Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

NHÂN VẬT LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.92 KB, 35 trang )

LÝ TỰ TRỌNG
*
Anh là con của một gia đình cách mạng vốn quê ở Hà Tỉnh (Nghệ
Tỉnh) bị địch khủng bố phải chạy sang Thái Lan và sinh anh ở đó. Anh là
một trong 7 thiếu niên được Bác Hồ trực tiếp tổ chức và bồi dưỡng ở Quảng
Châu (Trung Quốc) trong những năm 1925 -1927. Năm 1929 anh được đoàn
thể đưa về nước hoạt động làm liên lạc ở xứ ủy Nam Kì và ở tại Sài Gòn.
Anh còn hoạt động cách mạng trong thanh niên công nhân và học sinh.
Trong cuộc mít tinh kỉ niệm khởi nghóa Yên Bái ngày 9/2/1931 anh
đã bắn chết tên thanh tra mật thám Pháp Lơ grăng để bảo vệ đồng chí diễn
thuyết của mình. Thực dân Pháp đã bắt anh, hết tra trấn lại dụ dỗ, nhưng
anh vẫn một lòng trung thành với cách mạng. Chúng hứa sẽ cho anh sang
Pháp học, sẽ có chức có quyền, vợ đẹp, con khôn, ăn mặc sung sướng. Anh
trả lời: Ta sinh ra không phải để ăn thứ cơm ấy.
Ra trước tòa, viên luật sư bào chữa cho anh rằng: bị can chưa đến
tuổi thành niên nên hoạt động không có suy nghó. Anh gạt phắt đi: “…..Tôi
chưa đến tuổi thành niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng con đường
thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường
nào khác…….”.
Nửa đêm về sáng một ngày cuối năm 1931 kẻ thù đã hèn hạ đưa
anh lên máy chém. Trước lúc hy sinh anh vẫn hát vang bài quốc tế ca. Năm
ấy anh mới 17 tuổi.

1


VÕ THỊ SÁU
*
Chị tên thật là Nguyễn Thị Sáu, quê ở làng đất đỏ, Bà Rịa, tỉnh
Đồng Nai.
Mới 12 tuổi chị đã theo anh trai tham gia hoạt động cách mạng, trốn


lê ở trên chiến khu. Năm 14 tuổi (1949) chị đã dùng lựu đạn giết một tên
quan ba Pháp và làm bị thương 20 tên lính ngay tại vùng đất đỏ. Từ chiến
khu trở về Bà Rịa, chị làm nhiệm vụ điều tra tình hình địch và tiếp tế cho
chiến khu.
Năm 1950, chị mang lựu đạn phục kích giết tên cai tổng Tòng, một
tên việt gian bán nước, ác ôn ngay tại xã nhà. Lần đó, chị bị địch bắt. Sau
gần 3 năm tra tấn, giam cầm, giặc Pháp đưa chị ra giam ở Côn Đảo.
Trong ngục giam những người bị án tử hình, chị vẫn hồn nhiên vui
tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ Quốc.
Giặc Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với chị Sáu.
Chúng sợ các chiến só cách mạng ổ trong tù sẽ nổi dậy phản đối. Chúng lén
lút đem chị đi thủ tiêu. Lúc một tên giết người bảo chị quỳ xuống, chị quát
vỗ vào mặt lũ đao phủ: “Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ”.

2


NGÔ MÂY
*
Lúc hy sinh anh mới 23 tuổi. Anh sinh năm 1924 quê ở xã Cát Chánh,
huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định (cũ).
Anh là con một của một gia đình nông dân nghèo, mồ côi cha từ nhỏ.
Cách mạng tháng tám thành công, anh tham gia du kích xã. Tháng 4/1947,
anh nhập ngũ và là đội viên của đội quyết tử.
Khi tập luyện quân sự, có lần bị đau chân, anh vẫn ra bãi tập ngồi
xem đồng đội để rút kinh nghiệm chứ không chịu nghỉ ở nhà. Anh đã có ý
thức chuẩn bị thật tốt để chiến đấu thắng lợi.
Thu đông năm 1947 đơn vị anh được lệnh chuẩn bị chiến đấu. Thời
kì này trang bị của ta còn yếu kém, chỉ có vũ khí thô sơ nhưng vẫn quyết
tâm diệt bộ binh và xe cơ giới địch. Anh Ngô Mây tha thiết xin vào đội

quyết tử dùng bom để phá xe tăng địch. Tuy biết rõ là có thể hy sinh, anh
vẫn chuẩn bị học cách đánh rất kó và bình tỉnh tự tin viết thư về động viên
mẹ. Anh còn đem những đồ dùng riêng của mình tặng lại các đồng chí còn
thiếu.
Đầu tháng 10/1947 đơn vị anh nhận nhiệm vụ phục kích quân địch ở
suối voi. Anh Ngô Mây có nhiệm vụ ôm bom phá xe tăng địch để tạo điều
kiện cho đồng đội diệt bộ binh giặc. Anh bình tónh thắt lại chiếc khăn quàng
màu đỏ trên cổ rồi vào nơi phục kích bên đường. Không may, tình huống
trận đánh diễn ra ngoài dự kiến. Trận địa bị lộ, bọn địch tấn công trước và
dồn quân ta vào thế bất lợi. Lực lượng quá chênh lệch, đơn vị phải vừa
đánh vừa yểm hộ cho từng bộ phận rút lui để bảo toàn lực lượng. Anh Ngô
Mây đã quyết định chờ cho một toán đông quân giặc tới gần chỗ anh nấp
rồi ôm quả bom bước ra, rút chốt. Bọn địch chưa kịp nhìn rõ anh thì một
tiếng nổ dữ dội vang lên. Một trung đội u Phi tan xác và anh Ngô Mây đã
hy sinh oanh liệt.
Anh đã được nhận quân chương quân công hạng hai và được quốc
hội truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày
31/8/1955.
3


