Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

nhân vật lịch sử 10,11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 62 trang )

Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
KHỐI 10
Tần Thủy Hoàng (221-210 TCN)
Tần Thủy Hoàng (hay Tần Thủy Hoàng đế ) hiệu của vua Tần Doanh Chính, hoàng đế đầu tiên của Trung
Quốc thống nhất. Doanh Chính lên ngôi vua nước Tần vào năm 246 TCN. Nước Tần hùng mạnh nhất
trong bảy nước lớn thời Chiến Quốc. Trong vòng 10 năm, từ 230-221 TCN, Doanh Chính lần lượt chinh
phục các nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề. Sau khi thống nhất đất nước, Doanh Chính xưng làm
hoàng đế năm 221 TCN, lấy hiệu là Thủy Hoàng Đế (Hoàng đế đầu tiên) của nhà Tần.
Sự thống nhất Trung Quốc của Tần Thủy Hoàng đã chấm dứt thời kỳ phân tranh cát cứ kéo dài 550 năm
(thời Xuân Thu - Chiến Quốc, 770-221 TCN), đảm bảo cho nhân dân được yên ổn làm ăn. Những chính
sách cai trị của Tần Thủy Hoàng được áp dụng trong toàn quốc như chia nước thành quận huyện do quan
lại của triều đình cử xuống cai trị, pháp luật, tiền tệ, chế độ đo lường ... được thống nhất trong toàn quốc.
Tuy nhiên, trong khi xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền, Tần Thủy Hoàng lại
dùng pháp luật khắc nghiệt để cai trị nhân dân. Các học giả phái Nho phê phán chính sách tàn bạo của vua
Tần bị đàn áp tàn khốc (460 học trò phái Nho gia bị chôn sống).
Tần Thủy Hoàng mở nhiều cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài, đánh đuổi người Hưng Nô ở Phương
Bắc, xâm lược đất đai và đặt ách đô hộ các tộc Bác Việt ở Phương Nam. Để thỏa mãn cuộc sống xa hoa,
Tần Thủy Hoàng đã bắt nhân dân lao dịch cực khổ xây dựng nhiều công trình đồ sộ như Vạn Lý trường
thành ở biên giới phía Bắc, lăng Li Sơn và cung A Phòng ở kinh đô Hàm Dương và hơn 700 hành cung rải
rác khắp cả nước.
Tần Thủy Hoàng chết trong một cuộc tuần du lịch địa phương. Thi hài của ông được chôn cất nghiêm mật
ở lăng Li Sơn. Vua kế nghiệp Tần Nhị Thế ra lệnh chôn theo Tần Thủy Hoàng tất cả những cung phi chưa
có con, đồng thời lấp kín hầm mộ, không cho những người làm nhiệm vụ chôn cất Tần Thủy Hoàng ra
khỏi hầm mộ để giữ bí mật lăng vua. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, nhân dân Trung Quốc căm phẫn, oán
giận sự thống trị tàn bạo của nhà Tần, đã nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi, lật đổ ách thống trị nhà Tần.
GIENGIT KHAN (Thành Cát Tư Hãn) (1206 - 1227)
Giengit Khan tên hiệu của Têmudin (Thiết Mộc Chân) (1155 - 1227)- vua đầu tiên của đế quốc Mông Cổ,
nổi tiếng trong lịch sử trung đại về tài quân sự thao lược, cũng như về sự tàn bạo.
Giengit Khan xuất thân trong một gia đình quý tộc thị tộc Mông Cổ, con trai của thủ lĩnh bộ lạc Taisiut.
Ông thông minh, khôn ngoan, dũng cảm, nhưng cũng hết sức lạnh lùng, tàn nhẫn. Năm 1189, Têmudin
được giới quý tộc trong bộ lạc mình bầu làm thủ lĩnh bộ lạc (gọi là Khan). Năm 1206, trong hội nghị quý


tộc thị tộc Kuruntai của liên minh bộ lạc Mông Cổ - Tatarơ (Thái Đát0), Têmudin được bầu làm thủ lĩnh
tối cao của liên minh bộ lạc (gọi là Khan lớn hay vua). Têmudin lấy biệt hiệu là Giengit Khan (vua của
những người dũng cảm).Sau khi nắm quyền hành, Giengit Khan xây dựng liên minh bộ lạc Mông Cổ -
Tatarơ thành một quốc gia phong kiến tập trung hùnh mạnh. Giengit Khan đặc biệt quan tâm đến việc tổ
chức và huấn luyện quân đội, biến những người dân du mục thành những kị binh ưu tú, Giengit Khan đã
tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, chiếm đóng một lãnh thổ rộng lớn bao gồm miền Nam
Xibia, Bắc Trung Quốc, Trung á và một phần ngoại Capcadơ. Quân đội Mông Cổ đi đến đâu, tàn phá, giết
chóc, cướp bóc khủng khiếp đến đó. Nhiều thành thị, làng mạc bị thiêu trụi, biến thành đống gạch vụn,
xác chất cao như núi. Nhân dân nhiều nơi đã nổi dậy, kháng chiến anh dũng chống trả quyết liệt quân xâm
lược Mông Cổ.
