Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiểu luận: Chức năng hoạch định trong quản trị (Nhóm [N.G.U] Never Give Up)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.3 KB, 29 trang )

MÔN QUẢN TRỊ HỌC
Tiểu luận:

Thực hiện:  Nhóm [N.G.U] Never Give Up

1


LỜI MỞ ĐẦU
Hoạch định là một trong bốn chức năng thiết yếu của một nhà quản trị, đồng 
thời được coi là một chức năng ưu tiên hay là nền tảng của quản trị. Đây là công việc 
đầu tiên mà nhà quản lý phải thực hiện ngay từ  đầu để  triển khai các hoạt động để 
đạt mục tiêu đã xác định Chức năng hoạch định bao gồm quá trình xác định mục tiêu  
trong tương lai và những phương tiện thích hợp để  đạt mục tiêu đó. Tất cả  các nhà 
quản trị trong mọi cấp bậc đều phải thức hiện công tác hoạch định. Thông qua hoạch  
định , nhà quản trị chuẩn bị cho tổ chức của mình những hoạt động cần thiết nhằm đạt 
được thành công cả  trong ngắn hạn và dài hạn. Khi nhà quản lý thiếu tư  duy chiến  
lược, thiếu khả năng hoạch định thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không thể 
phát triển lâu bền. Trong môi trường kinh doanh đầy tính cạnh tranh như  hiện nay và 
nhất là trong bối cảnh toàn cấu hóa, thì hoạch định một cách có hiệu quả ngày càng trở 
nên quan trọng hơn. Việc này giúp doanh nghiệp có thể   ổn định, đứng vững và phát 
triển.
Qua bài tiểu luận “Chức năng hoạch định trong quản trị”, chúng tôi mong sẽ 
giúp người đọc hiểu thêm về  chức năng quan trọng của quản trị  này, cũng như  cách 
thức để lập ra một kế hoạch hoàn hảo. Để từ đó, người đọc có thể áp dụng vào thực  
tiễn đời sống, giúp ích hơn trong công việc và học tập.

2


CHƯƠNG I:


CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH CỦA HOẠCH ĐỊNH
Theo những lý thuyết gần đây nhất của hai giáo sư nổi tiếng trong ngành Quản  
trị học là James Stoner và Stephen Robbins thì Quản trị bao gồm 4 chức năng cơ bản là  
Hoạch   định   (Planning),   Tổ   chức   (Organizing),   Điều   khiển   (Leading)   và   Kiểm   tra 
(Controlling). Có thể hiểu đơn giản các chức năng này như sau:
­ Hoạch định là xác định mục tiêu, nhận định các cơ  hội, rủi ro và đưa ra các 
phương pháp cụ  thể  để  hoạt động hiệu quả  nhất, tận dụng tối đa các nguồn lực và  
giảm thiểu rủi ro;
­ Tổ chức là phân công công việc cho từng bộ phận hoặc cá nhân trong tổ chức: 
công việc cụ thể, nơi làm việc, thời gian cần hoàn thành, .v.v.;
­ Điều khiển là việc tuyển dụng, đào tạo và bố  trí nhân sự  cũng như  các hoạt  
động nhân sự khác nhằm thúc đẩy khả năng làm việc của các thành viên trong tổ chức;
­ Kiểm tra là xem xét kết quả hoạt động, đưa ra giải pháp cho các vấn đề, từ đó 
thúc đẩy thành tích của tổ chức hướng đến mục tiêu đã đặt ra. Đây cũng là bước cuối  
của một công việc quản trị, khép lại một chu kỳ quản trị, mở ra một chu kỳ quản trị 
mới;
Trong phần này chúng ta sẽ bàn luận về chức năng đầu tiên của một công việc  
quản trị, đó là chức năng Hoạch định. Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề sau:
­ Khái niệm hoạch định;
­ Tầm quan trọng (mục đích của hoạch định);
­ Hoạch định và hiệu quả hoạt động;
­ Phân loại kế hoạch;
­ Vai trò hoạch định trong các cấp quản trị;
­ Quy trình lập kế hoạch.
I. KHÁI NIỆM
3


“Hoạch định là một quá trình ấn định những mục tiêu và xác định biện pháp  
tốt nhất để thực hiện những mục tiêu đó.” (1)

Từ khái niệm này, chúng ta có thể hiểu hoạch định là một quá trình bao gồm:
­ Lập ra các mục tiêu cụ thể;
­ Đánh giá các cơ hội, rủi ro;
­ Xem xét các tài nguyên: lao động, vốn;
­ Từ các yếu tố trên, đưa ra những phương pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu 
một cách hiệu quả, tận dụng được các nguồn lực và cơ hội, giảm thiểu rủi ro.
II. TẦM QUAN TRỌNG (MỤC ĐÍCH CỦA HOẠCH ĐỊNH)
Mục đích cuối cùng của công việc hoạch định là đưa ra các mục tiêu và phương  
pháp cụ  thể. Trong 4 chức năng quản trị, có thể  nói Hoạch định là chức năng quan 
trọng nhất, bởi vì chúng ta không thể  tiến hành công việc khi không biết chúng ta  
muốn đạt được điều gì và phải làm gì để đạt được những điều đó.
Có rất nhiều công ty đã thất bại chỉ vì hoạch định sai mục tiêu của mình. 
­ Một ví dụ  điển hình là Ford trong việc tung ra chiếc Edsel vào tháng 9 năm  
1957. Có rất nhiều sai lầm trong việc hoạch định kế hoạch này, cụ thể là: tên của mẫu  
xe không thu hút khách hàng, thời điểm tung ra thị trường không phù hợp (vào thời đó  
các mẫu xe mới thường được bán vào tháng 11 hằng năm), thiết kế tồi, có nhiều trục  
trặc kỹ thuật, giá thành quá cao trong khi khách hàng đang nhắm đến những chiếc xe 
rẻ  hơn, và trên hết là việc quảng cáo thái quá về  chiếc xe mà không hề  có một khảo  
sát thị  trường nào. Kết quả  là chiếc Edsel chỉ  tồn tại trong 4 năm (từ  1957 đến 1960)  
với doanh số 60.000 chiếc trong năm đầu tiên, chưa đến 30% mong đợi.(2)
­ Một ví dụ  nổi tiếng khác là P&G (Procter and Gamble) – tập đoàn hàng đầu  
thế giới về các sản phẩm chăm sóc cá nhân – đã có những đánh giá sai lầm trong việc  
1() Trường Đại học Kinh tế TP HCM, Khoa quản trị kinh doanh, Bộ môn Quản trị nhân sự và chiến lược kinh 
doanh (tháng 1/2006), Giáo trình Quản trị học, Nhà xuất bản Phương Đông, thành phố Hồ Chí Minh.
2() Matt Haig (2005), Brand Failures – The truth about the 100 biggest branding mistakes of all time, nhà xuất bản 
Kogan Page, Mĩ.