CÙ CHÍNH LAN
*
Anh sinh năm 1930 trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Quỳnh
Đội, huyện Huỳnh Lưu, Nghệ Tónh. Năm 1946 anh xung phong nhiệm vụ
liên lạc đến khi làm tiểu đội trưởng, anh đều làm tốt và được đồng đội yêu
mến.
Anh đã dự hai chiến dịch và đánh ba trận. Trận Giang Mỗ, Hòa Bình
lần thứ nhất 7/12/1951, trận địa bị lộ trên ra lệnh rút, địch bắn rất dữ. Anh
đã anh dũng đi sau cùng kiềm chế giặc cho đơn vị rút rồi quay trở lại tìm

anh em bị thương, đưa được ba đồng chí trở về an toàn.
Trận Giang Mỗ lần thứ hai ngày 13/12/1951, đơn vị nổ súng diệt gọn
một đại đội địch. Lúc chuẩn bị rút lui thì một chiếc xe tăng địch tới tiếp
viên, chặn đường quân ta khiến cho nhiều đồng chí thương vong. Anh căm
giận xông lên, trèo lên kề họng súng vào khe hở trên tháp xe bóp cò. Anh
nhảy xuống lấy lựu đạn rồi lại nhảy lên xe tăng địch, giật nấp xe quăng lựu
đạn vào. Giặc nhặt ném ra. Anh lại mở chốt lựu đạn chờ cho khối thuốc xì
hẳn ra vài giây rồi mới ném vào. Bọn giặc trong xe chết đè lên nhau. Chiếc
xe chết đứng tại chỗ. Anh đã mở đầu phong trào thi đua diệt xe tăng địch
trong toàn quân.
Ngày 29/1/1951, trong trận Cô Tô, anh đã anh dũng chỉ huy tiểu đội
bộc phá mở cửa vào đồn địch. Ba lần bị thương 2 tay bị cụt, một chân bị
thương nặng anh vẫn tiếp tục chiến đấu và hy sinh khi trận đồn Cô Tô thắng
lợi.
Anh đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân tại “Đại hội liên hoan anh hùng và chiến só thi đua toàn quốc” lần thứ
nhất tháng 2/1952.

4


MẠC THỊ BƯỞI
*
Chị sinh năm 1927, quê ở xã Tân Hưng huyện Nam Sách, Hải
Hưng, căm thù đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến đã đàn áp bốc lột tàn
tệ làng xóm và gia đình, chị đã tham gia chiến đấu chống địch quyết liệt
ngay khi quân giặc đã đóng ở xã. Trước đó (1946 -1947) chị là cán bộ phụ
nữ xã.
Quân giặc ra sức khủng bố gay gắt đến mức cán bộ hoạt động ở địa
phương phải bật sang vùng khác. Một mình trụ lại, chị vẫn kiên trì đào hầm

bí mật đưa cán bộ về hoạt động. Chị đã tổ chức đựơc 3 tổ nữ du kích, xây
dựng 35 cơ sở ở 3 thôn lãnh đạo nhân dân chống nộp thuế và đi phu cho
giặc.
Chị còn làm nhiệm vụ liên lạc, bò vào tận đồn địch trinh sát giúp bộ
đội tiêu diệt bót Thanh Dung. Suốt thời kì giặc chiếm đóng ở địa phương,
chị đã giữ vững được mối liên lạc, tổ chức cán bộ đi về hoạt động, diệt địch
trừ gian bảo vệ cán bộ.
Năm 1951 chị làm nhiệm vụ vận động nhân dân tiếp tế, vận chuyển
lương thực phục vụ chiến dịch, chuyển ra vùng tự do. Bọn giặc đánh hơi dò
biết đã treo thưởng để bắt chị. Trong chuyến đi cuối cùng không may chị bị
bắt. Chúng tra tấn chị rất man rợ, nhưng chị không khai một lời. Cuối cùng
chúng treo chị lên bụi tre và giết chết.
Ngày 31/8/1955 chị đã được Quốc hội truy tặng anh hùng lực lượng
vũ trang nhân daân.

5


LA VĂN CẦU
*

Anh là người dân tộc Tày, quê ở xã Khâm Thành, huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng sinh năm 1932. Khi được tuyên dương anh hùng, vừa
tròn 20 tuổi là tiểu đội trưởng. Anh là con trai của một gia đình vốn có mối
thù sâu sắc với đế quốc và phong kiến. Cha bị giặc Pháp bắt và đánh rất dã
man, sau kiệt sức mà chết.
Thế là anh đã sống rất khổ cực từ tấm bé. Cách mạng tháng Tám
thành công, anh được giác ngộ cách mạng. Năm 1946, mới 16 tuổi, anh khai
tăng lên 18 để được vào bộ đội. Được nhập ngũ, anh rất phấn khởi. Anh đã
tham gia chiến đấu 29 trận, trận nào cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

được giao.
Trong trận đánh đồn Đông Khê lần thứ nhất (1950) đang bị đau chân,
anh vẫn quyết xin đi chiến đấu, khi trận đánh gặp khó khăn, anh đã động
viên các đồng chí bị thương, băng bó cẩn thận và cõng hết thương binh vè
nơi an toàn. Trên đường rút lui, địch nhảy dù phản kích, anh vẫn cố vác
khẩu 12 ly 7 thu được của địch về đơn vị.
Tới trận Đông Khê lần thứ hai (1950) anh được phân công chỉ huy tổ
đánh bộc phá. Phá đến hai hàng rào cuối cùng thì cả tổ bị thương hết. Chỉ
còn một mình, anh vẫn đánh vào lô cốt. Vượt vào đến hàng rào thứ ba thì
anh bị thương ngất đi. Tỉnh dậy thấy cánh tay phải đã gãy nát, lủng lẳng
bên mình, anh liền nhờ đồng đội chặt bỏ cánh tay đã hỏng để tiếp tục ôm
bộc phá đánh tan lô cốt đầu cầu mở đường cho đơn vị xung phong. Và với
cánh tay trái còn lại. Anh đã đánh tiếp cùng đồng đội diệt gọn lô cốt ấy.
Anh đã được Quốc hội phong danh hiệu anh hùng quân đội năm 1952.