Năm 1227 trên đường viễn chinh, Giengit Khan lâm bệnh rồi chết. Đế quốc Mông Cổ còn được những
người thừa kế của Giengit Khan tiếp tục bành trướng, mở rộng bằng chiến tranh xâm lược tàn bạo.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
1
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Thành Cát Tư Hãn
Hồng tú Toàn (1813 - 1864)
Hồng Tú Toàn - lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân Thái Bình thiên quốc ở Trung Quốc.
Hồng Tú Toàn xuất thân trong một gia đình trung nông ở Quảng Đông. Khi còn nhỏ, học rất thông minh;
sau gia đình gặp khó khăn, ông phải nghỉ học ở nhà giúp đỡ gia đình và trở thành thầy đồ dạy trẻ. Ông
mấy lần đi thi nhưng không đỗ. Một lần, tình cờ đọc cuốn Lời lành răn đời của Hội Truyền bá đạo Kitô
xuất bản ở Quảng Châu, đang sẵn có tâm lý bất mãn với chế độ khoa cử, căm thù sự hủ bại của triều đình
Mãn Thanh và thông cảm với nỗi thống khổ của nhân dân, ông đã quyết tâm lấy chủ nghĩa bình đẳng của
đạo Kitô làm gốc, sáng lập ra đạo "Bái Thượng đế" để tập hợp nhân dân chống lại chính quyền Mãn
Thanh.
Năm 1844, ông đi truyền đạo và năm 1850, phát động khởi nghĩa vùng núi tỉnh Quảng Tây. Sau khi giành
được một số thắng lợi, ông tuyến bố thành lập chính quyền mới gọi là Thái bình thiên quốc, tự xưng là
Thiên vương và phân phong cho các tướng lĩnh. Tháng 3-1853, quân Thái Bình chiếm được Nam Kinh,
đặt làm kinh đô của Thái Bình thiên quốc và đổi tên là Thiên kinh. Ngoài việc tiến hành Bắc phạt và Tây
chinh nhằm lật đổ triều đình Mãn Thanh, Hồng Tú Toàn còn ban bố Chế độ ruộng đất thiên triều và nhiều

chính sách cải cách chính trị, xã hội tiến bộ khác. Nhưng Thái Bình thiên quốc đã không xây dựng những
căn cứ vững chắc trong những vùng mình chiếm đóng. Bộ phận lãnh đạo phạm vào nhiều sai lầm về chính
trị và quân sự. Năm 1856, Hồng Tú Toàn thủ tiêu một số tướng tá có thế lực của Thái bình thiên quốc
(trong đó có Dương Tú Thanh, một viên tướng tài giỏi, thành phần cố nông) không ăn cánh với mình, làm
cho lực lượng cách mạng giảm sút đi nhiều.Các nước tư bản phương Tây (Anh, Pháp, Mỹ) lợi dụng sự rối
ren của đất nước Trung Quốc, trước hết dùng vũ lực buộc triều đình Mãn Thanh khuất phục (Cuộc chiến
tranh thuốc phiện lần thứ 2 1857 - 1860), sau đó tích cực giúp đỡ triều đình Mãn Thanh và bọn địa chủ
quan liêu vũ trang tấn công Thái bình thiên quốc. Năm 1864, Thiên Kinh bị quân đội Mãn Thanh và đội
vũ trang của bọn địa chủ quan liêu bao vây chặt. Quân đội và tàu chiến của Anh, Pháp, Mỹ cũng tham gia
tấn công. Nghĩa quân và nhân dân trong thành chiến đấu dũng cảm. Khi thành Thiên Kinh sắp thất thủ,
Hồng Tú Toàn đã tự vẫn (1-6-1864).