4



hoạch định số lượng thương hiệu phụ của một nhãn hàng. Họ cho rằng càng nhiều sự 
lựa chọn cho khách hàng thì doanh số sẽ càng cao. Họ đã tung ra đến 52 thương hiệu  
phụ của chỉ một dòng sản phẩm kem đánh răng Crest và 31 thương hiệu phụ của một  
dòng sản phẩm dầu gội đầu trị  gàu Head & Shoulders. Sự  thật là khách hàng đã hoàn 
toàn bối rối trước hàng loạt sản phẩm và cuối cùng Crest chỉ chiếm 15% thị phần kem  
đánh răng của thị trường Mĩ, bị Colgate bỏ lại rất xa. (3)
Như  vậy, qua hai ví dụ trên chúng ta có thể thấy được rằng, hoạch định có vai  
trò rất quan trọng trong việc kinh doanh cũng như  hoạt động của bất kỳ  tổ  chức nào 
khác.  Không có hoạch định hoặc hoạch định yếu kém sẽ  dẫn chúng ta đến thất bại 
nặng nề.
III. HOẠCH ĐỊNH VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
“Trong kinh doanh nếu bạn không lập kế hoạch, điều đó có nghĩa là bạn đang  
chuẩn bị một kế hoạch để thất bại” – Crawford H.Greenewalt.(4)
Một hoạch định để  được gọi là hiệu quả  cần đáp ứng tốt với trước hết 6 yêu  
cầu sau:
1. Tạo ra tư duy có hệ thống để tiên liệu các tình huống quản trị
Trong quản trị, khâu Hoạch định đựơc ví như bánh lái, quyết định hướng đi của  
cả  doanh nghiệp, công ty. Nhà quản trị  ­ khi  ấy là thuyền trưởng ­ phải vạch được 
nhiều phương án nhằm  ứng phó thích hợp với nhiều tình huống khác nhau, bởi tính  
không chắc chắn, luôn xoay chuyển của các khả  năng là hiển nhiên và không tránh 
được.
Tính không chắc chắn là do công tác hoạch định là dự  đoán, dự  báo sự  việc sẽ 
xảy ra  ở tương lai trong môi trường có nhiều yếu tố  bất lợi, khó dự  đoán được hoặc  
nằm ngoài sự  kiểm soát của doanh nghiệp. Một điều có thể  nhìn nhận là một yếu tố 
3() Matt Haig (2005), Brand Failures – The truth about the 100 biggest branding mistakes of all time, nhà xuất bản 
Kogan Page, Mĩ.

4() Lời vàng cho các nhà kinh doanh – NXB Trẻ năm 1994

5



bất lợi này đến lại tạo tiền đề cho các yếu tố bất lợi khác xảy ra. Vì thế, việc hoạch  
định kĩ càng và có bề sâu ­ tức là có hệ thống ­ là điều không thể coi nhẹ.
2. Phối hợp mọi nỗ lực của tổ chức trong quá trình thực hiện mục tiêu
Hoạch định chỉ ra các biện pháp cho phép khai thác tối đa thế  mạnh của doanh  
nghiệp, tận dụng cơ hội kinh doanh, hạn chế nguy cơ cho doanh nghiệp.
Việc hoạch định lại bị  chi phối bởi sự sáng tạo và thuận tình của tập thể. Các 
quyết định do hoạch định đưa ra phải nhận đựơc sự  đồng tình và thông suốt của hầu  
hết các thành viên trong tổ chức. Bởi câu tục ngữ “Một cây làm chẳng nên non ­ Ba cây 
chụm lại nên hòn núi cao” luôn nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của sự đoàn kết một  
lòng.
3. Tập trung vào các mục tiêu tránh sự lãng phí
Như phần 2 đã nói, hoạch định cần đưa ra gói biện pháp cho phép khai thác tối  
đa thế mạnh của doanh nghiệp hầu đạt đựơc mục tiêu. Một khi tập trung vào các mục 
tiêu đặt ra, doanh nghiệp có thể hoàn thành công tác với mức hao phí, rủi ro thấp nhất  
có thể. Bởi hoạch định là chuẩn bị cho tổ chức vận hành tốt hơn trong tương lai.
4. Tạo sự hợp tác và phối hợp giữa các cá nhân và bộ phận trong tổ chức
Tuy hoạch định là công tác của cá nhân (nhà quản trị) nhưng mục tiêu của khâu 
này lại nhằm điều phối nhân lực và tài lực của cả  doanh nghiệp vào quy trình làm  
việc.
Công cuộc điều hành sự  hoạt động của một doanh nghiệp luôn làm nhà quản lí đau  
đầu. Từng cá nhân, mỗi bộ  phận trong tổ  chức đều có chức năng và cách vận hành  
riêng, hoạt động trong lãnh vực chuyên môn cụ  thể, nhưng tất cả   đều mang trách 
nhiệm tạo nên thành quả chung của doanh nghiệp. Giờ đây, khi đã hoạch định tốt, nhà 
quản lí sẽ biết cách phối hợp các cá nhân và bộ  phận, triệt tiêu những mâu thuẫn nội 
bộ, những cuộc công kích vốn từ  lâu đã là mối nguy cho công ty, làm khăng khít mối  
quan hệ  giữa cá nhân – cá nhân, cá nhân – tổ  chức và bộ  phận này với bộ  phận kia,  
khiến công việc trở nên trôi chảy.


6


5. Tăng độ linh hoạt và thích nghi với những thay đổi của môi trường bên  
ngoài
“Thương trường là chiến trường” – ngày nay thương trường thậm chí còn hơn 
cả chiến trường về độ khốc liệt và quy mô. Một công ty đang ăn nên làm ra bỗng dưng  
tuyên bố phá sản, khiến nhà đầu tư  và những kẻ cho vay một phen nháo nhào. Nhưng  
một “ông lớn” vừa ra khỏi thị trường thì ngay lập tức, các công ty mới lại xuất hiện và  
chen chân vào, thế  chỗ công ty xấu số kia. Thời buổi này, ngưòi tiêu dùng liên tục bị 
tấn công bởi những “độc” chiêu khuyến mãi nằm trong hàng loạt chương trình khuyến 
mãi rầm rộ  do các hãng đưa ra. Một CEO phát biểu “Bạn chỉ cần có thêm một khách  
hàng mua sản phẩm của bạn là bạn đã bỏ  xa đối thủ  của mình rồi.”  Ở  thời ‘Khách 
hàng là thượng đế’ này, để tồn tại, các doanh nghiệp phải tỏ ra cực kì linh hoạt và ứng  
biến tốt với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Họ phải bỏ ra nhiều thời gian và 
công sức để nghiên cứu tâm lí khách hàng, đặt mục tiêu, sau đó ra sức chiêu dụ  khách  
hàng mục tiêu và tạo dựng lòng trung thành với sản phẩm từ  người tiêu dùng. Ngoài 
nhân tố  Khách hàng, còn nhiều yếu tố khác  ảnh hưởng đến sự  thành công của doanh 
nghiệp. Vì thế  khâu Hoạch định quyết định sự  sống còn của doanh nghiệp trứơc sự 
biến động không ngừng của những yếu tố bất lợi.
Cần xét đến sự sai lệch không nhỏ giữa hoạch định và thực tế  để  từ  đó có kế 
hoạch điều chỉnh, khiến kế  hoạch trở  nên khả  thi, nhưng cần tránh sự  thay đổi tuỳ 
tiện và liên tục dẫn đến nguy cơ không đạt đựơc mục tiêu và thất bại là chắc chắn.
6. Phát triển các tiêu chuẩn kiểm tra hữu hiệu
Hoạch định thiết lập mục tiêu và vì thế tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm  
tra. Bởi nếu các thành viên không chắc chắn họ  đang làm gì, đang cố  gắng đạt được 
điều gì thì họ không thể xác định được họ có đạt được nó hay không.
Lợi ích của việc hoạch định hiệu quả  khiến việc kiểm tra tốt hơn được biểu  
diễn qua hình 1.1.
Hình 1.1: Quan hệ giữa Chức năng hoạch định và Kiểm tra

