Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Giáo dục chính trị: Tích cực hóa phương pháp thuyết trình trong dạy học môn gdcd phần “Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội” trong chương trình Giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.74 MB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

                

  

 TRẦN DUY LÂM

Đề tài:
TÍCH CỰC HÓA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT 
TRÌNH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD 
PHẦN “ CÔNG DÂN VỚI CÁC VẤN ĐỀ 
CHÍNH TRỊ ­ XàHỘI” TRONG CHƯƠNG 
TRÌNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 11 Ở 
TRƯỜNG THPT
(Khảo sát thực tế ở Trường THPT Trưng Vương – Quận 
1)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH GIÁO DỤC CHINH TRỊ


TP. HỒ CHÍ MINH 5/2014

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

                

Đề tài:


TÍCH CỰC HÓA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT 
TRÌNH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD 
PHẦN “ CÔNG DÂN VỚI CÁC VẤN ĐỀ 
CHÍNH TRỊ ­ XàHỘI” TRONG CHƯƠNG 
TRÌNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 11 Ở 
TRƯỜNG THPT
(Khảo sát thực tế ở Trường THPT Trưng Vương – Quận 
1)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH GIÁO DỤC CHINH TRỊ

Giảng viên hướng dẫn: TS. Phí Văn Thức


               Sinh viên thực hiện: Trần Duy Lâm
TP. HỒ CHÍ MINH 5/2014

LỜI CÁM ƠN
Tôi xin bày tỏ  lòng biết  ơn tới các thầy, cô giáo khoa Giáo  
Dục Chính Trị  trường Đại học Sư  Phạm TP. Hồ Chí Minh  
đã tận tình truyền đạt những tri thức quý báu, giúp đỡ  tôi  
hoàn thành tốt khóa học và khóa luận tốt nghiệp.
 Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo,  
TS. Phí Văn Thức, người đã bỏ  ra nhiều tâm huyết, nhiệt  
tình giúp đỡ  tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu,  
đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành cuốn khóa  
luận tốt nghiệp này.
Bên cạnh đó cho phép tôi gửi lời cảm  ơn sâu sắc đến các  
thầy cô, công nhân viên cũng như toàn thể học sinh Trường  

THPT Trưng Vương đã nhiệt tình và giúp đỡ  tôi trong quá  
trình   thực   nghiệm   cho   đề   tài   nghiên   cứu   khóa   luận   tốt  
nghiệp.

TP. Hồ Chí Minh tháng 05 năm2014
                                                     Tác giả


                                             Trần Duy Lâm

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GDCD : Giáo dục công dân 
GV : Giáo viên
 HS : Học sinh
 PPDH : Phương pháp dạy học 
PPTT : Phương pháp thuyết trình 
THPT : Trung học phổ thông
XH : Xã hội
DS: Dân số


GDCD: Giáo Dục Công Dân
PPDHTC: Phương Pháp dạy Học Tích Cực

MỤC LỤC
Chương 1. CƠ  SỞ  LÍ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC  
TÍCH CỰC HÓA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG 
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 11 Ở TRƯỜNG 
THPT TRƯNG VƯƠNG.
1.1


Phương pháp thuyết trình và mối quan hệ  của nó với phương pháp 
dạy học khác trong dạy học môn Giáo Dục Công Dân

1.1.1

Phương pháp thuyết trình

1.1.2

Cấu trúc phương pháp thuyết trình

1.1.3

Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp thuyết trình

1.1.4

Mối quan hệ của nó với phương pháp dạy học khác trong dạy học môn  
Giáo Dục Công Dân

1.1.4.1

Phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại

1.1.4.2

Phương pháp thuyết trình với phương pháp giải quyết vấn đề

1.1.4.3


Phương pháp thuyết trình với phương pháp trực quan


1.2

Phương pháp dạy học tích cưc

1.2.1

Định hướng để đổi mới

1.2.2

Thế nào là tính tích cực học tập

1.2.3

Phương pháp dạy học tích cực

1.2.4

Mối quan hệ  giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm  
trung tâm

1.2.5

Một số hình thức thuyết trình theo hướng tích cực

1.2.5.1


Thuyết trình nêu vấn đề

1.2.5.2

Thuyết trình theo kiểu thuật chuyện

1.2.5.3

 Thuyết trình theo kiểu phân tích

1.2.5.4

Thuyết trình nêu vấn đề có tính giả thuyết

1.2.5.5

Thuyết trình theo kiểu so sánh tổng hợp

1.3

Nội dung chương trình Giáo Dục Công Dân lớp 11.
1.3.1 Phần một: Công dân với kinh tế
1.3.2 Phần hai: Công dân với các vấn đề chính trị ­ xã hội

1.4

Tình hình vận dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học phần 
“Công dân với các vấn đề chính trị­xã hội” ở Trường THPT Trưng 
Vương


1.4.1

Khái quát tình hình trường THPT Trưng Vương

1.4.2

Thực trạng dạy học và những kết quả đạt được trong việc vận dụng 
PPTT trong giảng dạy phần “ Công dân với các vấn đề chính trị­xã 
hội” ờ  trường THPT Trưng Vương.