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
2
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
KHUBILAI (Hốt Tất Liệt) (1214 - 1294)
Khubilai (Hốt Tất Liệt) - vua thứ tư của đế quốc Mông Cổ (1260 - 1294), người sáng lập triều đại Nguyên
ở Trung Quốc (1271 - 1368).
Khubilai là con trai thứ hai của Tului, em trai của Mônke. Khi Mônke làm Khan lớn (vua Mông Cổ) kéo
quân xuống xâm lược Nam Tống, Khubilai được giao cho cầm đầu một đạo quân vòng xuống phía Nam
để tạo thành thế bao vây Nam Tống. Nhưng khi nghe tin Mônke tử trận (1259), Khubilai tạm ngưng
những cuộc hành quân ở miền Nam, kéo quân về Bắc để tranh ngôi. Năm 1260, Khubilai tự lên ngôi khan
(vua) không thông qua chế độ bầu cử của Hội nghị quý tộc thị tộc Kuruntai, cho nên bị bọn quý tộc Mông
Cổ phản đối, gây thành cuộc nội chiến tàn khốc. Năm 1264, Khubilai dời đô về Yên Kinh, sau gọi là Đại
Đô (Bắc Kinh ngày nay) và năm 1271 đặt tên nước là Nguyên, xưng là Nguyên Thế Tổ. Năm 1267,
Khubilai bắt đầu cho quân xâm lược Nam Tống. Năm 1276, kinh đô của Nam Tống là Lâm An (Hà Châu)
bị chiếm đóng, vua Tống Cung Đế bị bắt, đưa về Bắc. Cuộc kháng chiến của quân dân Nam Tống còn kéo
dài đến năm 1279 mới bị tan rã.
Với chính sách giết sạch, cướp sạch, đốt sạch của người Mông Cổ, đất nước Trung Hoa bị tàn phá nặng
nề. Nguyên Thế Tổ (Khubilai) được bọn Hán gian giúp sức, đã tổ chức lại bộ máy nhà nước giống như
các triều đại phong kiến trước, những người Mông Cổ và các dân tộc khác đi theo Mông Cổ vào xâm lược

Trung Quốc được dành quyền ưu đãi. Mâu thuẫn dân tộc kết hợp với mâu thuẫn giai cấp đã tồn tại trong
suốt thời kỳ thống trị của nhà Nguyên.
Sau khi chinh phục Nam Tống xong. Nguyên Thế Tổ tiếp tục bành trướng xuống phương Nam. Năm
1282, quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy, vượt biển, xâm chiếm Champa. Năm 1285 và năm 1287 - 1288,
hai lần quân Nguyên do Thoát Hoan, con trai của Khubilai, cầm đầu kéo quân vào lâm lược Đại Việt.
Nhưng những cuộc xâm lược của quân Nguyên đều thất bại. Từ đó nhà Nguyên không dám tiến xuống
phương Nam nữa.
Lí Uyên (618 - 626)
Lí Uyên người sáng lập triều đại nhà Đường, hiệu là Đường Cao Tổ.
Lí Uyên nguyên là một võ tướng của nhà Tùy, trấn thủ Thái Nguyên (Sơn Tây) một địa điểm quân sự
quan trọng bảo vệ biên giới phía Bắc, binh lực mạnh. Vào cuối đời Tùy, do sự thống trị tàn bạo của vua
Tùy Dưỡng Đế, phong trào khởi nghĩa của nông dân nổ ra khắp nơi. Một cánh quân khởi nghĩa tấn công
vào kinh đô thứ hai của nhà Tùy là Lạc Dương. Tùy Dưỡng Đế bỏ kinh đô thứ nhất là Trường An, chạy
xuống miền Nam. Thấy tình hình nhà Tùy sắp sụp đổ, Lí Uyên bèn cùng với con là Lí Thế Dân, khởi binh
ở Thái Nguyên, kéo về chiếm Trường An (617). Năm sau, khi nghe tin Tùy Dưỡng Đế bị bộ hạ giết hại tại
Giang Đô, Lí Uyên lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Đường Cao Tổ, lập ra nhà Đường.