7


Chi tiết hơn là sơ đồ 1.2 dưới đây:
Hình 1.2: Quy trình Hoạch định và Kiểm tra
IV. PHÂN LOẠI KẾ HOẠCH

Hình 1.3: Các loại hoạch định (5)
1. Hoạch định chiến lược
1.1. Khái niệm
Hoạch định chiến lược là quá trình xây dựng các mục tiêu và hình thành các kế 
hoạch tổng thể cho tổ chức trong dài hạn, được tiến hành bởi các nhà quản trị cấp cao 
trong tổ chức.
1.2. Nội dung
­ Xác định những mục tiêu chủ yếu và dài hạn cho tổ chức;
­ Xây dựng chương trình hoạt động tổng quát;
­ Phân bổ nguồn lực để thực hiện kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu.
2. Hoạch định tác nghiệp
2.1. Khái niệm
Hoạch định tác nghiệp là những hoạch định liên quan đến việc triển khai kế 
hoạch trong những tình huống cụ thể và thời gian ngắn.
2.2. Nội dung
­ Xác định chương trình hoạt động ngắn hạn;
­ Sử dụng nguồn lực đã được phân bổ để hoàn thành nhiệm vụ đã được đề ra.
2.3. Phân loại
2.3.1. Kế hoạch đơn dụng

5 Trường Đại học Kinh tế TP HCM, Khoa quản trị kinh doanh, Bộ môn Quản trị nhân sự và chiến lược kinh 
doanh (tháng 1/2006), Giáo trình Quản trị học, Nhà xuất bản Phương Đông, thành phố Hồ Chí Minh.


8


­ Chương trình: chương trình khuyến mãi, chương trình giảm giá cuối năm hoặc 
đơn giản như chương trình đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho nhân viên.
­ Dự án: có quy mô nhỏ, có thể là một phần của các chương trình lớn nhưng bị 
giới hạn về nguồn lực và thời gian hoàn thành.
­ Ngân sách: là những kế  hoạch để  phân bổ  tài chính cho các chương trình, dự 
án, các hoạt động đã định, trong khoảng thời gian dự kiến. Đây là căn cứ  để  kiểm tra  
mức hiệu quả của các hoạt động của tổ chức.
2.3.2. Kế hoạch thường trực
­ Chính sách: là những đường lối chỉ đạo tổng quát, thiết lập giới hạn trong việc  
đưa ra những quyết định.
­ Thủ  tục: là hướng dẫn chi tiết để  thực hiện các chính sách trong những điều  
kiện cụ thể.
­ Quy định: là những tuyên bố  về  việc được phép thực hiện hay không được  
phép thực hiện một hành động trong một hoàn cảnh cụ thể.
2. So sánh hoạch định chiến lược và hoạch định tác nghiệp
Phương diện so sánh
Giống nhau:
Khác nhau:
­ Cấp hoạch định
­ Thời hạn
­ Phạm vi
­ Mục tiêu

Hoạch định chiến lược
Hoạch định tác nghiệp
Đều là quá trình xây dựng mục tiêu và kế hoạch thực hiện.
Quản trị gia cấp cao


Quản trị gia thừa hành, cấp dưới
Ngắn hơn, có thể  hàng ngày, hàng tuần, 
Vài năm trở lên
hàng tháng.
Bao quát một lãnh vực rộng lớn, ít đi  Đi sâu thực hiện các chi tiết được xác 
sâu vào chi tiết.
định cụ thể.
Dài hạn
Ngắn hạn

V. VAI TRÒ HOẠCH ĐỊNH TRONG CÁC CẤP QUẢN TRỊ
Hoạch định là chức năng đầu tiên và quan trọng nhất, bất cứ  một loại hình tổ 
chức nào với quy mô lớn hay nhỏ, hoạch định luôn có ý nghĩa to lớn đối với doanh  
nghiệp. Đối với các nhà quản trị, hoạch định có vai trò chính:
­ Giúp nhà quản trị  chủ  động đối phó với các tình huống tốt hơn, khắc phục  
được những hoạt động thụ động mà có thể dẫn đến những tổn thất cho doanh nghiệp;

9


­ Có những chính sách, biện pháp nhất quán (không mâu thuẫn, triệt tiêu động 
lực của nhau);
­ Tập trung các nguồn lực để hoàn thành những công việc trọng tâm của tổ chức 
trong những thời kì khác nhau; khắc phục tình trạng dàn đều trải mỏng cho tất cả, kết  
cục không hoàn thành được nhiệm vụ cơ bản nào của doanh nghiệp;
­ Cho phép các nhà quản trị phối hợp các nguồn lực với chi phí thấp nhất, mang  
lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Về  cơ  bản, các cấp quản trị  trong doanh nghiệp được chia thành các cấp: cấp  
cao (toàn tổ chức), cấp trung (phòng chức năng), cấp thấp (phân xưởng/cá nhân). Muốn 

xây dựng kế hoạch của mỗi cấp phải căn cứ trên kế hoạch của cấp trên gần nhất. Tuy 
nhiên trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch của cấp trên mang tính hướng dẫn hơn là  
tính bắt buộc. Mọi sự thiên lệch về một phía hoặc quá nhấn mạnh việc bắt buộc hay 
không bắt buộc đều dẫn đến sự  thiệt hại cho nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp  
nói riêng. 
1. Đối với cấp thấp (phân xưởng/cá nhân)
Ở  nhiều công ty, việc hoạch định được đưa xuống các cấp thấp hơn của tổ 
chức. Ở cấp này, công nhân có khả năng quản trị bản thân mình. Họ tự đề ra lịch trình  
công tác riêng, các mục tiêu lợi nhuận, có quyền đưa ý kiến về  các quyết định tuyển 
dụng và sa thải, đặt mua thiết bị, vật liệu, và trong một số trường hợp còn xây dựng  
cả chiến lược kinh doanh.
Tuy nhiên mô hình này không áp dụng được cho tất cả  các công ty, nó chỉ  có 
hiệu quả khi công việc đòi hỏi mức độ phụ thuộc lẫn nhau rất cao giữa các công nhân  
trong môi trường phức tạp. Mục đích là thu hút mọi người vào những công việc hay  
chức năng khác nhau, giải phóng các nhà quản trị  cấp cao hơn thoát khỏi nhiệm vụ 
giám sát mất thời gian, nhờ  vậy nhà quản trị  có thêm thời gian để  thực hiện việc  
hoạch định dài hạn và các hoạt động phối hợp khác.
2. Đối với cấp trung và cấp cao (nhà tổ chức)

