những kinh nghiệm của Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực đã để lại những bài học kinh nghiệm cho các nước,
trong đó có Việt Nam tham khảo và vận dụng.
1.2.2. Kinh nghiệm thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong những nước có tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục ở
mức cao hàng năm. Chính vì vậy, tỷ lệ học sinh đến trường ở Hàn Quốc cũng rất
cao: bậc tiểu học 100%; trung học cơ sở 70%; và trung học phổ thông là 60%. Như
vậy, có thể nói: trong suốt quá trình tiến hành công nghiệp hoá từ sau khi kết thúc
chiến tranh, đặc biệt là từ đầu thập kỷ 1960, Hàn Quốc rất chú trọng đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực đi đôi với các chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu. Các Viện nghiên cứu được chú trọng đầu tư những trang thiết bị và phương
tiện hiện đại, có chế độ trả lương ưu đãi để lôi cuốn các nhà khoa học và các kỹ sư
tài năng của Hàn Quốc ở nước ngoài trở về góp sức vào công cuộc xây dựng đất
nước. Nhờ có chính sách phát triển nguồn nhân lực đồng bộ với chính sách phát
triển công nghệ và các biện pháp đẩy nhanh sự phát triển của các nghành công
23
nghiệp mới, nên chỉ sau một thời gian ngắn, Hàn Quốc đã thành công trong việc sản
xuất và xuất khẩu nhiều mặt hàng có hàm lượng khoa học và công nghệ cao.
Sự thành công của Hàn Quốc còn là do chính phủ Hàn Quốc biết chia sẻ
một phần gánh nặng chi phí giáo dục đào tạo công ty tư nhân, các tổ chức xã hội,
các tổ chức tình nguyện và các gia đình. Đồng thời, sự gắn bó giữa giáo dục khoa
học sản xuất đã được thực hiện một cách hữu cơ, được cụ thể hoá trong từng kế
hoạch 5 năm. Người dân Hàn Quốc khao khát được giáo dục, có cơ hội tới trường
ngang nhau. Rất nhiều người Hàn Quốc có sự hy sinh to lớn cho giáo dục, không chỉ
giành cho con cái mà còn cho cả anh chị em họ.
Mặc dù là một đất nước rất nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên, song Hàn
Quốc có một nguồn nhân lực phong phú cả về số lượng lẫn chất lượng và những
đặc tính riêng vốn có của một dân tộc tương đối thuần nhất về chủng tộc, những
ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá như lòng chung thành, tính hiếu học, tính tiết kiệm
và tinh thần dân tộc cao là những đặc trưng nổi bật của người Hàn Quốc.
Chính phủ Hàn Quốc đã có các chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực ngay từ khi đất nước giành độc lập với nhiều nội dung phong phú. Trong khi
xuất phát điểm chỉ là một quốc gia nghèo khó, đông dân thì tỷ lệ ngân sách cho giáo
dục theo kiểu “kim tự tháp” ở Hàn Quốc là một kinh nghiệm tốt. Bằng việc ưu tiên
tới 89% ngân sách cho việc mở rộng nền móng ở các cấp tiểu học và trung học cơ
sở, Hàn Quốc đã kích thích được nhu cầu đối với giáo dục bậc cao và ở mức độ lớn
đã khai thác được khu vực tư nhân để đáp ứng nhu cầu này. Ngoài việc đào tạo giáo
dục đại học ở trong và ngoài nước, Hàn Quốc còn khuyến khích đào tạo nghề.
Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực này góp phần quan trọng dẫn đến
thành công của đường lối công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Hàn Quốc.
Các chính sách giáo dục, đào tạo, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của
Hàn Quốc luôn luôn đi liền với các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế
nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế.
Thực tế, do khi nhận thức được sự cần thiết và tính tất yếu khách quan của
việc cải cách hệ thống giáo dục đào tạo, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực phù
hợp với những yêu cầu của tình hình mới, Chính phủ Hàn Quốc đã mạnh dạn tiến
hành các cuộc cải cách. Qua kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc đã cho thấy:
24
giáo dục đào tạo để tiếp tục nâng cao vai trò của nguồn nhân lực là rất quan trọng.
Đầu tư cho giáo dục là dạng đầu tư có lợi nhất.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC CHO CNH HĐH Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
Ngân sách nhà nước cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Nhờ tình
hình kinh tế được cải thiện, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục cũng tăng lên có
thêm sự đóng góp sâu rộng của nhân dân, nên chất lượng giáo dục ngày càng được
25