6


NGUYỄN THỊ CHIÊN
*
Gia đình chị rất nghèo. Ngày nhỏ vừa mới mồ côi cha, đã lại để tang
mẹ, chị phải đi ở cho địa chủ ngay khi còn thơ ấu. Năm 15 tuổi, nhờ có cách
mạng tháng 8, chị mới thoát khỏi cảnh tôi đòi, người ở.
Chị sinh năm 1930 tại xã Tân Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái
Bình. Năm 1946, chị làm giao thông cho đoàn thể phụ nữ và du kích thôn.
Năm 1947 được cử làm tiểu đội trưởng nữ du kích. Năm 1948 làm trung đội
phó,
Tháng 4/1950, trong lần đi cùng đồng chí bí thư chi bộ về xã, bị địch
vây bắt. Chị đã ra hiệu cho đồng chí bí thư đi thoát và mình bị bắt. Sau ba
tháng rưỡi bị địch tra khảo, giam giữ chị chịu đựng không khai báo một lời.

Bọn giặc phải tha chị, sức khỏe chưa hồi phục chị lại hoạt động chiến đấu
ngay.
Chị dẫn đầu chị em dân quân dùng các loại vũ khí để đánh địch, trong
trận đánh phối hợp với bộ đội trên đường 30 vào tháng 10/1951 một mình
chị đã bắt trói được 6 tên địch, bắn bị thương 1 tên thu 4 súng.
Trận đánh tháng 12/1951, chị bắn chết 3 tên, bắt sống 4 tên, giật được
một súng, trong đó có tên quan hai.
Trận đánh tháng 1/1952, ngoài việc cùng đồng đội bắt sống tên đồn
trưởng đồn An Bái và 5 tên lính, chị còn cõng được 6 thương binh ra ngoài
an toàn.
Tại đại hội chiến só thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5/1952 chị
đã được Bác Hồ thưởng cho một khẩu súng ngắn của Bác và được tuyên
dương anh hùng lực lượng vũ trang nhaân daân.

7


BẾ VĂN ĐÀN
*

Anh sinh năm 1931 người dân tộc Tày quê ở xã Quang Vinh, huyện
Phụ Hoà, tỉnh Cao Bằng.
Năm 1949, anh xung phong vào bộ đội và đã tham gia nhiều chiến
dịch. Tại chiến dịch nào anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Anh mồ côi mẹ từ nhỏ, cha đi làm thợ mỏ xa, anh phải đi làm thuê cho
địa chủ năm năm rồi trốn về nhà ở với dì, tham gia du kích.
Đông xuân 1953 -1954, đơn vị hành quân đi chiến dịch, anh làm liên
lạc tiểu đoàn. Trong trận đánh quân địch rút chạy từ Lai Châu về Điện Biên
Phủ ở Mường Pồn từ đầu năm 1954, vừa mới đi công tác trở về xong, anh
đã xung phong làm nhiệm vụ đưa tin cho đại đội đang đụng giặc phải ghìm

chân chúng lại. Tình hình chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Anh được lệnh ở
lại chiến đấu.
Sau 3 đợt phản kích của địch,
đại đội chỉ còn 17 người. Anh vẫn bị thương nhưng tiếp tục chiến đấu. Một
khẩu trung liên của ta đang bắn bỗng im tiếng vì xạ thủ hy sinh. Khẩu còn
lại của đồng chí Chu Văn Pù vận động tới không có chỗ đặt súng, nguy
hiểm qúa anh Bế Văn Đàn liền chạy lại cầm 2 chân của khẩu trung liên đặt
lên vai mình và hô bạn bắn. Anh Pù nghiến răng vừa bắn, vừa chảy nước
mắt vì thương bạn. Những viên đạn căm thù đã nã rất chính xác vào đám
quân giặc khiến chúng phải hoảng hốt tháo chạy. Song anh Đàn đã bị thêm
hai vết thương nữa và anh dũng hy sinh khi hai tay vẫn còn ghì chặt đôi
chân càng súng trên vai mình.
Ngày 31/8/1955 anh được quốc hội truy tặng danh hiệu anh hùng lực
lượng vũ trang nhân daân.

8


PHAN ĐÌNH GIÓT
*

Anh sinh năm 1920, quê ở làng Tân Yên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh
Nghệ Tỉnh.
Nhà rất nghèo, bố mất sớm, anh phải sống cuộc đời đi ở từ 13 tuổi.
Cách mạng tháng Tám thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu. Năm
1950 anh tham gia vào bộ đội chủ lực.
Trong cuộc sống tập thể anh rất yêu đồng chí và được đồng đội rất q
mến. Anh luôn luôn dành phần khó về mình, nhường thuận lợi cho bạn. Anh
tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện
Biên Phủ….Có trận như: trận đánh tiêu diệt vị trí chùa Tiếng (cuối năm

1950) một mình anh đã dũng cảm xung phong đánh sập 4 ụ súng của địch.
Trên đường hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ dài gần 500 km,
vượt qua nhiều đèo, dốc, anh vẫn bền gan mang vác nặng giúp đỡ đồng đội
đi đến đích.
Chiều ngày 13/3/1954, đơn vị của anh Giót tham gia đánh đồn Him
Lam. Các chiến só lao lên đánh liền 8 quả bộc phá. Anh Giót đánh quả thứ 9
thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xông lên đánh tiếp quả thứ 10. Giặc trút
đạn như mưa. Thêm nhiều đồng đội thương vong. Anh Giót căm thù leo lên
đánh tiếp hai quả bộc phá nữa phá tan đoạn rào cuối cùng cho đồng đội
xông lên, đánh sập lô cốt đầu cầu. Đoạn anh vọt sang đánh lô cốt thứ hai.
Lô cốt thứ ba của địch vẫn bắn ác. Anh lại bị thương vào vai. Nhằm lô cốt
thứ ba anh cố gắng hết sức bò tới sát lô cốt mà nâng súng bắn thẳng vào lỗ
châu mai và lao cả thân mình bịt chặt lỗ châu mai ấy. Như vậy, toàn đơn vị
có điều kiện ào ạt xông lên diệt cứ điểm Him Lam.
Ngày 31/8/1955, anh đã được quốc hội truy tặng danh hiệu anh hùng
lực lượng vũ trang nhaân daân.