10


Những nhà quản trị phải có khả năng xử lí nhũng ý tưởng và thông tin phù hợp, 
họ fải suy nghĩ một cách có hệ  thống về hiện tại và tương lai, sau đó thông qua việc 
hoạch định tình trạng của tổ  chức trong tương lai mà tìm cách cải thiện, nếu những  
nhà quản trị  đó có vai trò tích cực và dẫn đầu trong việc thúc đẩy tổ  chức hướng tới 
tương lai. Vì thế hoạch định chính sách nghĩa là các nhà quản trị phải chủ động và làm 
cho sự việc xảy ra theo chiều hướng mong muốn chứ không phải chỉ phản ứng và để 
cho sự  việc tự  xảy ra. Thông qua hoạch định, những nhà quản trị  không những phát 
huy được khả năng trong tương lai, mà tùy theo múc độ hiệu quả của các kế hoạch có 

thể  tăng thêm động lực hoạch định của họ. Hành vi hoạch định trau dồi khả  năng tư 
duy của các nhà quản trị khi họ xem xét những ý tưởng cho tương lai. Vì thế mà cả kết 
quả lẫn hành vi hoạch định đều có lợi cho tổ chức và những nhà quản trị của nó.

VI. QUY TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH
Việc lập kế hoạch là vô cùng quan trọng và cần thiết. Nhà quản trị  khi lập kế 
hoạch cần phải tuân theo một quá trình hợp lý và khoa học.

Hình 1.4: Quy trình lập kế hoạch.
1. Nhận thức cơ hội
Nhà quản trị  cần nghiên cứu thị  trường để  từ  đó đánh giá được những cơ  hội 
dành cho doanh nghiệp trong hoạch động sản xuất, kinh doanh. Tìm hiểu cơ  hội là  
bước đầu tiên trong quá trình hoạch định chiến lược. Yêu cầu đưa ra cho nhà quản trị 
là phải trả lời các câu hỏi: Những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp? Những cơ 
hội, thách thức có thể xảy ra? Những cơ hội đó có hợp với khả năng của doanh nghiệp  
không?  Và, vượt qua những thách thức đó bằng cách nào?
Nhà quản trị  phải đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân doanh  
nghiệp doanh nghiệp và sự tác động của các yếu tố vĩ mô: tình hình chính trị, kinh tế,  
11


xã hội… Những tác động tích cực sẽ tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp và những nguy cơ 
từ những tác động tiêu cực. Việc phân tích các yếu tố vi mô cũng là một điểm rất quan  
trọng. Áp dụng mô hình phân tích 5 nguồn lực của Micheal Porter để  phân tích môi  
trường kinh doanh trong ngành.

Hình 1.5: Mô hình phân tích 5 nguồn lực (M.Porter)

2. Xác định các mục tiêu
Đối với tiến trình hoạch định, mục tiêu cũng có một vai trò đặc biệt. Nó chi  

phối toàn bộ  quá trình hoạch định, cũng như  tổ  chức thực hiện các nội dung hoạch  
định. Mục tiêu chỉ  ra điểm kết thúc của quá trình hoạch định với những chỉ  tiêu đặc 
trưng như: doanh thu, lợi nhuận,… Không thể  có một hoạch định hiệu quả  khi mục 
tiêu chưa được xác định đúng đắn. Tùy theo mỗi loại, mỗi đối tượng hoạch định cụ 
thể mà có những mục tiêu tương ứng. 
12


Bước này, nhà quản trị phải chỉ ra được kết quả cụ thể tại từng thời điểm nhất 
định ứng với các mục tiêu. Từ đó xác định được tiến trình, thời gian thực hiện.
Trong việc xác định mục tiêu thường được sử dụng hai phương pháp:
­ Phương pháp truyền thống;
­ Quản lý theo mục tiêu (MBO).
3. Xem xét các điều kiện cơ bản
Mỗi loại hoạch định đều đòi hỏi những tiền đề (điều kiện) nhất định, đảm bảo 
cho sự ra đời, tồn tại và thành công một cách khách quan. Đó là các dự báo về nhu cầu  
thị  trường; giả  thiết về  môi trường hoạt  động của doanh nghiệp; chính sách, chủ 
trương của Chính phủ và quan trọng là trình độ  hiện tại của doanh nghiệp (vốn, năng 
lực sản xuất, nhân sự…).
Trong việc xem xét các tiền đề người lập kế hoạch cần phân tích các dự báo về 
tình hình trong tương lai và điều kiện hiện có của từng bộ  phận, để  làm rõ  ưu thế 
cạnh tranh của doanh nghiệp. Người lập kế hoạch càng hiểu rõ và đánh giá đúng các  
tiền đề thì hoạch định sẽ càng được thực hiện và phối hợp thành công.
4. Xây dựng các phương án
Các phương án được xây dựng dựa trên mục tiêu và cá tiền đề  đã xác định. 
Trong bước này người lập mục tiêu cần phải xây dựng và nghiên cứu các phương án  
hành động khác nhau để có cơ sở lựa chọn ra một phương án tối ưu. Mỗi phương án  
thỏa mãn cho một khả  năng có thể  xảy ra trong tương lai, đảm bảo cho hoạch định  
được thực hiện, hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. 
Số  lượng phương án phụ  thuộc vào loại hoạch định, tính chất phức tạp và độ 

lớn của đối tượng hoạch định. Tuy nhiên việc xây dựng quá nhiều phương án sẽ  dẫn 
đến tốn kém nguồn lực, thời gian và có thể đánh mất cơ hội.
5. Đánh giá các phương án
Mỗi phương án đều chứa đựng những ưu, nhược điểm nhất định và sẽ thay đổi 
theo các điều kiện khách quan. Việc đánh giá các phương án giúp nhà quản trị có thể so  
13


sánh từ đó chọn lựa được phương án tối ưu nhất. Để  so sánh các yếu tố  cần phải có  
một hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá đồng nhất. Tuy nhiên, trong thực tế những hoạch  
định thường chứa nhiều mục tiêu và nhiều yếu tố  không thể  lượng hóa được. Ví dụ:  
mức độ  hài lòng của khách hàng, tính thẩm mỹ  của một sản phẩm, chất lượng của 
một chiến dịch quảng cáo, mức độ tác động đến hành vi mua của người tiêu dùng…
Có nhiều cách đánh giá và so sánh giữa các phương án, tổng quát có 2 nhóm 
phương pháp cơ bản để đánh giá:
  Các phương pháp định tính:  sử  dụng kinh nghiệm và những phân tích, suy 
luận cơ bản để đánh giá. Tuy chưa thể giúp nhà quản trị lựa chọn phương pháp tối ưu 
nhưng nó cho phép đưa ra những nhận xét sơ bộ để loại trừ  phương pháp kém những  
khả thi nhất.
   Các phương pháp định lượng:  dùng các phương pháp toán, thống kê… để 
định lượng và đánh giá mức độ thỏa mãn các yêu cầu của từng phương án. 
6. Lựa chọn phương án tối ưu
Sau khi so sánh các phương án, nhà quản trị  sẽ chọn ra phương án tối ưu nhất  
dựa trên kết quả  đánh giá. Không thể  có một phương án tối  ưu cho mọi điều kiện 
khách quan khác nhau. Do đó, đây chỉ là phương án có nhiều ưu điểm nhất, nhiều khả 
năng thực hiện kế  hoạch tốt nhất trong điều kiện khách quan hiện có hoặc trong dự 
đoán, theo tiêu chuẩn đề  ra cho từng trường hợp: thu hồi vồn nhanh nhất, lợi nhuận  
lớn nhất, tiết kiệm chi phí nhất…
Tuy nhiên, việc phân tích đánh giá cho thầy không phải lúc nào cũng chỉ có một 
phương án tối  ưu, có thế  có nhiều phương án thích hợp cho một hoạch định và nhà  

quản lý có thể chọn một trong số những phương án đó.
Để  lựa chọn được phương án tối  ưu cần phải được kết hợp nhiều phương
pháp. Các phương pháp cơ bản thường được áp dụng:
(1) Dựa và kinh nghiệm;
(2) Phương pháp thực nghiệm;
(3) Phương pháp nghiên cứu và phân tích;
14