Chương 2: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VỀ VIỆC VẬN DỤNG 
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG DẠY HỌC PHẦN 
“CÔNG DÂN VỚI CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ­XàHỘI”
2.1 Chuẩn bị thực nghiệm
2.1.1 Mục đích thực nghiệm
2.1.2 Đối tượng và địa điểm thực nghiệm
2.1.3 Giả thuyết thực nghiệm
2.1.4 Kế hoạch thực nghiệm
2.2 Nội dung thực nghiệm
2.2.1 Thiết kế giáo án một số bài thuộc phần “Cộng dân với các vấn đề 
chính trị­xã hội”
2.2.2 Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
2.3 Kết quả thực nghiệm
2.3.1 Lập bảng kết quả thực nghiệm
2.3.2 Phân tích, so sánh kết quả thực nghiệm

Chương   3.   QUY   TRÌNH   VÀ   GIẢI   PHÁP   VẬN   DỤNG 
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG DẠY HỌC PHẦN 

“   CÔNG   DÂN   VỚI   CÁC   VẤN   ĐỀ   CHÍNH   TRỊ   ­   XÃ   HỘI” 
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 11
3.1 Quy trình vận dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học phần “  
Công dân với các vấn đề chính trị ­ xã hội”
3.1.1 Thiết kế bài giảng theo hướng vận dụng phương pháp thuyết trình
3.1.2 Thực hiện tiến trình dạy học trên lớp
3.1.3 Thực hiện dạy học trên lớp


3.1.4 Sử dụng các phương tiện, thiết bị trong quá trình dạy học
3.1.5 Kiểm tra, đánh giá học sinh

3.2 Giải pháp vận dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học phần “ 
Công dân với các vấn đề chính trị ­ xã hội” chương trình Giáo Dục Công  
Dân 11
3.2.1 Giải pháp đối với GV
3.2.2 Giải pháp đối với học sinh
 3.2.3 Giải pháp đối với Sở Giáo dục và Đào tạo

MỞ ĐẦU


Tên đề tài: Tích cực hóa phương pháp thuyết trình trong dạy học môn GDCD 
phần “ Công dân với các vấn đề chính trị ­ xã hội”
1.Tính cấp thiết của đề tài 
Đổi mới các PPDH là thay thế các PPDH chỉ đem lại cho người học sự 
thụ động, lệ thuộc vào người dạy bằng các PPDH khác có khả năng làm cho  
người học tích cực chủ  động. Đổi mới PPDH đối với giáo dục và đào tạo  
nước ta hiện nay là nhiệm vụ tất yếu, cấp thiết. Bởi vì: Thứ nhất, khoa học  
kỹ thuật – công nghệ hiện nay phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi giáo dục và đào  

tạo vừa truyền thụ hệ thống tri thức đã có vừa cập nhật kịp thời những thông  
tin, tri thức mới. Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
của nước ta đang hội nhập với kinh tế thế giới đòi hỏi giáo dục và đào tạo 
nước ta phải xây dựng ở thế hệ  trẻ các thói quen, kỹ  năng tự lực, nghi vấn, 
suy luận, sáng tạo, phản  ứng nhanh và quyết đoán trước hoàn cảnh. Thứ ba, 
nhiệm vụ  đổi mới PPDH đã trở  thành cụ  thể  đối với toàn ngành cũng như 
từng GV vì nó được xác định rõ trong đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng 
sản Việt Nam (Nghị quyết TW 4 khóa VII (01­ 1993), Nghị quyết TW 2 khóa 
VIII (02­1996), được thể  chế  hóa trong Luật Giáo dục (2005), được cụ  thể 
hóa trong các chỉ  thị  của Bộ  Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt Chỉ  thị  số  14  
(04/1999). Đổi mới PPDH trong dạy học môn GDCD hiện nay hay các môn 
học khác  ở  trường THPT là đòi hỏi cấp thiết của XH, là nhiệm vụ  chuyên  
môn quan trọng của mỗi GV. Nhất là từ  năm học 2006­2007 trở  đi, chương 
trình phân ban THPT và sử dụng SGK mới theo quyết định của Quốc hội bắt  
đầu có hiệu lực. 
    Phương pháp thuyết trình có thể kết hợp với các phương pháp khác trong 
hệ  thống các PPDH môn GDCD trở  thành nhóm các phương pháp. Khi kết 
hợp như vậy PPTT vừa giữ được vai trò chủ đạo vừa khắc phục những hạn  
chế vốn có của nó, và như vậy PPTT có thể chuyển hóa trở thành những hình 
thức thuyết trình mới tích cực.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  
 2.1. Mục đích nghiên cứu


 Làm sáng tỏ bản chất, vai trò quan trọng của PPTT trong dạy học môn 
GDCD, trên cơ sở  đó luận chứng sự  cần thiết khách quan phải tích cực hóa 
PPTT. Đồng thời thông qua thực nghiệm sư phạm dạy học phần “Công dân 
với các vấn đề  chính trị  ­ xã hội” để  xây dựng quy trình tích cực hóa PPTT  
trong dạy học môn GDCD ở trường THPT.   