9


TÔ VĨNH DIỆN
*
Anh là anh hùng kéo pháo của chiến dịch Điện Biên Phủ. Anh sinh
năm 1924, quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá.
Gia đình anh rất nghèo, lên 8 tuổi anh đã phải đi ở cho địa chủ. Chỉ
đến ngày cách mạng tháng Tám thành công, anh mới thoát khỏi cảnh người
hầu kẻ ở.
Năm 1946, anh vào dân quân ở xã. Năm 1949 anh xung phong vào
bộ đội. Anh luôn luôn chấp hành nghiêm chỉnh các mệnh lệnh và hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.

Năm 1953, anh được điều về làm tiểu đội trưởng tiểu đội cao xa
pháo, chuẩn bị cho trận đánh lớn của quân đội ta.
Trên đường hành quân dài hàng nghìn kílômét, để tham gia chiến
dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc,
động viên giúp đỡ đồng đội đưa pháo tới nơi tập kết an toàn.
Những khi kéo pháo lên dốc, xuống dốc, anh đều chú ý rút kinh
nghiệm, khắc phục khó khăn giúp đỡ đồng đội.
Kéo pháo vào đã rất gian khổ, đưa pháo ra càng ác liệt hơn.
Hôm ấy sau 5 đêm kéo pháo ra đến dốc chuối, một cái dốc có độ nghiêng
70 độ, đường đã hẹp lại công và trơn, rất nguy hiểm, pháo đang xuống dốc
thì dây bị đứt, pháo lao nhanh xuống. Lúc đó anh Diện và anh Ty đang giữ
càng để lái pháo. Hai anh cố giữ cho pháo đi thẳng đường. Nhưng một trong
4 dây kéo bị đứt. Anh Ty bị càng pháo hất văng xuống suối. Nguy hiểm
qúa. Pháo lăn xuống vực mãi. Anh Diện liền hô to:
“thà hy sinh quyết bảo vệ phao!”…rồi anh buông càng pháo, anh lao mình
vào bánh xe pháo. Nhờ vậy pháo bị vướng, nghiêng vào bờ núi và dừng lại.
Song anh Diện đã hy sinh vì pháo đè quá nặng.

10


Ngày 7/5/1956 anh đã được quốc hội truy tặng Huân chương quân
công hạng hai và danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân

NGUYỄN VIẾT XUÂN
*

Anh sinh năm 1934, ở xã Ngũ Kiên, huyện Vónh Tường, tỉnh Vónh
Phú.
Năm 10 tuổi, anh vượt vùng tạm bị địch chiếm ra vùng tự do để đi bộ

đội và tham gia chiến đấu trong đơn vị pháo cao xạ ở Điện Biên Phủ. Anh
thuộc lớp cán bộ trẻ được Đảng đào tạo một cách toàn diện. Khi giặc Mỹ
leo thang đưa máy bay đánh phá Miền Bắc năm 1965, anh là chính trị viên
một đại đội pháo cao xạ.
Trong một trận chiến đấu ác liệt với máy bay giặc Mỹ ở Miền Tây
Quảng Bình ngày 18/11/1966, giữa bom rơi đạn nổ, anh đứng thẳng bên một
khẩu đội hô lớn khẩu hiệu bất diệt: “Nhằm thẳng quân thù, bắn!”. Bị
thương nặng một chân giập nát, anh đã nhờ đồng đội cắt bỏ cho khỏi vướng
rồi tiếp tục đứng thẳng chỉ huy đơn vị chiến đấu.
Bên công sự của khẩu đội 3 anh dũng, tiếng hô của anh vang lên,
bất khuất truyền đi khắp toàn quốc và trở thành bất diệt.
Anh đã hy sinh cho Tổ Quốc 9 năm sau đất nước thống nhất hoàn toàn. Anh
đã được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

11


NGUYỄN VĂN TRỖI
*

Quê anh ở xã Thanh Quýt, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam –Đà
Nẵng.
Năm 15 tuổi anh ra Đà Nẳng làm việc rồi vào Sài Gòn làm thợ điện
và trở thành một chiến só giải phóng trong đơn vị biệt động bí mật của Sài
Gòn sau khi được tổ chức vào Đoàn thanh niên.
Anh đã nhận nhiệm vụ chôn bom ở cầu Công Lý để giết tên Mác Na
Ma Ra, Bộ trưởng bộ quốc phòng Mỹ đến Sài Gòn để ra lệnh cho tay chân
chống lại nhân dân ta.
Ngày 9/5/1964, trong khi chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ đặt chất nổ ở
cầu Công Lí thì anh bị địch bắt. Chúng tra tấn anh rất dã man và tìm mọi

cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng anh không hề lay chuyển.
Chúng hỏi anh muốn gì ? Anh trả lời “Tao muốn giết hết bọn Mỹ, tao
muốn Miền Nam được giải phóng .
Cuối cùng chúng quyết định giết anh. Ra tới nơi bắn người ở trường
bắn, chúng định bịt mắt anh. Anh giật chiếc khăn ra và nói:
“Không ! Phải để tôi nhìn mảnh đất này! Mảnh đất thân yêu của
tôi”.Và anh hô to:
“Hãy nhớ lấy lời tôi
Đả đảo đế quốc Mỹ!
Đả đảo Nguyễn Khánh !
Hồ Chí Minh muôn năm!
Hồ Chí Minh muôn năm!
Hồ Chí Minh muôn năm!
Việt Nam muôn năm!”
12