(4) Phương pháp mô hình hóa.
7. Lập các kế hoạch phụ trợ
Một kế  hoạch chính luôn đòi hỏi có những kế  hoạch phụ  trợ  kèm theo. Kế 
hoạch hỗ  trợ  là những kế  hoạch chi tiết, nó đảm bảo cho kế  hoạch chính được thực 
hiện tốt. Ví dụ: Khi công ty X lên kế hoạch đưa ra thị trường một dòng sản phẩm mới 
ngoài kế hoạch nghiên cứu, sản xuất; công ty X còn có những kế hoạch hỗ trợ như kế 
hoạch nghiên cứu thị trường, kế hoạch vật tư, kế hoạch khuyến mãi và quảng cáo, kế 
hoạch hậu mãi…
Các  kế hoạch hỗ trợ còn bao gồm cả chương trình công tác của những bộ phận  
và   cá   nhân  có  liên  quan,   nhằm  biến  những  kế   hoạch  này  thành  những  hành  động 
(những việc làm) cụ thể.
8. Lập ngân quỹ và dự kiến chi phí
Sau khi kế hoạch được xây dựng, đòi hỏi nhà quản trị phải tiến hành lượng hoá  
các thông số, chỉ  tiêu như: doanh thu, thu nhập, hoặc lợi ích bằng tiền của kế  hoạch 
mang lại và các khoản chi phí thực hiện. Đây là bước chuyển kế  hoạch sang dạng  
ngân quỹ dựa và đó để tổ chức thực hiện kế hoạch , đồng thời làm cơ sở đánh giá hiệu 
quả kinh tế của kế hoạch.

15



CHƯƠNG II:
MỤC TIÊU – NỀN TẢNG CỦA VIỆC LẬP KẾ HOẠCH
I. KHÁI NIỆM MỤC TIÊU
Khi nhà quản trị quyết định đề ra một kế hoạch cho tương lai của một tổ chức  
thì kế hoạch đó là cả một hệ thống phức tạp được thực hiện nghiên cứu tỉ mỉ bởi nhà 
quản trị. Nhưng dù gì đi nữa, thì kế  hoạch đó luôn sẽ  và luôn phải bắt đầu với việc  
xác định mục tiêu. Một kế hoạch không thể thiếu “mục tiêu”, giống như cây không thể 
thiếu gốc rễ. Nếu gốc rễ  của một cái cây là điểm xuất phát của thân cành nhánh lá, 
quyết định sự  sống của nó trước gió bão thì “mục tiêu” là cơ  sở  để  quyết định hàng 
loạt các vấn đề  về  sau của kế  hoạch, quyết định sự  thành công hay thất bại của kế 
hoạch, và quan trọng hơn hết là quyết định vận mệnh của cả tổ chức.
Trên thực tế, có nhiều khái niệm hay cách hiểu khác nhau về mục tiêu. Sau đây 
là một số khái niệm điển hình:
 Mục tiêu là đích nhắm về tương lai mà quản trị viên hi vọng sẽ đạt được.
 Mục tiêu là những mong đợi mà nhà quản lý muốn đạt được trong tương lai  
cho tổ chức của mình, là phương tiện để đạt tới sứ mạng.
 Mục tiêu là kết quả dự kiến cho sự nỗ lực hoạt động của tổ chức.
Mục tiêu thường mang tính tương lai, đích nhắm tới tương lai: một nhà quản trị 
đưa ra mục tiêu cho doanh số bán hàng trong quý sau là tăng 10%. Rõ ràng, việc “tăng 
doanh số  bán hàng quý sau 10%” là việc của tương lai, là một sự  tăng trưởng trong  
tương lai. 
Một mục tiêu được đặt ra luôn đi liền với một sự  thay đổi về  chất hoặc về 
lượng hoặc cả hai. Mục tiêu đòi hỏi sự loại bỏ những tình trạng bất cập của tố chức,  
hoàn thiện hơn những việc đã làm tốt trong hiện tại. Một công ty may mặc đặt ra mục 
tiêu chiếm lĩnh thị trường trong vòng 5 năm, một doanh nghiệp sản xuất thép xác định  
mục tiêu tăng sản lượng thép xây dưng 5% vào quý sau... Đó là những mục tiêu, và 
những mục tiêu trên đều hướng tới sự  phát triển thịnh vượng của Việt Nam trong  
16



những năm tới. Nói tóm lại mục tiêu luôn hướng tới một sư thay đổi tốt đẹp, một sư 
hoàn thiện hoặc tăng trưởng…
Mục tiêu đòi hỏi sự  nổ  lực và làm việc khoa học. Một mục tiêu nếu như  chỉ 
được đặt ra đơn thuần như thế thì chẳng có ý nghĩa gì. Mục tiêu cần sự nổ lực của tất  
cả các thành viên trong tổ chức, chịu trách nhiệm cao trên nhiệm vụ của mỗi người. Và  
đồng thời, cách thức tiến hành thực hiện mục tiêu nhất khoa học, hợp lý sẽ  góp phần  
tăng khả  năng đạt được mục tiêu, hạn chế  những sự  cố phát sinh… Đồng thời, mục  
tiêu được đề ra bởi những nhà quản trị. Việc đặt ra mục tiêu cho tổ  chức hoặc doanh  
nghiệp phải do những nhà quản trị, ban giám đốc lập ra, bởi vì đó là trách nhiệm của 
họ, chuyên môn và kiến thức của họ. 
II. SỰ ĐA DẠNG CỦA MỤC TIÊU
Một tổ  chức hay cụ  thể  hơn là một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển  
vững mạnh thì không thể nào không có những mục tiêu. Trên thực tế, có rất nhiều mục 
tiêu mang những tính chất khác nhau. Và gắn với những đối tượng, những bộ  phân, 
những tiêu chí khác nhau thì ta có những mục tiêu khác nhau hình thành nên một hệ 
thống vô cùng đa dạng. 
Xét về mức độ cụ thể thì ta có thể có mục tiêu định tính và mục tiêu định lượng.  
Những mục tiêu định lượng thường đi kèm với những con số, mang tính cụ  thể, rõ  
ràng. Một doanh nghiệp đặt ra mục tiêu tăng sản lượng sản xuất tháng sau là 1500 sản  
phẩm, thì đó là mục tiêu định lượng. Mục tiêu định tính thường không gắn với những 
con số cụ thể, nó xác định tính chất, mức độ, khả năng thành công chẳng hạn như mức  
độ hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ giao hàng tận nơi, mức độ thành công của 
chiến dịch marketing mới.
Xét theo thứ  tư  ưu tiên thì một tổ  chức có thể  có hai loại mục tiêu là mục tiêu  
hàng đầu và mục tiêu thứ hai. Những mục tiêu hàng đầu rất quan trọng, nó quyết định 
hoặc ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại, phát triển và thành đạt của một tổ chức. Những 
mục tiêu về  doanh số, lợi nhuận, thị  trường, chỉ số tăng trưởng… là những mục tiêu 
hàng đầu. Bên cạnh đó, mục tiêu thứ hai cũng không kém phần quan trọng, nó liên quan 
mật thiết đến tính hiệu quả của tổ chức nhưng không hẳn sẽ ảnh hưởng đến sự sống  
17