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
Với mục đích trên, đề  tài tập trung giải quyết các vấn đề  sau: Một là, 
làm rõ cơ  sở  lý luận và thực tiễn của vấn đề  tích cực hóa PPTT trong dạy  
học môn GDCD phần “Công dân với các vấn đề  chính trị  ­ xã hội”. Hai là, 
xác lập quy trình và những điều kiện cần thiết để  nâng cao hiệu quả  vận 
dụng PPTT theo hướng tích cực trong dạy học môn GDCD phần “Công dân  
với các vấn đề chính trị ­ xã hội”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
  3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hình thức thuyết trình theo hướng tích cực trong dạy học môn GDCD  
phần “Công dân với các vấn đề  chính trị  ­ xã hội”  ở  trường THPT Trưng  
Vương Quận 1, TP Hồ Chí Minh.
  3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ  một khóa luận tốt nghiệp, bước đầu đề  tài chỉ  tập trung  
luận giải cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tích cực hóa PPTT và khảo sát  
thực trạng, tiến hành thực nghiệm so sánh PPTT truyền thống với PPTT theo  
hướng tích cực trong dạy học phần “Công dân với các vấn đề  chính trị  ­ xã  
hội” ở trường
4. Giả thuyết khoa học
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra giả thuyết khoa học sau:
Nếu vận dụng PPTT trong dạy học phần “Công dân với các vấn đề chính trị 
­ xã hội” theo hướng phát huy tính tích cực của HS thì việc học môn GDCD  
sẽ hiệu quả hơn so với PPTT truyền thống.
5. Phương pháp nghiên cứu


Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và 
chủ  nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp logic và lịch sử, phương 
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh và hệ  thống … Khóa luận 
còn sử  dụng các phương pháp như  điều tra XH học, thực nghiệm sư  phạm,  

lấy ý kiến của các chuyên gia, thống kê toán học …
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận làm rõ các hình thức thuyết trình theo hướng tích cực và đề ra giải  
pháp tích cực hóa PPTT trong dạy học môn GDCD phần “Công dân với các 
vấn đề chính trị ­ xã hội” ở trường THPT. Kết quả nghiên cứu của khóa luận 
có thể làm tài liệu trong việc đổi mới phương pháp giáo dục ở trường THPT  
Trưng Vương Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, 
khóa luận gồm có  3 chương, 9 tiết.



NỘI DUNG
Chương   1.   CƠ   SỞ   LÍ   LUẬN   VÀ   THỰC   TIỄN   CỦA   VIỆC 
TÍCH CỰC HÓA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG 
DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1

Phương pháp thuyết trình và mối quan hệ  của nó với phương pháp 
dạy học khác trong dạy học môn GDCD.

1.1.1

Phương pháp thuyết trình

Theo tiếng Hy Lạp phương pháp là “Méthodos”, nó có nghỉa là con đường, 
cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định đã đặt ra từ  trước.  
Vì vậy, phương pháp là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự nhằm đạt 
được những kết quả phù hợp với mục đích đã định.

Qua khái niệm trên ta thấy rằng phương pháp có một cấu trúc phức tạp,  
bao gồm mục đích được đề  ra, hệ  thống những hành động, những phương  
tiện cần thiết, quá trính làm biến  đổi  đối tượng. Cho nên nếu mục đích 
không đạt được thì có nghĩa là phương pháp không phù hợp với mục đích  
hoặc nó không được sử dụng đúng.
Bất kỳ phương pháp nào, dù là phương pháp nhận thức hay phương pháp  
thực hành sản xuất, để  thực hiện có kết quả  vào đối tượng nào đó thì cũng 
phải biết được tính chất của đối tượng, tiến trình biến đổi của nó dưới tác  
động của phương pháp đó. Nghĩa là phải nhận thức những quy luật khách 
quan của đối tượng mà chủ  thể  định tác động vào thì mới đề  ra những biện  
pháp hoặc hệ  thống những thao tác cùng với những phương tiện tượng  ứng  
để nhận thức và để hành động thực tiễn.
Vậy thì phương pháp dạy học có đặc trưng gì khác với phương pháp nói 
chung? Cấu trúc của nó như thế nào?
Trong phương pháp dạy học, chủ  thể  tác động – người thầy giáo và đối 
tượng tác động của họ là học sinh. Còn học sinh lại là chủ thể tác động của 
mình vào nội dung dạy học. Vì vậy, người thầy giáo phải nắm vững những  
quy luật khách quan chi phối tác động của mình vào học sinh và nội dung dạy  
học thì mới đề ra những phương pháp tác động phù hợp.


Từ đó có thể nhận thấy đặc trưng của phương pháp dạy học: người học  
là đối tượng tác động của giáo viên, đồng thời là chủ  thể, là nhân cách mà 
hoạt động của họ  (tương  ứng vói sự  tác động của người giáo viên) phụ 
thuộc vào hứng thú, nhu cầu, ý chí của họ. Nếu giáo viên không gây cho học  
sinh có mục đích tương  ứng với mục đích của mình thì không diễn ra hoạt  
động dạy và hoạt động học và phương pháp tác động không đạt được kết  
quả mong muốn.
Vì vậy, cấu trúc của phương pháp dạy học trước tiên là mục đích của 
người   giáo   viên   đề   ra   và   tiến   hành   một   hệ   thống   hành   động   với   những 

phương tiện mà họ có. Dưới tác động đó của người giáo viên làm cho người 
học đề  ra mục đích của mình và thực hiện hệ  thống hành động với phương  
tiện mà họ có nhằm lĩnh hội nội dung dạy học.
Trên cơ sở đó, ta có thể hiểu về phương pháp dạy học như sau:
­

Phương pháp dạy học là cách thức hành động có trình tự, phối hợp  
tương tác với nhau của giáo viên và của học sinh nhằm đạt được mục 
đích dạy học.