Anh đã được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

LÊ THỊ RIÊNG
*

Quê ở tại Bạc Liêu, tỉnh Minh Hải. Cô là con một gia đình nông dân
nghèo, mồ côi cha mẹ từ sớm. Ngay từ khi còn nhỏ, chứng kiến cảnh áp bức
bốc lột của bọn cường hào gian ác, cô đã giác ngộ cách mạng. Năm 1945
sau cách mạng tháng Tám cô đã tham gia kháng chiến chống Pháp.
Năm 1954, sau khi Hiệp nghị Giơ – Ne- Vơ được kí kết cô tiếp tục
tham gia các phong trào chống Mỹ – Diệm. Đến ngày mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời (20/1/1960) cô được bầu hội phó Hội
liên hiệp phụ nữ giải phóng và ủy viên ủy ban trung ương mặt trận dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam..
Cô là một cán bộ có tài năng và đức độ, được toàn thể phụ nữ miền
Nam và nhân dân miền Nam cảm mến, tin yêu.
Trong một chiến đi công tác hồi tháng 5/1967 cô bị bọn mật thám
của bè lũ Mỹ – Thiệu –Kỳ bắt. Bọn mật vụ CIA và bọn Nguyễn Ngọc Loan
dùng mọi cực hình tra tấn rất dã man. Chúng đốt tay cô đến trơ xương,
nhưng cô vẫn giữ tinh thần hiên ngang, bất khuất.
Đêm mùng 2 tết Mậu thân, tức đêm 31/1/1968, thi hành lệnh của chủ
Mỹ, bọn Thiệu – Kỳ –Loan đã đưa cô và một số đồng chí đang bị giam giữ
lên chiếc xe hơi, chạy đến đường Hồng Bàng rồi xả súng bắn. Bọn ác ôn
hèn nhát đã ám hại cô Lê Thị Riêng. Nhưng cô vẫn sống trong niềm tiếc
thương của đồng bào cả nước.

13


LÊ THỊ HỒNG GẤM
*

Chị là trung đội phó của bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho (cũ). Chị
luôn luôn dũng cảm mưu trí vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhịêm vụ.
Chị sinh năm 1951, quê ở Long Hương, huyện Châu Thành. Hoạt
động trong lòng địch, trong muôn vàn hiểm nguy, chị vẫn bình tỉnh vượt qua
mắt giặc. Có lần bị giặc Mỹ bắt, chị đã tranh thủ được tên phiên dịch nên
bọn Mỹ đã thả cho chị đi. Giặc khủng bố dữ qúa, có người hoang mang, chị
đã động viên khích lệ đồng bào bám ruộng, bám đất ủng hộ cách mạng.
Trận đánh cuối cùng của chị là ngày 18/4/1970. Để chuẩn bị cho trận
đánh ban đêm, chị và 2 đồng chí nữa ra tiệm mua thức ăn. Khi ra giữa cánh
đồng (cách căn cứ Bình Đức 500m) thì 2 chiếc trực thăng HUIA của địch
phát hiện và định đổ quân bắt sống cả 3 người. Chị có súng nên đã bảo hai

bạn của mình nhanh chóng thoát ra ngoài. Còn chị ở lại, lợi dụng địa hình
để chiến đấu. Chị đã bình tónh bắn rơi một chiếc ngay tại chỗ. Chiếc thứ hai
đổ quân ra vây, chị bắn chết thêm 3 tên nữa. Khi hết đạn chị huỹ súng và
hy sinh.
Ngày 20/9/1971 chị được chính phủ cách mạng lâm thời miền nam
Việt Nam truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

14


TẠ THỊ KIỀU
(tức Mười Lý)
Chị tham gia cách mạng ở địa phương từ năm 1958, nhập ngũ năm
1963. Tính đến tháng 5/1965, chị đã tham gia 107 lần đấu tranh chính trị,
chiến đấu 33 trận, diệt 7 tên địch, bắn bị thương 11 tên, bắt sống 13 tên, thu
24 súng các loại. Trong chiến đấu chị luôn luôn bình tónh, dũng cảm, chỉ
huy vững vàng, gan dạ và mưu trí.
Chị sinh năm 1938 là con của một gia đình cách mạng, là cơ sở nuôi
cán bộ bí mật quê ở xã An Thạnh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.
Là người con gái của quê hương “Đồng Khởi” chị luôn luôn bám sát
dân, cùng nhân dân đấu tranh chống Mỹ – Diệm, được Đảng phân công gây
dựng phong trào, tổ chức cơ sở chỉ trong vòng 7 tháng, chị đã tổ chức đựơc
107 cuộc đấu tranh chính trị, phát triển 3 tổ chức nồng cốt trong lực lượng
cách mạng,, vận động 13 gia đình binh só ngụy, tuyên truyền 4 lính ngụy về
với nhân dân, tổ chức được 2 người khác vào lực lượng của ta, gây cho địch
một số thiệt hại và hạn chế tội ác của chúng.
Trong lúc lực lượng của ta còn ít, chị đã xây dựng được cơ sở, nắm
tình hình địch tốt, mưu trí đánh lừa địch, nên trong trận đánh các bót An
Bình, Kinh Quang, chị đã vạch ra kế hoạch rất sát, khiến cho địch không kịp
đối phó. Đặc biệt, trận Kinh Quang, chị dụ cho địch kéo ra khỏi bót rồi chỉ

huy anh em xông vào chiếm đồn không phải nổ một phát súng nào. Trong
chiến đấu khi gặp khó khăn, như trận đánh đoàn xe địch trên đường Mỏ
Cày đi Thom (10/1961), đơn vị cần phải rút lui, chị đã ở lại bắn yểm hộ cơ
động chiến đấu, đợi cho anh em rút hết rồi mới về.
Chị đã được tặng thưởng huân chương quân công giải phóng hạng ba
và anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (5/5/1965).

