Bài tập học kỳ - Luật Thương mại
MỤC LỤC
A.
A. LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật về các hoạt động trung gian thương mại của Việt Nam nhìn chung
ra đời muộn hơn các chế định pháp luật khác, chỉ từ khi Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì các quy định của
pháp luật mới bắt đầu được đề cập đến trong LTM 2005, trong các luật chuyên
ngành như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ Luật Hàng hải, Luật Du lịch, Luật Kinh
doanh chứng khoán và các băn bản hướng dẫn. Việc áp dụng pháp luật điều chỉnh
quan hệ phát sinh trong hoạt động trung gian thương mại nói chung và hoạt động
môi giới thương mại nói chung đã được xác định rõ ràng, phù hợp với nguyên tắc
áp dụng luật chung.
Nhằm đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, việc tìm
hiểu các quy định của pháp luật về hoạt động môi giới thương mại một trong
những hoạt động khá phổ biến ngày này là hoàn toàn cần thiết. Vì vây, em xin lựa
chọn đề tài: “Tìm hiểu pháp luật về môi giới thương mại” nhằm nâng cao nhận
thức về vấn đề này và đưa ra các ý kiến, quan điểm cá nhân nhằm hoàn thiện hơn
các quy định pháp luật về ván đề này.
Dư Việt Linh – QT33D007 1
Bài tập học kỳ - Luật Thương mại
B. NỘI DUNG
I. Pháp luật hiện hành về môi giới thương mại:
1. Chủ thể trong quan hệ môi giới thương mại
a) Điều kiện về thương nhân trong quan hệ môi giới thương mại
Quan hệ môi giới thương mại phát sinh giữa bên môi giới và bên được môi
giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân. LTM 2005 chỉ quy định chung
chung bên môi giới phải là thương nhân mà chưa quy định cụ thể các điều kiện của
thương nhân thực hiện hoạt động môi giới.
Đối với bên môi giới, trong trường hợp môi giới hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh
doanh hoặc kinh doanh có điều kiện đòi hỏi bên môi giới phải có các điều kiện
theo quy định của Nghị định 59/2006/N Đ-CP ngày 12/06/2006 và các luật chuyên
ngành. Ví dụ, bên môi giới bảo hiểm phải là doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đáp
ứng đầy đủ các quy định về điều kiện thành lập doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định hướng dẫn thi hành. Tổ chức kinh
doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã
có đăng kí kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản theo quy định của pháp luật
và phải có ít nhất một người có chứng chỉ môi giới bất động sản. Cá nhân kinh
doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập phải đăng kí kinh doanh theo quy
định của pháp luật và có chứng chỉ môi giới bất động sản (Điều 8 Luật kinh doanh
bất động sản 2006).
Đối với bên được môi giới, các quy định của mục 2 chương V LTM 2005 về
môi giới thương mại không thể hiện bên được môi giới có nhất thiết phải là thương
Dư Việt Linh – QT33D007 2
Bài tập học kỳ - Luật Thương mại
nhân hay không? Nhưng nếu căn cứ vào Điều 3 khoản 11 định nghĩa về các hoạt
động trung gian thương mại trong đó có hoat động môi giới thương mại thì bên
được môi giới cũng phải là thương nhân. Điều này dẫn đến những bất hợp lí sau:
(i) bên được môi giới là chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ môi giới chứ không
thực hiện dịch vụ này do đó không thể bắt buộc phải là thương nhân;
(ii) nếu bên được môi giới cũng là thương nhân thì quan hệ giữa bên môi giới (là
thương nhân hoạt động thương mại) với bên được môi giới không phải là thương
nhân sẽ không phải là môi giới thương mại và sẽ không chịu sự điều chỉnh của
LTM mà chỉ chịu sự điều chỉnh của BLDS. Các quy định về môi giới thương mại
sẽ không được áp dụng cho bên là thương nhân.
Theo LTM 2005 và các luật hiện hành khác quy định về môi giới thương mại như
Bộ luật hàng hải, Luật kinh doanh bảo hiểm, chức năng của người môi giới thương
mại ở Việt Nam tương tự người môi giới thương mại theo pháp luật của các nước
theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Điều đó có nghĩa là, khi thực hiện hoạt
động môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính mình để quan hệ với các
bên được môi giới và là người trung gian cho các bên trong quan hệ giao dịch
thươm mại, giới thiệu cho các bên cơ hội giao kết hợp đồng, cung cấp các dịch vụ
hỗ trợ co liên quan đến những giao dịch thương mại. Đó là những hoạt động trung
gian nhằm chắp nối cho những giao dịch rất phong phú và đa dạng, có thể là những
giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ thương mại để giúp các bên
được môi giới đến với nhau. Khi thực hiện dịch vụ môi giới, bên môi giới có thể
thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho
bên được môi giới, tiến hành các hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần
môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, giúp đỡ các bên
soant thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Sau đó, các bên được môi giới trực
tiếp giao kết hợp đồng với nhau. Nếu bên môi giới thay mặt bên được môi giới kí
hợp đồng với bên thứ ba thì họ sẽ trở thàn bên đại diện không đúng thẩm quyền
của bên được môi giới. Tuy nhiên, LTM 2005 của Việt Nam không cấm bên được
môi giới ủy quyền cho bên môi giới kí hợp đồng với khách hàng. Trong trường
hợp này, bên môi giới hành động với tư cách của bên đại diện.
b) Hình thức hợp đồng môi giới thương mại
Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới.
Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới. Đối
Dư Việt Linh – QT33D007 3
Bài tập học kỳ - Luật Thương mại
tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới, cung cấp cơ hội giao kết
hợp đồng giữa bên được môi giới với bên thứ ba.
Về hình thức, LTM 1997 quy định rõ ràng, hợp đồng môi giới phải được lập
thành văn bản (Điều 94). LTM 2005 không quy định về hình thức của hợp đồng
môi giới thương mại trong khi hầu hết các hoạt động trung gian thương mại như ủy
thác, đại diện, đại lý thương mại lại quy định phải lập thành văn bản hoặc hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào khoản 1 Điều
153 LTM 2005 thì hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản, vì điều này quy
định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh
từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau”. Do đó, LTM cần
phải quy định rõ về hình thức của hợp đồng môi giới, tránh dẫn đến cách hiểu khác
nhau về vấn đề này.
2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới thương mại
Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới và bên được môi giới khi tham gia quan
hệ hợp đồng môi giới được quy định trong LTM 2005, trong các luật về những
hoạt động môi giới đặc thù như: Môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải, môi giới
chứng khoán, môi giới bất động sản.
a) Nghĩa vụ của bên môi giới
Theo các văn bản này, nhìn chung bên môi giới có những nghĩa vụ sau:
- Bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu được giao để thực hiện việc môi giới
và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoang thành viên môi giới;
- Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên
được môi giới;
- Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lí của các bên được môi giới, nhưng
không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ;
- Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ
trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới.
Như vậy, khi thực hiện hoạt động môi giới, bên môi giới được quyền yêu
cầu bên được môi giới cung cấp mẫu hàng hóa, tài liệu để thực hiện việc môi giới.
Khi bên được môi giới cung cấp những tài liệu đó, thì bên môi giới phải có nghĩa
vụ bảo quản nó và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoang thành việc
môi giới.
Dư Việt Linh – QT33D007 4
Bài tập học kỳ - Luật Thương mại
Nhằm bảo vệ quyền lợi của bên được môi giới, ngăn chặn khả năng bên môi
giới thông đồng với bên thứ ba, Điều 151 khoản 2 LTM 2005 quy định: “bên môi
giới không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên
được môi giới”. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, quy định này dẫn đến cách hiểu là
bên môi giới sẽ không được quyền cung cấp thông tin có liên quan đến giao dịch
mà họ chắp nối bởi trong nhiều trường hợp, việc cung cấp thông tin cho bên thứ ba
có thể làm phương hại lợi ích của bên được môi giới. Do đó, quy định này có thể
cản trở hoạt động môi giới trung thực của bên môi giới, làm cho hoạt động môi
giới thương mại khó có thể trở thành chuyên nghiệp. Pháp luật của một số nước
như Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999 nhìn nhận vấn đề này thoáng và rõ ràng
hơn nhiều. Điều 425 Luật này quy định: “bên môi giới có nghĩa vụ cung cấp thông
tin chính xác liên quan đến các vấn đề cần thiết cho việc giao kết hợp đồng dự
định”. Quy định như vậy vừa rõ ràng, vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa của nghề hoạt
động môi giới. Sự chính xác của thông tin mà bên môi giới đưa ra thể hiện ở chỗ
họ phải cung cấp một cách đầy đủ những tài liệu do mình nhận được từ bên được
môi giới. Ngoài ra, sự chính xác của thông tin còn bao gồm tính trung thực, khách
quan của thông tin mà bên môi giới cung cấp. Quy định này không làm mất đi sự
chủ động, tính độc lập và chuyên nghiệp của bên môi giới do họ vẫn có quyền tìm
hiểu, thu thập thông tin kiểm chứng, để bổ sung vào những gì mà bên được môi
giới trao cho để cung cấp cho khách hàng của mình.
b) Trách nhiệm của các bên
Trong quá trình môi giới, người môi giới phải chịu trách nhiệm về tư cách
pháp lý của các bên tham gia giao dịch mà họ dự định chắp nối. Do chỉ là người
trung gian đứng giữa trong quan hệ giao dịch thương mại nên bên môi giới không
phải chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của các bên được môi giới. Tuy
nhiên, quy định về bảo đảm tư cách pháp lý của các bên được môi giới có lẽ chỉ
phù hợp đối với dịch vụ môi giới mà bên được môi giới là thương nhân còn trong
dịch vụ môi giới mà bên môi giới được môi giới là cá nhân (không có tư cách pháp
nhân) việc xác định tư cách pháp lý của các bên được môi giới là rất khó và thực
sự không cần thiết. Nhiệm vụ của người môi giới là làm sao dể các bên đi đến
thống nhất thỏa thận ký kết hợp đồng. Còn việc hợp đồng được thực hiện như thế
nào thì không phải là trách nhiệm của họ. Hơn nữa để bảo đảm tính khách quan,
trung thực trong hoạt động môi giới, pháp luật cũng quy định bên môi giới không
được tham gia vào thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp
Dư Việt Linh – QT33D007 5