­

Nói cách khác phương pháp dạy học là hệ  thống những hành động có 
chủ  đích theo một trình tự  nhất định của giáo viên nhằm tổ  chức hoạt  
động nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh nhằm đảm bảo 
cho họ lĩnh hội nội dung dạy học và chính như vậy mà đạt được mục  
đích dạy học.

­

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học  
với sự tương tác lẫn nhau, trong đó phương pháp dạy đóng vai trò chủ 
đạo, còn phương pháp học có tính chất độc lập tương đối, chịu sự chi 
phối của phương pháp dạy, song nó cũng  ảnh hưởng trở  lại phương 
pháp dạy.

­

Phương pháp dạy học là tổ hợp những biện pháp với tư cách là những 
thành phần cấu trúc của nó, song việc phân như  vậy cũng chỉ  có tính 

chất tương đối. Chẳng hạn giảng giải là phương pháp dạy học trong  
tiết học lĩnh hội tri thức mới nhưng lại là một biện pháp của phương 
pháp công tác trong phòng thí nghiệm. Điều đó có nghĩa là trong những 
điều kiện nhất định, chúng có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Ở đây tác giả muốn nhấn mạnh và đế cập đến PPTT trong dạy học.


Theo Phan Trọng Ngọ  “PPTT là phương pháp GV sử  dụng ngôn ngữ  
và phi ngôn ngữ để cung cấp cho người học hệ thống thông tin về  nội dung  
học tập. Người học tiếp thu hệ  thống thông tin đó từ  người dạy và xử  lý  
chúng tùy theo chủ thể người học và yêu cầu của người dạy học”
Theo tác giả PPTT là phương pháp dạy học bằng lời nói sinh động 
của giáo viên để trình bày một tài liệu mới hoặc tổng kết những tri thức 
mà học sinh đã thu lượm được một cách có hệ thống.
Từ trước đến nay, PPTT được coi là phương pháp độc thoại trong dạy  
học, là phương pháp cổ truyền. Dường như nó được sử dụng ở tất cả các bộ 
môn. Bằng phương pháp này, người ta truyền đạt cho HS những tri thức 
mang tính khái quát mà loài người đã thu nhận được, còn HS có nhiệm vụ 
lĩnh hội tri thức đó, hiểu, ghi nhớ và tái hiện, vận dụng nó trong cuộc sống.
  Đối với  môn GDCD, PPTT có vai trò rất quan trọng. Bởi vì trong 
giảng dạy, GV giúp HS lĩnh hội được những kiến thức cơ  bản, hiện đại, 
thiết thực, trừu tượng. Việc luận giải những tri thức trừu tượng, khái quát 
bằng những ngôn từ  trong sáng, tường minh đi vào lòng người khi thuyết  
giảng, GV đã góp phần kích thích tư  duy, rèn luyện năng lực sử  dụng ngôn  
ngữ và phát triển tư duy cho HS.
Nếu GV sử  dụng tốt phương pháp này trong giảng dạy môn GDCD sẽ  rất  
thuận lợi để  giảng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, qui luật… và có thể 
tránh được sự đơn điệu, thu hút được sự chú ý của HS.
1.1.2


Cấu trúc của phương pháp thuyết trình
Trong quá trình sử  dụng PPTT cần diễn giải một vấn đề  nào đó thì 
người sử dụng cần phải trải qua bốn giai đoạn: Đặt vấn đề, phát biểu  
vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận rút ra từ vấn đề đó.
­

Đặt vấn đề  là bước đầu tiên nhằm thông báo vấn đề  dưới dạng 
tổng quát để kích thích sự chú ý ban đầu của học sinh.

­

Phát biểu vấn đề là bước nêu lên những câu hỏi cụ thể nhằm vạch  
ra phạm vi những vấn đề cần phải xem xét.

­

Giải quyết vấn đề: Bước này có thể  tiến hành theo logic quy nạp  
hay logic diễn dịch.


+ Logic quy nạp là con đường nhận thức từ  sự  kiện, hiện tượng  
đến cái chung, cái khái quát, từ  những trường hợp cụ  thể  đến quy  
luật, khái niệm, nguyên tắc.
Theo logic quy nạp có thể có ba cách trình bày. Đó là: Quy nạp phân 
tích từng vấn đề đặt ra ở bước phát triển vấn đề tương đối độc lập  
với nhau. Vì vậy có thể giải quyết từng vấn đề, rút ra kết luận rồi 
chuyển sang giải quyết vấn đề khác.
Quy nạp phát triển: Nêu vấn đề  được giải quyết theo lối móc xích, 
nghĩa là giải quyết xong từng vấn đề thứ nhất thì kết luận rút ra sẽ 
lại làm tiền đề  cho việc giải quyết vấn đề  tiếp theo. Trong việc 

chứng minh các bài toán hình học thường gặp loại quy nạp này.
Quy nạp song song – đối chiếu: Nêu vấn đề  đặt ra phải giải quyết  
chứa đựng những mặt tương phản, đối lập.
+ Logic diễn dich là con đường nhận thức từ  nguyên lý chung đến 
cái cụ thể. Theo logic diễn dich, bắt đầu đưa ra các kết luận sơ bộ 
khái quát, sau đó tiến hành giải quyết có thể theo ba cách: phân tích 
từng phần, phân tích phát triển, phân tích so sánh – đối chiếu.
­