Đường Cao Tổ (Lí Uyên) đã dần dần tiêu diệt hết các cánh quân khởi nghĩa và bọn phong kiến cát cứ ở
các nơi, thống nhất đất nước Trung Quốc. Đường Cao Tổ trị vì được 8 năm, thì xảy ra cuộc tranh chấp đổ
máu trong hoàng tộc. Lí Thế Dân là người có công lao lớn trong việc xây dựng triều đại, nhưng lại là con
thứ, không được quyền thừa hưởng ngôi báu, nên đã giết hết các anh em, buộc Đường Cao Tổ phải
nhường ngôi cho. Đường Thái Tổng (Lí Thế Dân) tiếp tục sự nghiệp của Đường Cao Tổ (Lí Uyên) đưa
triều Đường trở thành một đế quốc hùng cường trong lịch sử Trung Quốc.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
3
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Lí Tự Thành.
Lí Tự Thành - thũ lĩnh cuộc khởi nghĩa nông dân cuối đời Minh.
Lí Tự Thành là con một gia đình nông dân nghèo, lúc nhỏ làm mục đồng cho nhà giàu, tự mình luyện tập
cưỡi ngựa, bắn tên. Khi lớn, ông bị bắt làm phu trạm vì phạm tội, phải bỏ trốn, làm nghề đồ tể để kiếm
sống.

Khi phong trào khởi nghĩa nông dân lan rộng, Lí Tự Thành tổ chức một đạo quân, nhận làm bộ tướng cho
Cao Nghênh Tường. Năm 1635, nhà Minh điều một lực lượng quân đội đến bao vây, nhằm tiêu diệt quân
khởi nghĩa. Cao Nghênh Tường hội tụ thủ lĩnh bàn việc phối hợp hành động, phá thế bị bao vây. Trong
cuộc họp, kế hoạch tác chiến của Lí Tự Thành được mọi người tán thành. Nghĩa quân phá được vòng vây,
tiến thẳng đến Phụng Dương (An Huy), đốt phá lăng tẩm của tổ tiên nhà Minh để tỏ rõ quyết tâm tiêu diệt
triều Minh. Năm 1636, Cao Nghênh Tường tử trận. Lí Tự Thành lên thay, trở thành người lãnh đạo chủ
chốt của nghĩa quân. Để thu phục nhân tâm Lí Tự Thành phân phát của cải, chia đều ruộng đất, miễn giảm
tô thuế, trọng vọng hiền tài và ban bố nghiêm lệnh. Vì thế nghĩa quân được nhân dân ủng hộ, đánh đâu
thắng đấy.Năm 1644, Lí Tự Thành lên ngôi hoàng đế ở Tây An (Thiểm Tây), đặt tên nước là Đại Thuận.
Sau đó, Lí Tự Thành tấn công và chiếm được Bắc Kinh. Vua Minh Sùng Trinh Đế thắt cổ tự tử.Khi nghe
tin nhà Minh sụp đổ, viên tổng binh nhà Minh đóng giữ Sơn Hải Quan là Ngô Tam Quế đã đầu hàng Mãn
Thanh, Lí Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế bị liên quân Mãn Thanh - Ngô Tam Quế đánh bại. Lí
Tự Thành phải rút khỏi Bắc Kinh (sau 43 ngày làm chủ kinh thành), rời về Tây An; sau đó lại phải bỏ Tây
An, chạy xuống Hồ Bắc. Cuối cùng Lí Tự Thành bị lực lượng vũ trang của địa chủ bao vây và giết chết ở
núi Cửu Cung.
Lưu Bang
Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân cuối Tần, lật đổ nhà Tần và đánh bại các
lãnh tụ khác của cuộc khởi nghĩa, lên ngôi hoàng đế, hiệu là Hán Cao Tổ (202-195 TCN) thành lập nhà
Hán.
Sau khi Trần Thắng - Ngô Quảng phát động cuộc khởi nghĩa nông dân chống Tần được hai tháng, thì Lưu
Bang là một viên đình trưởng ở ấp Bái (huyện Bái, Giang Tô) cũng nổi lên, giết viên lệnh huyện Bái, lập
ra một cánh quân khởi nghĩa, tự xưng là Bái Công. Lúc đầu, Lưu Bang đi theo đạo quân khởi nghĩa của
hai chú cháu Hạng Lương, Hạng Vũ (Hạng Tịch). Sau khi Hạng Lương tử trận, Hạng Vũ trở thành người
đứng đầu phong trào khởi nghĩa chống Tần. Năm 207 TCN, Hạng Vũ đánh bại quân chủ lực Tần do
Chương Hàm chỉ huy ở trận Cự Lộc (Hà Bắc). Lợi dụng lúc Hạng Vũ đang đánh nhau với quân Tần, Lưu
Bang kéo quân vào kinh đô Hàm Dương của nhà Tần. Khi đó, Tần Nhị Thế đã bị giết hại, vua Tần mới là
Tử Anh ra hàng. Lưu Bang hủy bỏ những chính sách tàn bạo của nhà Tần, duy trì kỷ luật trong quân đội,
cho nên được nhân dân Tần ngưỡng mộ.