15


KAN LỊCH
*

Chị sinh năm 1943 là người dân tộc Tà Ôi, quê ở xã Hồng Bắc, vùng
B, tỉnh Thừa Thiên (cũ). Chị là một trong số ít những thanh niên người dân
tộc vùng cao, sớm vác ngộ cách mạng hăng hái tham gia cùng các bạn trai
chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục
vụ nhân dân, luôn hăng hái đi đầu trong mọi nhiệm vụ, chị đã trở thành một
cán bộ xuất sắc, một chỉ huy của tổ du kích đánh giặc giỏi, lập nhiều chiến
công. Chị đã chiến đấu nhiều trận, tự tay bắn chết 49 tên địch (chưa kể số
địch bị thương vong vì chông mìn và số địch bị diệt trong các trận chị chỉ
huy), bắn rơi một máy bay vận tải, phá sập hai nhà ở của địch.
Tháng 5/1964 để hạ máy bay địch, chị đã gan dạ dẫn tổ du kích vào
nằm phục kích sát sân bay A lưới giữa đồi tranh nắng gát, nhịn đói, nhịn
khát hai ngày rưỡi, kiên trì chờ bắn rơi chiếc máy bay của giặc, diệt cả bọn
trong đó có tên đại tá Mỹ, đồng thời bắn chết 4 tên giặc tronh sân bay.
Nhiều trận khác chị mưu trí, chủ động dùng mưu đánh nhanh, nổ
súng cơ động đổi chỗ, đổi cách đánh, khiến chúng tưởng gặp phải lực lượng
đông đảo mà tháo chạy. Có trận một tổ viên bị địch bắt, chị đã tổ chức đánh
mạnh, giết chết được 3 tên và cứu được đồng đội.

Chị còn là một cán bộ phụ nữ gần gũi đồng bào, vận động nhân dân
tăng gia sản xuất, được bà con rất q, tin cậy.
Chị đã được tặng thưởng hai Huân chương chiến công giải phóng
hạnh nhì, ngày 17/9/1967, chị được tặng thưởng huân chương huân công
hạng ba và danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

16


ANH HÙNG NÚP
*

Anh hùng Núp sinh 1919, người dân tộc Ba Na, thành phần Cố
nông, quê ở thôn Sê To, xã Ca Mắc, huyện An Khê, tỉnh Gia Lai Kon Tum.
Anh hùng Núp mồ côi cha mẹ từ khi 10 tuổi. Năm 1935, quân Pháp
về làng lùng bắt phu, mọi người chạy hết, một mình Núp đã ở lại dùng nỏ
bắn chết một tên giặc.
Anh hùng Núp đã tham gia tổng khởi nghóa cướp chính quyền trong
cách mạng tháng Tám và tham gia kháng chiến chống Pháp ở địa phương
đến năm 1945.
Trong hoàn cảnh địch liên tiếp càng quét, đốt làng, dồn dân, phá
rừng,….nhân dân thì trình độ giác ngộ cách mạng chưa cao đói rét, đói muối,
bệnh tật….anh hùng Núp đã bền bỉ cùng dân làng, vì nhân dân mà chiến
đấu, làm cách mạng.
Chỉ trong ba năm từ 1947 đến 1949 Anh hùng Núp đã lãnh đạo dân
làng, đổi chỗ ở tới 5 lần để đánh giặc và kháng chiến. Tới đâu, Anh hùng
Núp cũng vận động nhân dân trồng lúa, trồng bắp, vót chông, đặt bẫy diệt
địch bảo vệ nương rẫy, dan làng. Chính anh hùng Núp cũng là người chỉ huy
trung đội du kích Ba Na của buôn làng.
Năm 1952, anh hùng Núp đã chỉ huy trung đội của mình chống lại

cả một trung đoàn quân giặc, giết nhiều tên, bảo vệ được lực lượngvà phá
vỡ cuộc càn của chúng, bảo vệ được tài sản cùng tính mạng của nhân dân.
Gia đình anh hùng Núp cũng gương mẫu mọi mặt theo sự hướng dẫn
chung. Cả nhà đều tích cực tham gia sản xuất, canh gác, chiến đấu, giữ
làng, nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ, bày trừ mê tín dị đoan, đoàn kết với dân
làng.
Anh hùng Núp được dân làng đồng đội tin cậy xứng đáng với danh hiệu anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân, là lá cờ đầu trong phong trào thi đua giết
17


giặc giữ nước của đồng bào Tây Nguyên. Quốc hội đã tặng thưởng anh
hùng Núp huân chương quân công hạng ba.

LÊ ĐÌNH CHÍNH
(1960 -1978)
Khi vừa hết tuổi thiếu niên, anh đã xung phong đi bộ đội và đã
chiến đấu dũng cảm ở biên giới Tây Nam Tổ quốc. Được điều về biên giới
phía Bắc, anh hùng đơn vị chốt giữ ở cửa Hữu Nghị.
Một ngày tháng 8/1978, bọn phản động Bắc Kinh gây rối loạn ở
biên giới Việt Trung, Lê Đình Chinh đã lấy thân mình bảo vệ đồng đội.
Gương hy sinh của anh đã là một chứng cứ tố cáo tội ác của bọn phản động
Bắc Kinh và vạch trần âm mưu phá quấy lâu dài vùng biên giới phía Bắc
của nước ta. Anh đã được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.