Kết luận: Là bước kết thúc việc trình bày vấn đề. Nó là sự kết tinh  
dưới dạng xúc tích, chính xác những khái quát bản chất của vấn đề 
đưa ra xem xét.
Cách đặt vấn đề  và cách phát biểu vấn đề  có thể  tiến hành bằng 
cách thông báo tái hiện hoặc có tính vấn đề. Cách giải quyết vấn đề 
có thể  bằng logic quy nạp hay logic diễn dịch. Điều đó chứng tỏ 
cấu trúc của phương pháp thuyết trình đã phản ánh mặt bên trong và 
mặt bên ngoài của phương pháp dạy học nói chung và phương pháp 
thuyết trình nói riêng.

1.1.3

Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình có những ưu điểm sau:

­ Cho phép giáo viên truyền đạt những nội dung lý thuyết tương đối  
khó, phức tạp, chứa đựng nhiều thông tin mà học sinh tự  mình không dễ 
dàng tìm hiểu được một cách sâu sắc.
­ Giúp học sinh nắm được hình mẫu về cách tư duy logic, cách đặt và  
giải quyết vấn đề  khoa học, cách sử  dụng ngôn ngữ  để  diễn đạt những 



vấn đề khoa học một cách chính xác, rõ ràng, xúc tích thông qua cách trình  
bày của giáo viên.
­ Tạo điều kiện thuận lợi  để  giáo viên tác động mạnh mẽ  đến tư 
tưởng, tình cảm của học sinh qua việc trình bày tài liệu với giọng nói, cử 
chỉ, điệu bộ thích hợp và diễn cảm.
­ Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý và kích thích tính tích cực tư 
duy của học sinh, vì có như  vậy học sinh mới hiểu được lời giảng của  
giáo viên và mới ghi nhớ được bài học.
­ Bằng phương pháp thuyết trình, giáo viên có thể truyền đạt một khối 
lượng tri thức khá lớn cho nhiều học sinh trong cùng một lúc, vì vậy đảm 
bảo tinh kinh tế cao.
Tuy nhiên, phương pháp thuyết trình còn có những hạn chế, nếu sử dụng  
không đúng có thể:
­ Làm cho học sinh thụ động, chỉ sử dụng chủ yếu thính giác cùng với  
tư duy tái hiện, do đó làm cho họ chóng mệt mỏi.
­ Làm cho học sinh thiếu tính tích cực trong việc phát triển ngôn ngữ 
nói.

1.1.4

1.1.4.1

­ Thiếu điều kiện cho phép giáo viên chú ý đầy đủ  đến trình độ  nhận 
thức cũng như kiểm tra đầy đủ sự lĩnh hội tri thức của từng học sinh.
  Mối quan hệ  của nó với phương pháp dạy học khác trong dạy học  
môn GDCD
Phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại

Trong giảng dạy môn GDCD có sử  dụng phương pháp đàm thoại, 

khi đó đàm thoại được kết hợp với thuyết trình. Phương pháp đàm 
thoại   được   xem   như   là   quá   trình   tương   tác   giữa   người   dạy   với 
người học, được thực hiện thông qua hệ  thống các câu hỏi và câu 
trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định do người dạy hay người  
học đặt ra. Kết quả là dưới sự  dẫn dắt của người dạy, người học  
thể  hiện được ý tưởng của mình; khám phá và lĩnh hội đối tượng 
học tập.


Thông thường có hai hình thức đàm thoại là đàm thoại có chủ  đích 
và đàm thoại tự  do. Đàm thoại có chủ  đích là hình thức đàm thoại  
mà câu hỏi của GV được sắp xếp theo một hệ  thống nhất  định 
hướng vào chủ đề. Hình thức đàm thoại này có ba loại là đàm thoại  
diễn giải (giảng giải các khái niệm, phạm trù), đàm thoại dẫn dắt  
(giúp HS nắm bắt từng đề mục và toàn bài), đàm thoại tìm tòi (buộc  
HS phải tìm tòi, tổng hợp, giải  đáp, rút ra kiến thức mới).  Đàm 
thoại tự do (gợi mở) là hình thức chuyển tải và lĩnh hội tri thức của  
GV và HS. Nhưng ở đây dựa trên cơ sở nội dung của bài học, GV và 
HS cùng đặt ra những câu hỏi và cùng trả  lời những câu hỏi đó.  
Trong dạy học môn GDCD, việc kết hợp phương pháp đàm thoại 
với PPTT sẽ góp phần khắc phục hạn chế của thuyết trình. Phương 
pháp thuyết trình với đặc điểm truyền thụ tri thức một chiều đã tạo 
nên những hạn chế  trong giảng dạy. Khi được kết hợp với đàm  
thoại, tính chất độc thoại được loại bỏ, thay vào đó là mối quan hệ 
tương tác tích cực giữa thầy và trò. Do sự  kết nối thông tin qua lại  
giữa thầy và trò được thiết lập mà không khí lớp học thay đổi tích  
cực, trò có điều kiện để  bộc lộ  phát triển ý tưởng và kỹ  năng vận  
dụng tri thức, được rèn luyện kỹ năng trình bày và tự  tin hơn trong  
học tập. Thầy có được thông tin phản hồi, điều chỉnh được kịp thời 
tài liệu và các thao tác sư phạm, đánh giá chính xác và đầy đủ  hơn  