còn của tổ  chức. Các mục tiêu này có thể  là mức độ  hài lòng của khách hàng về  sản  
phẩm mua, về  chính sách bảo hành, tính hiệu quả  của chiến dịch quảng cáo… Thế 
nhưng, xét đến cùng, thì chúng ta không nên đánh giá quá cao mục tiêu này mà bỏ quên 
mục tiêu khác, vì cả  hai đều rất quan trọng, vấn đề   ở  đây là phải biết xác định mục  
tiêu sao cho rõ ràng, cụ thể, hợp lý và mang tính khả thi.
Trong một tổ  chức có nhiều bộ phận và mỗi bộ  phận đảm nhiệm những chức  
năng khác nhau nhưng thống nhất trong một hệ thống. Và vì vậy khi mục tiêu chung 
của tổ chức được chia thành mục tiêu cho từng bộ phận thì sẽ  tạo ra những mục tiêu  
khác nhau về  nhiều mặt, khiến cho mục tiêu trở  nên đa dạng hơn, gắn với bộ  phận  
bán hàng thì sẽ có những mục tiêu liên quan tới lượng hàn bán trong quý, trong năm còn  
gắn với bộ  phận sản xuất thì sẽ  có những mục tiêu liên quan đến năng suất, chất 
lượng sản phảm…
Ngoài ra, chúng ta có thể kể đến hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu đối 
với tổ  chức đó chính là: mục tiêu chiến lược và mục tiêu tài chính. “Sức khỏe” của  
một tổ chức được phản ánh thông qua kết quả tài chính, vì thế  mọi người luôn mong  
muốn có một kết quả  tài chính khả  quan bởi nó  ảnh hưởng đến sự  sống còn của tổ 
chức đó. Do đó, việc xác định mục tiêu tài chính rất quan trọng. Đồng thời, mục tiêu  
chiến lược một phần nào đó thể hiện tương lai của tổ chức. Mục tiêu chiến lược chỉ 
ra con đường phát triến nhằm giúp tổ chức tìm được chỗ đứng và tìm được cách đứng  
vững trên thị trường, trong môi trường cạnh tranh.
Mục tiêu chung còn được phân chia thành các mục tiêu nhỏ  hơn gắn với hoạt  
động của từng bộ phận và dĩ nhiên sẽ  được giao cho từng nhà quản trị  ở  các cấp lớn 
nhỏ khác nhau. Nhưng rõ ràng, tất cả  đều sẽ  phải hướng về  mục tiêu sứ  mệnh. Mỗi 
bộ phận, mỗi thành viên đều cố gắng để đạt được mục tiêu đó, quyết định con đường  
phát triển của tổ  chức có đúng như  hướng đã đề  ra hay không. Sự  hình thành của 
những mục tiêu với tầm quan trọng khác nhau, tính chất khác nhau, thuộc các chức 
năng khác nhau đã hình thành nên một hê thống mục tiêu vô cùng đa dạng. Thế nhưng, 
những mục tiêu ấy tuy đa dạng nhưng vô cùng thống nhất bởi vì tất cả đều nhằm đạt 

được mục tiêu chung, mục tiêu sứ mệnh của tổ chức.
18


III. CÁC LOẠI MỤC TIÊU
1. Mục tiêu định lượng
Là mục tiêu có xác định rõ số  lượng và thời gian cần đạt được.Các hoạt động 
của một tổ  chức được qui về  nhiều mục tiêu khác nhau, tùy theo mức định thời gian 
của mỗi mục tiêu. Thời gian là một chiều kích cần quan tâm khi xác định mục tiêu, 
chẳng hạn mục tiêu ngắn hạn, tầm trung hoặc dài hạn. Do đó, thứ  tự   ưu tiên và thời 
tính có sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Quản trị viên tùy theo cấp bậc và trách nhiệm cần 
quan tâm đến thời tính khi nhắm đến sự  hiệu năng của mỗi mục tiêu, cũng như  sự 
phối hợp về nhân sự khi bước vào tiến trình đạt mục tiêu, một số mục tiêu định lượng 
có thể đo lường được như: lợi nhuận, doanh thu của một doanh nghiệp; thu nhập quốc  
dân bình quân đầu người của một quốc gia trong năm…
2. Mục tiêu định tính 
Là mục tiêu không xác định rõ thời gian và số lượng cần đạt được, vì chúng không 
thể đo lường được như: mục tiêu đổi mới máy móc, thiết bị; nâng cao trình độ  tay nghề 
của công nhân của một doanh nghiệp;chất lượng sản phẩm cao; vị thế trong ngành cao và  
ổn định,…Trong thực tế, chúng ta thường gặp những mục tiêu mang tính định tính. Ví dụ: 
“đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh”; “tốt”; “khách hàng hài lòng”;…. Với những mục  
tiêu định tính này, mỗi người sẽ hiểu theo một kiểu, khó thống nhất được và không thể 
đo lường một cách chính xác vì không có thước đo cụ thể. Và vì vậy, ta khó có thể kiểm 
tra và đánh giá mức độ hoàn thành của mục tiêu.
Vì vậy, khi xác định mục tiêu, bạn nên cố gắng chuyển các mục tiêu định tính sang 
định lượng. Ví dụ: với mục tiêu “khách hàng hài lòng”, bạn có thể  chuyển thành: “80% 
khach hàng trở lại”. Khi đó, con số “80%” đủ cụ thể & có thể đo lường được.
3. Mâu thuẫn giữa các mục tiêu
Hoạt động của một tổ chức gắn liền với các mục tiêu định sẵn. Các mục tiêu này  
liên hệ  với nhiều người và nhiều nhóm khác nhau, chẳng hạn giới đầu tư  của tổ  chức, 

chính phủ, nhân công, giới cung cấp vật liệu, giới tiêu thụ sản phẩm, giới chủ nhân, vv… 
Tất cả  các thành phần này đều nhắm đến quyền lợi riêng của họ. Giới đầu tư  và chủ 
19