18


KIM ĐỒNG

*

Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng, quê ở
thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa (nay là Trường Hà), Hà Quảng Cao Bằng.
Anh là một trong năm đội viên đầu tiên của đội nhi đồng cứu quốc
thôn Nà Mạ và cũng là tổ chức đội đầu tiên của đội ta đựơc thành lập khi
mặt trận Việt Minh ra đời (1941).
Trong buổi thành lập đội., Kim Đồng đựơc bầu làm tổ trưởng.
Kim Đồng là con trai út của một gia đình nông dân nghèo. Bố mất
sớm. Anh trai tham gia cách mạng và hy sinh khi còn trẻ.
Từ 1940, ở quê Dền đã có phong trào cách mạng. Dền đựơc anh trai
và anh cán bộ như anh Đức Thanh giác ngộ cách mạng. Dền đã theo các
anh làm các công việc: canh gác, chuyền thư từ, nghe nói chuyện về tội ác
của quân giặc,..nhờ đó Dền đã sớm giác ngộ cách mạng và trở thành một
liên lạc viên tin cậy của tổ chức Đảng. Dền đã mau chóng làm quen với
cách thức làm công tác bí mật, nhiều lần đưa, chuyền thư từ, đưa đường cho
cán bộ lọt qua sự bao vây canh gác của địch.
Năm 1941 Bác Hồ về Pác Bó. Kim Đồng từng được gặp Bác ở căn
cứ cách mạng.
Bước sang 1943, bọn địch khủng bố, đánh phá dữ dội vùng Pác Bó.
Trong một lần đi liên lạc về, giữa đường gặp lính địch phục kích gần nơi có
cán bộ của ta, Kim Đồng đã nhanh trí nhữ cho bọn địch nổ súng về phía
mình. Nhờ tiếng súng báo động ấy, các đồng chí cán bộ ở gần đó tránh
thoát lên rừng. Song Kim Đồng đã bị trúng đạn và anh dũng hy sinh tại chỗ,
ngay bờ suối Lê Nin.
19


Hôm ấy là ngày 11 tháng giêng âm lịch năm 1943. Anh vừa tròn 14
tuổi.


LÊ VĂN TÁM
*

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ hòng cướp lại
nước ta một lần nữa.
Năm ấy, ở gần chợ Đa Kao thành phố Sài Gòn có một em bé con nhà nghèo
phải đi bán lạc rang đánh giày để kiếm sống. Tên em là Tám.
Lê Văn Tám thường lân la tới những nơi có quân Pháp đóng để bán
hàng, đánh giày. Tám tỏ ra hiền lành, nhúc nhát nên đã đựơc bọn lính pháp
để cho đi qua, đi lại và dần dần quen mặt em. Tại Thị Nghè có một kho
xăng, đạn lớn của địch. Hình ảnh những hòm đạn, những trái bom hiện ra
trong trí nhớ của Tám cùng những cảnh tàn phá, giết chốc dã man của địch
đối với đồng bào ta đã thôi thúc em tính đến một việc làm táo bạo. Tám
nảy ra ý định sẽ phá kho xăng đạn này.
Sau mấy hôm dò la quan sát địch. Tám giấu dầu xăng trong
người thản nhiên khoác hòm lạc rang đến bán cho lính gác như thường lệ.
Lợi dụng lúc bọn địch không để ý Tám chạy như bay vào chỗ đẻ xăng và
xòe diêm. Dầu xăng trong người bốc cháy đùng đùng rồi lan tới chỗ để bom
đạn. Tiếng nổ rầm trời , khói lửa mịt mù cả thành phố.
Lê Văn Tám đã anh dũng hy sinh và để lại trong trí nhớ nhân dân
thành đồng Tổ quốc hình ảnh; em bé đuốc sống của thành phố mang tên
Bác, của dân tộc Việt Nam.

20


VỪ A DÍNH
*


Ở tại một bản của đồng bào dân tộc Hmông trên đỉnh núi Pú Nhung
Châu Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu, có em bé tên là Vừ A Dính. Mới 13 tuổi,
Dính đã xin vào làm liên lạc cho dân quân, bộ đội ở địa phương để chống
lại bọn giặc Pháp đến cướp phá quê hương.
Dính được giao nhiệm vụ canh gác, liên lạc, tiếp tế lương thực. Công
việc nào Dính cũng làm tốt. Có lần bị giặc bắt phải khiêng lợn của dân về
đồn, Dính giả vờ đánh xổng, cho lợn chạy vào rừng, Dính trà trộn vào đám
người bị giặc bắt để dò la tình hình nơi đống quân của địch.
Năm 1949, trong một trận càn, giặc Pháp đã bắt đựơc Vừ A Dính trong
lúc Dính đang đi công tác. Chúng lập tức tra khảo, đánh đập Dính rất đau.
Suốt ba ngày liền, giặc không moi ra đựơc điều gì ở người thiếu niên dũng
cảm này. Biết mình khó thoát, Dính đã không khai mà đánh lừa giặc, giả vờ
nhận chỉ nơi có cơ quan kháng chiến, bắt bọn giặc phải cáng mình đi loanh
quanh suốt ngày trong rừng. Khi biết ra là bị Dính lừa, lũ giặc dã man và
hèn nhát đã nổi điên, bắn chết Dính.
Cùng với Lê Văn Tám ở Miền Nam trong những năm kháng chiến
chống Pháp, Vừ A Dính đã trở thành liệt só thiếu niên của đội ta.

21


DƯƠNG VĂN NỘI
*

Dương Văn Nội tham gia đội thiếu niên cứu quốc thủ đô từ tháng
10/1946. Lúc đó Nội mới 14 tuổi, Nội cùng hơn 60 bạn khác ở các phố Đội
Cấn, Ngọc Hà,…vào đội giao thông thuộc khu Thăng Long.
Nhà Nội rất nghèo. Bố làm thợ gò và mất sớm. Một mình mẹ nuôi ba
anh em Nội không nổi, nên Nội phải đi học nghề rất sớm. Nội hiểu rằng
mọi nổi cực khổ của gia đình là do thực dân Pháp gây ra.

Đầu tháng 12/1946, trước ngày toàn quốc kháng chiến ít hôm, Nội
đựơc cử sang làm liên lạc cho một đại đội tự vệ chiến đấu ở khu Thăng
Long. Đêm đêm, Nội cùng các bạn đi trinh sát trại lính địch về báo cáo tình
hình cho các anh. Đến tháng 3/1947 đơn vị của Nội về đống ở chợ Giang Xá
và lấy tên là đội du kích Thủ Đô.
Đầu tháng 4/1947, giặc Pháp mở cuộc hành quân lớn gồm nhiều mũi
càn quét vào nơi đội du kích Thủ Đô đống quân, Nội đã cùng các anh tham
gia chiến đấu. Với khẩu súng trường gần cao bằng người, Nội bình tónh và
nhanh nhẹn bắn giặc. Một mình Nội đã hạ được ba tên giặc Pháp. Sau đó
súng hết đạn, Nội bị trúng đạn giặc hy sinh ngay tại trận. Hôm ấy là ngày
2/4/1947, nội vừa bước sang tuổi 15.
Dương Văn Nội đã được Đảng và nhà nước truy tặng huân chương
chiến thắng hạng nhì.