về  trò. Chính nhờ  vậy mà hiệu quả  thuyết trình nâng lên, hạn chế 
được khắc phục. Trong dạy học môn GDCD, phương pháp  đàm 
thoại luôn có sự  kết hợp với PPTT. Tri thức môn GDCD thường 
khó, trừu tượng, liên quan tới nhiều môn khoa học khác; vốn kiến 
thức cũng như kinh nghiệm của HS so với yêu cầu bộ môn còn hạn 
chế. Do vậy, khi giảng dạy đòi hỏi GV phải khéo léo phân tích, 
giảng   giải,   quy   nạp   tổng   hợp,   trừu   tượng   hóa,   khái   quát   hóa… 
những nội dung tri thức bài học.

1.1.4.2

Phương pháp thuyết trình với phương pháp giải quyết vấn đề

Phương pháp giải quyết vấn đề  là PPDH, trong đó GV tạo ra tình 
huống có vấn đề, điều chỉnh HS phát hiện ra vấn đề, tự  giác tích 


cực giải quyết vấn đề, thông qua đó lĩnh hội tri thức, phát triển kỹ 
năng và đạt được những mục tiêu dạy học. Trong quá trình thực 
hiện bài thuyết trình, GV thường kết hợp với PPDH giải quyết vấn  
đề. Cách kết hợp thường là, GV đưa ra những câu hỏi hay đặt ra 
vấn đề có tính nghịch lý, mâu thuẫn giữa kiến thức, kinh nghiệm đã 
có của HS với vấn đề  GV sẽ  trình bày, hoặc cũng có thể  GV diễn  
đạt vấn đề  dưới dạng nghi vấn. Những câu hỏi, cách đặt vấn đề, 
cách diễn đạt như vậy được GV l
chọn, bố  trí một cách hợp lý theo sát logic nội dung bài học đã trở 
thành một bộ phận của bài thuyết trình và do đó có tác dụng tạo ra 
sự  chú ý  ở  HS, đặt họ  vào trạng thái luôn luôn có những thắc mắc  
cần được giải đáp. Như  vậy, sự  kết hợp đó đã làm tăng thêm sự 
hấp dẫn của bài thuyết trình, tạo nên sự chú ý, kích thích HS tự tìm 

tòi tri thức để  giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức của bản thân, 
và cũng do đó mà khắc phục được những hạn chế  của bài thuyết  
trình. Khi sử  dụng phương pháp giải quyết vấn đề  trong dạy học, 
người dạy phải sử dụng PPTT và khi đó thuyết trình có giá trị  như 
“công cụ  trung gian” để  chuyển tải thông tin giữa người dạy và 
người học, làm cho nhận thức của người học đi từ chỗ chưa có nhu 
cầu cần tìm kiếm tri thức đến có nhu cầu, rồi gặp phải những mâu 
thuẫn nội tại trong nhận thức của bản thân và sau đó thì nhận thức  
ra được vấn đề học tập. Yếu tố quan trọng của dạy học giải quyết  
vấn đề  là tạo ra tình huống có vấn đề  và giải quyết vấn đề  trong  
nhận thức của người học. Để tạo tình huống có vấn đề trong nhận 
thức của người học, người dạy phải căn cứ  vào nội dung tri thức 
của bài học, đối tượng người học, mối quan hệ  giữa tri thức bài 
học với thực tiễn và kinh nghiệm đã có ở người học, các điều kiện, 
PPDH thực tế… Trên cơ  sở  đó, người dạy xây dựng vấn đề  học 
tập, tức là bài toán nhận thức cho người học. Bài toán nhận thức chỉ 
trở thành đối tượng nhận thức khi nó xuất hiện trong nhận thức của 
người học ­ chủ thể nhận thức một mâu thuẫn tự giác, một nhu cầu  
bên   trong   muốn   giải   quyết   mâu   thuẫn   bên   ngoài   (bài   toán   nhận 
thức). Như  thế   ở  người học đã xuất hiện tình huống có vấn đề, 
người học phải huy động hết mọi khả năng về  kiến thức, kỹ năng, 
kinh nghiệm của bản thân, kết hợp với sự  trợ  giúp tích cực của 


thầy, của bạn với những hình thức như  gợi ý, nhắc lại, liên kết,  
logic hóa các kiến thức đã có với vấn đề học tập trong mối quan hệ 
khách quan giữa chúng, nhờ đó mà người học tiếp thu được tri thức  
của bài học. Như  vậy, việc chuyển bài toán nhận thức vào trong  
nhận thức người học chủ  yếu được thực hiện bằng thuyết trình 
thông qua ngôn ngữ nói từ đó giúp người học giải quyết mâu thuẫn  

trong nhận thức và tiếp thu tri thức bài học, người dạy phải có 
những thao tác, những công cụ  sư  phạm hữu hiệu, tiện dụng. Như 
thế, mặc dù sử  dụng PPDH giải quyết vấn đề  nhưng người dạy 
không thể không kết hợp sử dụng PPTT, thuyết trình lúc này giữ vai  
trò như  “công cụ  trung gian” kết nối thông tin giữa người dạy và 
người học nhằm thực hiện mục tiêu bài học.