nhân muốn kiếm nhiều lợi nhuận, chính phủ muốn thu thuế đúng thời hạn và bảo vệ môi  
trường khỏi sự  ô nhiễm, nhân công cần được phân phối giờ  làm việc một cách công 
bằng… Những đòi hỏi của mỗi thành phần này rất dể  đem đến sự  xung đột trong tiến 
trình thực hiện mục tiêu. Do vậy, quản trị viên không những phải năng động mà còn cần  
quan tâm đến giá trị thực tiễn của mỗi công việc, cũng như sự công ích chung mà công ích 
của xã hội và tổ chức là quan trọng hơn cả.
Một cách khác để xác định mục tiêu là xác định xem mục tiêu đó là mục tiêu thực 
hay công bố. Mục tiêu công bố thường là những lời phát biểu chính thức về những mục 
tiêu mà tổ  chức muốn những cá nhân liên quan biết và tin tưởng. Tuy nhiên, những mục  
tiêu công bố rõ ràng trong các bản báo cáo năm của tổ chức, lời phát biểu chính thức của  
các nhà quản trị… thì thường mâu thuẫn với nhau và bị  tác động nặng nề  bởi những kì 
vọng của xã hội đối với tổ  chức. Đôi lúc mâu thuẫn giữa các mục tiêu xảy ra vì các tổ 
chức phải đáp ứng yêu cầu của nhiều nhóm tác nhân khác nhau vì các tác nhân khác nhau  
có cách đánh giá hoạt động khác nhau. Nếu bạn muốn biết mục tiêu thật sự  của một tổ 
chức, những mục tiêu mà tổ chức này thật sự theo đuổi thì hãy quan sát hành động, công 
việc của các thành viên trong tổ chức.
IV.   ĐẶC   ĐIỂM   CỦA   MỘT   MỤC   TIÊU   ĐƯỢC   THIẾT   LẬP   TỐT  
(S.M.A.R.T)
Không phải tất cả các mục tiêu đều được đề  ra như  nhau. Có một số mục tiêu  
hơn hẳn những mục tiêu khác. Làm thế nào bạn có thể phân biệt được chúng? Điều gì 
là yếu tố tạo nên một mục tiêu cụ thể? Và thế nào là một mục tiêu được thiết lập tốt?

20



1. Đặc điểm của một mục tiêu được thiết lập tốt
(S) Specific: Mục tiêu đặt ra phải rõ ràng, tránh tình trạng mập mờ, rắc rối. Phải 
thể  hiện được chính xác bạn muốn chuyện gì sẽ  xảy ra. Yếu tố  SPECIFIC sẽ  giúp  
chúng ta tập trung sức lực để làm cho vấn đề  trở  nên sáng tỏ, và biết được mình cần  
phải làm gì. Để  làm được chuyện đó thì chúng ta có thêm 3 công cụ  nhỏ  là: WHAT, 
WHY và HOW.
­ WHAT: Mình thực sự muốn làm cái gì? Vấn đề này mình làm một mình hay là 
phải một nhóm hoặc một công ty? …
­ WHY: Tại sao trong hàng tá mục tiêu mình phải ưu tiên cho cái này trước. Tại 
sao đến giờ  mình vẫn chưa thực hiện được? Tại sao mình phải quyết tâm đạt được 
mục tiêu? …
­ HOW: Làm sao để mình làm được điều đó? Làm sao để đi từng bước nhỏ? …
Một mục tiêu cụ  thể  cần xác định rõ những kết quả  hơn là đặt ra các hành 
động. Kết quả cuối cùng là nhân tố quan trọng nhất quyết định trong việc đề ra bất kỳ 
mục tiêu nào, và do đó các mục tiêu được đặt ra phải phản ánh được điều này.
(M)  Measurable:  Yếu tố  tiếp theo đó là, một mục tiêu phải đo lường và định 
lượng được. Nếu một mục tiêu có thể  định lượng thì việc đánh giá đã đạt được mục  
tiêu hay không sẽ đơn giản hơn nhiều. Giả sử một trong những mục tiêu mà tổ  chức 
21


bạn hướng đến là “sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao”. Đối với bạn, thế 
nào là sản phẩm “chất lượng cao” ? Vì có rất nhiều cách định nghĩa về chất lượng, do 
đó mục tiêu đưa ra phải đưa ra cách thức đánh giá cụ  thể  sản phẩm của bạn có chất 
lượng cao hay không. Thậm chí ngay cả  lĩnh vực khó định lượng, bạn cũng phải tìm 
một vài cách cụ thể nào đó để xác định xem mục tiêu của bạn có đạt được không. 
(A) Attainable: Tại sao phải đặt ra mục tiêu khi mà chính bạn cũng không thể 
xác định rằng có đạt được mục tiêu đó hay không? Khi bạn xác định được mục tiêu này 
quan trọng với bạn như thế nào, bạn từng bước hình dung ra con đường để  biết mục 
tiêu thành hiện thực. Ở giai đoạn này, bạn bắt đầu phát triển những thứ cần thiết như 

quan niệm, khả năng, kỹ năng, năng lực tài chính để hiện thực hóa mục tiêu. Đây là dịp  
để bạn nhìn lại quá khứ, những quyết định nào của bản thân đã đẩy bạn ra khỏi ước  
mơ, giờ  đây hãy sáng suốt hơn trong những lúc lựa chọn hành động trong cuộc sống. 
Sự  lựa chọn hành động sẽ  giúp bạn đến gần mục tiêu mình hơn hoặc đẩy bạn ra xa, 
hãy cân nhắc.
(R)  Relevant:  Độ  dài của mục tiêu tùy thuộc vào tầm nhìn hiện tại của bạn.  
Nếu bạn đặt ra mục tiêu cụ thể nhưng xa vời quá, khi bạn chưa đi đến thành công, thì 
lửa đam mê trong bạn đã tắt và dĩ nhiên là bạn sẽ  bỏ nó qua một bên. Và cũng không  
nên ngắn quá vì bạn sẽ dễ dàng đạt được và bạn sẽ thành con thỏ trong cuộc chạy đua 
“Rùa và Thỏ”. Hãy để  nó nhỉnh hơn khả  năng của bạn một ít. Điều này sẽ  liên tục  
giúp bạn hành động.
(T) Time­bound: Khi đề  cập đến việc xác định những cách thức đánh giá việc  
hoàn thành mục tiêu, thì một mục tiêu rõ ràng cần phải được định rõ trong một khung 
thời hạn cụ thể. Mặc dù bạn có thể thích những mục tiêu kết thúc mở hơn vì tính linh 
hoạt của nó, nhưng trên thực tế  thì chính những mục tiêu không xác định khung thời  
hạn như thế lại làm cho tổ chức kém linh hoạt hơn. Sở dĩ có điều này là do bạn không  
chắc chắn khi nào thì cần phải hoàn thành mục tiêu hay khi nào thì nên loại bỏ những 
mục tiêu đó sẽ  không bao giờ  có thể  hoàn thành được. Một mục tiêu cụ  thể  luôn xác 
định rõ khung thời hạn cụ thể.
22


* Ngoài ra, mục tiêu cụ  thể  có tính thách thức nhưng phải là mục tiêu khả  thi. 
Những mục tiêu quá dễ dàng hay những mục tiêu khó đạt tới đều không thúc đẩy được 
con người.
Yếu tố tiếp theo, một mục tiêu cụ  thể cần được trình bày bằng văn bản. Điều 
này dường như sẽ mất nhiều thời gian, nhưng chính việc viết ra mục tiêu đó sẽ khiến  
người ta phải cân nhắc cẩn thận hơn. Thêm vào đó, những mục tiêu được viết ra chính 
là những bằng chứng hữu hình nói lên tầm quan trọng của việc phải thực hiện mục  
tiêu.