22


NGUYỄN BÁ NGỌC
*

Nguyễn Bá Ngọc là học sinh lớp 4B (năm học 1964 -1965) trường
phổ thông cấp I xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1964, giặc Mỹ vừa ồ ạt đưa quân vào Miền Nam, vừa cho máy
bay leo thang ra đánh phá các tỉnh Miền Bắc nước ta. Chúng ném bom cả
trường học và bệnh viện, Nguyễn Bá Ngọc và các bạn phải đi học trong
cảnh sơ tán dưới hầm, hào.
Ngày 4/4/1965, máy bay giặc Mỹ đã tới ném bom, bắn phá xã Quảng
Trung. Lúc ấy người đã ra đồng làm việc. Trong nhà chỉ còn có trẻ em.
Nghe tiếng máy bay, Ngọc đã kịp chạy xuống hầm. Và bom đã rơi xuống
cạnh nhà Ngọc. Ở dưới hầm Ngọc nghe thấy có tiếng khóc to bên nhà

Khương. Khương là bạn của Ngọc, không chút ngần ngừ, Ngọc nhào lên,
chạy sang nhà Khương thì thấy bạn của mình đã bị thương. Hai em nhỏ của
Khương đang kêu khóc, Ngọc vội vừa bế vừa dìu hai em xuống hầm. Ngọc
bò gần tới nơi trú ẩn thì giặc lại thả bom bi và em đã bị một viên bi bắn vào
lưng rất hiểm. Cứu được hai em nhỏ rồi, ngọc mới tái mặt, lả đi. Vết thương
quá nặng. Ngọc đã hy sinh vào lúc 2 giờ sáng ngày 5/41965 ở bệnh viện.
Noi gương quên mình cứu em nhỏ, thiếu nhi cả nước ta đã học tập và
làm theo Nguyễn Bá Ngọc. Ngay năm ấy và năm sau đã xuất hiện: Trần
Thị Miên, Trần Thị Vệ (Thanh Hoá), Trần Quốc Ý (Nghệ Tónh)…đã liên
tiếp dũng cảm cứu bạn, cứu em nhỏ trong bom đạn của địch.

23


HỒ VĂN MÊN
*

Hồ Văn Mên sinh năm 1953 tại p Thạnh Lộc, xã An Thạnh, huyện
Lái Thiêu, tỉnh Sông Bé trong một gia đình nghèo. Lên 6 tuổi mồ côi mẹ.
Năm 10 tuổi cha bị bọn Mỹ Ngụy bắt đánh đập tàn phế rồi giết chết. Hồ
Văn Mên liền vào đội thiếu nhi tham gia giết giặc từ đấy. Đến năm 13 tuổi,
Mên đã 3 năm làm cách mạng, tham gia trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch bao
gồm các thứ lính, só quan Mỹ, ngụy, cùng nhiều xe cơ giới của địch.
Sống với bà nội, mên tỏ ra là đứa con ngoan, đỡ bà việc nhà, cùng bà
đi chợ bán trầu cau lấy tiền sinh sống.
Nhiều tên đất, tên làng mang dấu tích và chiến công của Hồ Văn Mên
dự trận đánh như: Cua Cát, Phú Vân, Chợ Mới…đã đi vào lịch sử đánh giặc
của tỉnh Sông Bé.
Một lần bị giặc bắt, Mên đã tìm cách trốn thoát và lại tiếp tục đánh
giặc.

Trận đánh nổi tiếng nhất là trận diệt hơn 59 tên só quan và binh lính
ngụy ở sông bạc Phú Văn.
Hồ Văn Mên đã được tặng ba danh hiệu vẻ vang: Dũng só diệt Mỹ,
dũng só diệt xe cơ giới, dũng só diệt xe cơ giới cấp ưu tú.
Năm 1967, Hồ Văn Mên được ra Miền Bắc thăm Bác Hồ và là đại biểu nhỏ
tuổi nhất trong đoàn thiếu nhi dũng só Miền Nam ngày đó.

24


Anh mất ngày 5/3/1984 do vết thương ở sọ não trong một trận đánh
giặc trước đây tái phát.

KƠ PA KƠ LƠNG
*

Kơ Pa Kơ Lơng sinh ngày 19/3/1948, người dân tộc Gia Rai, Tây
Nguyện.
Căm thù Mỹ Diệm, giết cha trong cuộc nổi dậy của dân làng, Kơ
Lơng quyết chí trả thù.
Mới 13 tuổi Kơ Lơng đã xin vào du kích, nhưng không được xã đội
nhận vì còn bé và không có súng để đánh giặc. Kơ Lơng liền tự làm lấy nỏ,
vót tên, phục kích bắn bị thương một tên địch. Nó không chết vì tên không
tẩm thuốc. Kơ Lơng xin người già mũi tên có thuốc và bắn chết liền tiếp 3
tên liền.
Thế là Kơ Lơng đã được gia nhập vào du kích và đựơc phát súng.
Nhận ba viên đạn với điều kiện: phải hạ ba tên giặc. Kơ Lơng đã bắn như
sau: Phát thứ nhất, bắn “xâu táo” xiên một lúc 5 tên. Phát thứ hai “xâu táo”
ba tên, hai thằng chết tại chỗ. Hạ quá ba tên rồi, Kơ Lơng nộp lại viên thứ
ba! Đến một trận khác, Kơ Lơng bắn ba viên hạ bảy tên. Trận khác nữa:

bảy viên hạ hẳn 19 tên giặc.
Trong đơn xin gia nhập quân đội, Kơ Pa Kơ Lơng viết: “Em đã giết 34
tên Mỹ ngụy, phá đựơc 8 xe cơ giới. Nay em đã lớn, xin cấp trên cho em
được làm giải phóng quân”.
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×