1.1.4.3

Phương pháp thuyết trình với phương pháp trực quan

Trực quan là PPDH trong đó GV sử dụng các đồ  dùng, các phương 
tiện dạy học nhằm mục đích minh họa, bổ sung thêm kiến thức cho  
bài giảng.
Phương pháp trực quan trong dạy học GDCD có nhiều hình thức 
như sử dụng tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, số liệu thống kê; trực quan  
thông qua phương tiện nghe nhìn; tham quan thực tế… Phương pháp 
thuyết trình với phương pháp trực quan có mối quan hệ gắn bó với  
nhau. Trực quan có giá trị  minh họa, hỗ trợ rất lớn cho việc thuyết 
trình. Quá trình nhận thức của con người chia làm hai giai đoạn là 
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính gồm 
các hình thức như cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nhận thức lý tính  
gồm khái niệm, phán đoán, suy luận. Trong nhận thức cảm tính, có  
càng nhiều cơ  quan cảm giác trực tiếp tiếp xúc với sự  vật hiện  
tượng thì tài liệu nhận thức càng đa dạng, phong phú, trở  thành cơ 
sở  tin cậy cho nhận thức lý tính. PPDH lợi dụng đặc điểm này để 
xây dựng phương pháp trực quan, đây cũng là lý do quan trọng làm  
cho bài thuyết trình thêm hấp dẫn, thuyết phục, hiệu quả. Khi sử 
dụng phương pháp trực quan để  dạy học môn GDCD, GV buộc 



phải thuyết minh, giảng giải, phân tích, tổng hợp, khái quát, kết  
luận các chủ đề, quan điểm, quy luật, nguyên lý trong nội dung bài  
học. Như  vậy, thuyết trình buộc phải “vào cuộc” tích cực khi GV  
sử dụng phương pháp trực quan.

1.2

 Phương pháp dạy học tích cực

1.2.1

Định hướng để đổi mới

Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong 
nghị  quyết Trung  ương Khóa VII ( 1/1993), Nghị  quyết Trung  ương 2  
Khóa VIII (12/1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo Dục (12/1998),  
được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt  
là chỉ  thị  số  15 (4/1999).  Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương 
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, 
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn 
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến  
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú 
học tập cho học sinh".
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học  
tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.

1.2.2

Thế nào là tính tích cực học tập



Tính tích cực là phẩm chất vốn có của con người. Để  tồn tại và phát 
triển, con người luôn phải chủ  động, tích cực cải biến môi trường tự 
nhiên, XH. Tính tích cực luôn có trong con người nhưng chỉ bộc bộ và 
phát huy khi con người có động lực và đạt tới lợi ích nhất định. Tính 
tích cực học tập là tính tích cực của con người trong học tập. Nó được 
biểu hiện ở sự khát khao hiểu biết, những cố gắng trí lực, nghị lực để 
vượt qua mọi khó khăn trở ngại nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ 
xảo. Tính tích cực học tập chỉ có được khi xuất hiện một động cơ học 
tập đúng đắn. Động cơ học tập đúng đắn tạo nên hứng thú, say mê, tự 
giác học tập, đó là nhân tố hình thành tính tích cực học tập. Tư duy học 
tập là nguồn gốc sáng tạo. Tới lượt mình, kết quả  của học tập độc 
lập, tự  giác, sáng tạo tác động trở  lại động cơ  học tập, bồi dưỡng và  
phát triển động cơ  học tập. Có thể  nhận thấy dấu hiệu tích cực học 
tập của HS ở những biểu hiện như sự hăng hái trả lời câu hỏi của GV, 
bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn  
đề  nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ  những vấn đề 
chưa tường minh, chủ  động vận dụng kiến thức kỹ  năng đã học để 
nhận thức vấn đề  mới, tập trung chú ý vào vấn đề  đang học, kiên trì 
hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn… 
Có thể xem xét tính tích cực học tập qua các cấp độ:
 ­ Bắt chước: gắng sức làm theo khuôn mẫu của thầy của bạn…
 ­ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết  
khác nhau của vấn đề…
 ­ Sáng tạo: Tìm cách giải quyết độc đáo, hữu hiệu.
  Mấy   thập   niên   gần   đây,   dựa   trên   quan   điểm   về   sự   tác   động   của 
phương   pháp   đến   sự   phát   triển   của   người   học,   lý   luận   dạy   học  
phương Tây đã chia PPDH thành 3 nhóm bao gồm các PPDH hướng vào  
người dạy, các PPDH tích cực và các PPDH hướng vào người học

 Các nhà sư phạm người Anh cũng đã phân chia PPDH thành ba nhóm 
đó là các phương pháp lấy GV làm trung tâm, các phương pháp tích 
cực, các phương pháp lấy người học làm trung tâm.