Cuối cùng, một mục tiêu cụ  thể  cần phải được phổ  biến tới tất cả  các thành 
viên trong tổ  chức. Việc mọi người đều nhận thức rõ về  mục tiêu sẽ  bảo đảm rằng 
tất cả  họ  đều đang  ở  trong cùng một trạng thái, một tinh thần làm việc giống nhau  
giúp cho mục tiêu của tổ chức có thể hoàn thành được.
2. Các bước trong việc xác lập một mục tiêu rõ ràng 
Những bước nào mà một nhà quản trị cần phải tiến hành khi thiết lập một mục 
tiêu? Quá trình xác lập mục tiêu bao gồm 5 bước sau: 
2.1. Đánh giá lại sứ mạng – mục đích quan trọng của tổ chức:  Những tuyên 
bố khái quát về sứ mạng của tổ chức và những điều tổ chức muốn đạt tới sẽ là những  
hướng dẫn chung cho những điều mà các thành viên trong tổ  chức cho là quan trọng. 
Do đó cần thiết phải xét đến các sứ  mạng của tổ  chức trước khi thảo mục tiêu vì 
những mục tiêu này sẽ phản ánh chính sứ mạng của tổ chức. 
2.2. Đánh giá những nguồn lực sẵn có: Bạn không nên đề  ra những mục tiêu 
mà bạn không thể đạt tới với nguồn lực có hạn của mình. Mặc dù những mục tiêu thì 
cần có tính thách thức nhưng nó cũng phải thực tế. Bởi vì, nếu như  những nguồn lực  
bạn có không đủ để bạn đạt được mục tiêu dù bạn đã cố gắng và nỗ lực hết sức, thì 
bạn cũng   không nên đề  ra nó. Điều đó giống như  chuyện một người có thu nhập 
50.000 đô­la mỗi năm và không có thêm bất kỳ nguồn tài chính nào khác mà lại đề  ra  
mục tiêu xây dựng một căn nhà trị  giá 1 triệu đô­la trong 2 năm. Mặc dù người  ấy có  
làm việc chăm chỉ đến thế nào đi nữa thì điều đó cũng là bất khả thi. 
23


2.3. Tự mình quyết định mục tiêu hay với sự hỗ trợ của người khác: Những 
mục tiêu này phản  ảnh những kết quả mà tổ  chức mong đợi; do đó, nên tương xứng 
với những mục tiêu khác của tổ chức trong những lĩnh vực khác. Những mục tiêu cần 
phải cụ thể, đo lườngđược và bao gồm một khung thời hạn rõ rệt.  
2.4. Viết ra những mục tiêu và phổ  biến nó cho tất cả những người có liên  
quan: Lợi ích của việc viết ra và phổ  biến mục tiêu đã được trình bày  ở  phần trước 
(phần I). 

2.5. Đánh giá kết quả xem có đạt được mục tiêu hay không: Và đưa ra sửa đổi 
nếu cần. Một khi mục tiêu đã được thiết lập, viết ra và phổ  biến, điều đó có nghĩa là  
nhà quản trị đã sẵn sàng phát triển một kế hoạch theo đuổi mục tiêu.
V. THIẾT LẬP MỤC TIÊU THEO QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG 
1. Đặc điểm
­ Mục tiêu theo quan điểm truyền thống được hình thành từ cấp cao nhất, sau đó 
được chia thành những mục tiêu nhỏ hơn cho mỗi cấp của tổ chức.
­ Mục tiêu từ cấp cao nhất chỉ có tính hướng dẫn. Các nhà quản trị cấp dưới sẽ 
tùy vào nhận định của mình và tình hình của phòng ban mình để  làm cho mục tiêu đó 
cụ thể và hiện thực hơn.
2. Ưu điểm
­ Mục tiêu được hình thành theo 1 hệ thống từ trên xuống, nên có tính nhất quán 
cao, phù hợp với mục tiêu chung của công ty;
­ Tiết kiệm được thời gian họp hành, thảo luận;
­ Các phòng ban trong công ty có thể dễ dàng thiết lập được mục tiêu cho mình  
một cách dễ dàng và hợp lý, vì đã có sự hướng dẫn từ mục tiêu cấp cao.

3. Khuyết điểm
­ Các cá nhân trong công ty không hiểu được sâu sắc tình hình của công ty do họ 
chỉ là những người thừa hành những mục tiêu từ trên truyền xuống;
24


­ Không xác định được một cách rõ ràng nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hành  
đối với mỗi thành viên;
­ Không lôi kéo được mọi cá nhân tham gia vào quá trình xây dựng mục tiêu cho 
công ty nên sẽ không có lợi trong việc phát huy tính sáng tạo, đột phá, sự nhiệt tình và 
trách nhiệm của cá nhân đối với các công việc họ làm. Không tạo điều kiện và cơ hội  
cho sự thăng tiến, phát huy năng lực của cá nhân;
­ Làm cho việc kiểm tra, đánh giá nhân viên trở nên khó khăn hơn;

­ Không tạo điều kiện cho nhà quản trị và các thành viên hiểu nhau hơn, xét trên 
cả phương diện cá nhân và công việc chung.
VI. QUẢN TRỊ BẰNG MỤC TIÊU – MBO (Management By Objectives) 
     

Phương pháp quản trị theo mục tiêu (MBO) thành hình vào giữa thập niên 1950  

(với tác giả tiên phong là Peter F. Drucker và Mc Gregor), được áp dụng rộng rãi trong  
các doanh nghiệp nước ngoài và ngày càng trở nên phổ biến với vai trò là phương pháp  
quản trị tối ưu nhất hiện nay. Phương pháp này phản ánh rõ nét quá trình phát triển của 
quản trị  doanh nghiệp, từ quản trị mang tính chỉ  huy theo chiều dọc với phương pháp  
quản trị theo thời gian (Management by Time ­ MBT) sang quản trị theo m ục tiêu mang  
tính kết nối và công tác theo chiều ngang (MBO).
1. Định nghĩa
MBO là phương pháp quản trị  mà trong đó mỗi thành viên, mỗi bộ  phận thuộc 
tổ  chức tự  nguyện ràng buộc và tự  cam kết hành động trong suốt quá trình quản trị 
theo mục tiêu, từ  hoạch định đến kiểm tra. Nhà quản trị  và thuộc cấp cùng xác định 
những mục tiêu rõ ràng; những mục tiêu này được các thành viên tự  cam kết và tự 
kiểm soát. Điều đó thể hiện mặt  ưu việt của phương pháp MBO là hợp nhất các yêu  
cầu của tổ chức (hay hài hoà giữa mục tiêu và tổ chức).  

2. Quá trình MBO                                                        
25


×