 ­ Các phương pháp lấy người dạy làm trung tâm gồm: GV thuyết trình, 
nghệ  thuật giải thích, nghệ  thuật trình diễn, phương pháp đặt câu hỏi 
và phương pháp hỗ trợ trí nhớ người học.
 ­ Các phương pháp tích cực gồm: hướng dẫn học viên thực hành, thảo 
luận, học nhóm và người trình bày, trò chơi, đóng vai, diễn kịch, và mô  
phỏng,  xêmina,  học  cách  nhớ…  ­   Phương   pháp  lấy  người  học  làm 
trung tâm gồm: học qua  đọc, tự  học và làm bài tập  ở  nhà, bài tập  
nghiên cứu, tiểu luận, khám phá có hướng dẫn, sáng tạo, thiết kế  và 
phát minh, học từ kinh nghiệm của mình. 
  Ở  Việt Nam, vấn đề  PPDH tích cực cũng được các nhà giáo dục đề 
cập với nhiều quan điểm khác nhau. Nguyễn Kỳ  cho rằng, phương  
pháp tích cực chính là tổ chức cho HS học tích cực bằng hành động của  
chính các em, qua hợp tác với cộng đồng, theo ba thời điểm: một là trẻ 
làm việc một mình với đối tượng học; hai là trẻ  hợp tác với tập thể, 
XH và cuối cùng là chuyển sang hệ thống mới: Trò ­ Lớp ­ Thầy.
 Theo Nguyễn Trọng Di, nếu coi học là quá trình giải quyết vấn đề do 
tình huống thực tế tạo nên, học là tự tìm tòi mày mò kiến thức thì đồng  
nhất việc học với việc nghiên cứu khoa học.Theo ông, học qua giải 
quyết tình huống, mà tình huống  ấy do thầy tạo ra, do sự hướng dẫn  
có chủ  đích của thầy chứ  không phải tự  lực hoàn toàn, động cơ   ở 
người học cũng khác người nghiên cứu. Xét về  bản chất việc học là 
tiếp thu, là phải biết chấp nhận, vì vậy nếu coi là tự  tìm tòi ra kiến 
thức là không hợp lý, là hơi cực đoan.
Với Phạm Viết Vượng, PPDH tích cực không phải là một phương 
pháp cụ thể, không phải là một phương pháp mới phát minh mà là một  

nguyên tắc dạy học. Từ  nguyên tắc này buộc người ta phải tìm ra  
những phương pháp tương ứng.
Tuy chưa hoàn toàn thống nhất nhưng quan điểm của các nhà giáo dục 
Việt Nam đã có giá trị định hướng, chỉ rõ phương pháp, biện pháp dạy 
học phát huy tính tích cực học tập của HS. Họ  coi việc phát huy tính 
tích cực học tập và vai trò chủ  thể  học tập của HS là đối tượng tác 
động của GV và việc tích cực học tập của HS là dấu hiệu của việc  
học tập có hiệu quả.


1.2.3

Phương pháp dạy học tích cực

Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ  rút  
gọn, được dùng  ở  nhiều nước để  chỉ  những phương pháp giáo dục,  
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của 
người
 
học.
"Tích cực" trong PPDH ­ tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động,  
chủ  động,  trái nghĩa với không hoạt động, thụ  động chứ  không dùng 
theo nghĩa trái với tiêu cực PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động 
hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập 
trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập 
trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để  dạy học 
theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ  lực nhiều so với dạy  
theo
 
phương

 
pháp
 
thụ
 
động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách  
học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng  ảnh hưởng tới  
cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách  
dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp  ứng được, hoặc có 
trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng không 
thành công vì học sinh chưa thích  ứng, vẫn quen với lối học tập thụ 
động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để  dần 
dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ  động một cách 
vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có 
sự  hợp tác cả  của thầy và trò, sự  phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy 
với hoạt động học thì mới thành công. Như  vậy, việc dùng thuật ngữ 
"Dạy và học tích cực" để phân biệt với “ Dạy và học thụ động”.

1.2.4

Mối quan hệ  giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm  
trung tâm.


Từ  thập kỉ  cuối cùng của thế  kỷ  XX, các tài liệu giáo dục  ở  nước 
ngoài và trong nước, một số  văn bản của Bộ  Giáo dục và Đào tạo 
thường nói tới việc cần thiết phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm 
trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số  thuật ngữ  tương 

đương như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ  vào 
người học, dạy học hướng vào người học… Các thuật ngữ  này có 
chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học 
sinh trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống lâu 
nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên.
Lịch sử  phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy 
cho một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ  tương đối đồng 
đều thì giáo viên khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã 
hình thành kiểu dạy "thông báo ­ đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước  
hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết  
nội dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố  gắng làm 
cho mọi học sinh hiểu và nhớ  những điều giáo viên giảng. Cách dạy 
này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho  
nên đã hạn chế  chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp  ứng yêu 
cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng  
này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của 
học sinh, thực hiện "dạy học phân hóa"*  quan tâm đến nhu cầu, khả 
năng của mỗi cá nhân học sinh trong tập thể lớp. Phương pháp dạy học 
tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm ra đời từ bối cảnh đó.
Trên thực tế, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của 
hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt  
động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động 
cải biến chính mình về  kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân 
cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học không 
tự  giác chủ  động, không chịu học, không có phương pháp học tốt thì 
hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì  
đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy 
nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương  



×