Sau đó Hạng Vũ cũng kéo quân vào Hàm Dương, giết chết vua Tần Tử Anh đã đầu hàng, đốt cháy cung
điện của nhà Tần, cướp rất nhiều của cải châu báu và bắt phụ nữ đem về căn cứ. Hạng Vũ tự xưng là Tây

Sở bá vương, phân phong cho các tướng tá làm vua chư hầu, Lưu Bang được phong làm Hán Vương, cai
trị đất Ba Thục và Hán Trung (vùng Tứ Xuyên ngày nay).
Chẳng bao lâu, một cuộc chiến tranh khốc liệt đã diễn ra giữa Hạng Vũ và Lưu Bang để giành bá quyền,
gọi là Chiến tranh Hán - Sở (206 - 202 TCN). Buổi đầu, Sở mạnh hơn Hán, nên Hán thua. Nhưng vì Lưu
Bang biết dựa vào dân, tận dụng tài năng các tướng, cho nên lực lượng ngày càng lớn mạnh. Còn Hạng
Vũ cậy mình khỏe mạnh, tài giỏi, đi đâu cũng ? giết người, đốt nhà, cho nên bị nhân dân chống lại, chư
hầu phản bội, ngày càng bị cô lập. Năm 202 TCN, trong trận quyết chiến Cai Hạ (huyện Linh Bích An
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
4
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Huy), Hạng Vũ bị đánh thua, bỏ chạy đến sông Ô thì tự sát. Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, hiệu là Hán Cao
Tổ.
Chính quyền nhà Hán do Lưu Bang thành lập là chính quyền quân chủ chuyên chế tập quyền. Lúc mới
thành lập, các công thần của Hán Cao Tổ nắm giữ nhiều vùng đất đai rộng lớn, Hán Cao Tổ đã tìm cách
ám hại những người này (Hàn Tín, Bành Việt, Kình Bố ..v.v...) để thu hồi lại đất đai, nhưng sau đó lại
phân cấp đất đai cho anh em con cháu mình làm vương hầu. Vì thế chính quyền trung ương ở đầu đời Hán
chưa thực sự được củng cố. Về mặt kinh tế xã hội, Hán Cao Tổ đã ban hành nhiều chính sách tiến bộ, nhờ
đó đã sớm ổn định được xã hội và phát triển nền kinh tế, đặt nền móng cho sự thiết lập một đế quốc hùng
mạnh trong lịch sử phong kiến Trung Quốc - đế quốc Hán.
La quán Trung (k.1328 - 1398)
La Quán Trung - nhà văn lớn của Trung Quốc cuối Nguyên, đầu Minh, tác giả Tam Quốc chí diễn nghĩa.
La Quán Trung, tên chính là Bản, tự Quán Trung, ham mê du lịch nên còn biệt hiệu Hồ Hải tản nhân.
Tương truyền La Quán Trung xuất thân bản gia đình quý tộc ở đất Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Từ nhỏ, La
Quán Trung đã nổi tiếng là người hay chữ, có tài văn chương. Tuổi thanh niên, ông nuôi chí phò vua giúp
nước; song lúc đó, triều đình nhà Nguyên đang suy tàn, ông bỏ đi phiêu lãng. Có tài liệu nói, ông tham gia
nghĩa quân nông dân Trương Sĩ Thành chống Nguyên. Sau khi Chu Nguyên Chương diệt nghĩa quân
Trương Sĩ Thành, ông không tham gia hoạt động chính trị nữa, mà chuyển sang hoạt động văn chương.
Ngoài Tam Quốc chí diễn nghĩa, ông còn có những bộ tiểu thuyết khác như Tùy Đường lưỡng triều chỉ
truyện, Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa... Những bộ tiểu thuyết này của ông đã bị người đời sau thay đổi
đi nhiều không còn như nguyên tác nữa.

Sáng tác Tam Quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung căn cứ vào những truyện kể dân gian, có tham khảo bộ
chính sử Tam Quốc chí của Trần Thọ (viết vào đời Tấn), và Tam Quốc chí chú của Bùi Tùng Chi (đời
Lưu Tống - Nam Triều).
Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung gồm 240 hồi, kể lại cuộc tranh chấp giữa ba tập đoàn phong
kiến Ngụy, Thục, Ngô thời Tam Quốc, diễn tả sinh động những nhân vật, những cuộc chiến tranh tàn
khốc, những tai họa và nỗi thống khổ của nhân dân... Tác phẩm là một bộ bách khoa về lịch sử, quan hệ
xã hội, đặc biệt có nhiều tri thức vầ quân sự. Bộ Tam Quốc chí diễn nghĩa về sau được Mao Tôn Cương
(đời Thanh) chỉnh lý còn 120 hồi và thêm lời bàn, hiện nay đang lưu truyền.
Tào Tuyết Cần (1723-1763)
Tào Tuyết Cần, - nhà văn lớn đời Thanh, Trung Quốc, tác giả tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng.
Tào Tuyết Cần tên là Chiêm, tự Mông Nguyên, xuất thân trong một gia đình quý tộc người Hán, nhập
quốc tịch Mãn Châu. Ông sinh ở Nam Kinh, nhưng sống và làm việc tại Bắc Kinh. Bố của Tào Tuyết Cần
là một quý tộc quan lại nhà Thanh, nhưng đế đời vua Ung Chính thì bị cách chức, từ đó gia cảnh sa sút,
cuộc sống túng thiếu. Thuở niêu thiếu, Tào Tuyết Cần luôn sống trong cảnh bần hàn, cô độc và bất đắc
chí, do vậy ông đã nhận rõ sự mục nát và những thói hư tật xấu của bọn vua quan phong kiến Mãn Thanh.
Tào Tuyết Cần có thái độ phê phán nghiêm khắc về chế độ khoa cử đương thời,về chức tôn giáo và những
đạo đức cổ hủ của xã hội phong kiến Trung Quốc.
Hồng Lâu Mộng (giấc mộng lầu son) miêu tả một cách sinh động và sâu sắc xã hội phong kiến Trung
Quốc đang trong thời kỳ suy tàn. Thông qua tấn bi kịch của đôi thanh niên nam nữ Giả Bảo Ngọc, một
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
5
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
chàng công tử quý tộc là Lâm Đại Ngọc, một cô gái xinh đẹp, bệnh tật, cõi cút, tác giả đã khắc họa sự thối
nát của xã hội đại quý tộc và những con bài của nó. Bộ tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng gồm 120 hồi, nhưng
Tào Tuyết Cần mới xong 80 hồi đầu thì mất, hơn 20 năm sau, Cao Ngạc, một nhà văn từng đỗ tiến sĩ, có
lẽ được xem qua bản thảo viết dở của Tào Tuyết Cần, đã viết tiếp mà rất ăn khớp 40 hồi sau.
ASÔCA (292 - 237 TCN)
Asôca (Asoka) - hoàng đế ấn Độ thuộc vương triều Môria (273 - 237 TCN), một trong những hoàng đế
nổi tiếng trong lịch sử ấn Độ cổ đại.
Asôca đã tiến hành lần đầu tiên trong lịch sử cổ đại ấn Độ, công cuộc thống nhất gần như toàn vẹn bán

đảo ấn Độ, (trừ phần cực nam), thiết lập nên một đế quốc rộng lớn, hùng cường.
Asôca đã cho xây dựng nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là việc xây dựng kinh đô Pataliputơra với
nhiều chùa chiền, cung điện, dinh thự trên một quy mô lớn và một trình độ kiến trúc cao. Từ thời Asôca
còn để lại đến ngày nay một số cột ghi pháp lệnh của nhà vua bằng đá nguyên khối, đỉnh cột có tạc hình
thú vật (sư sử, voi, bò rừng, ngựa).
Dưới thời Asôca, đạo Phật phát triển mạnh và được coi là quốc giáo. Nhà vua đã gia nhập hội Phật giáo.
Dưới sự bảo trợ của Asôca, lần đầu tiên trong lịch sử ấn Độ và lịch sử Phật giáo, một đại hội Phật giáo có
tính chất quốc gia đã được triệu tập tại kinh đô Pataliputơra. Nhờ đại hội này, giáo hội Phật giáo đã được
củng cố và hoàn thiện với hệ thống tổ chức, giáo lý, lễ nghi và cùng với nó là việc xuất hiện nhiều chùa
chiền, nhiều ngôi mộ hình tháp (stupa)... Asôca còn khuyến khích việc truyền bá đạo Phật ra nước ngoài.
Một phái đoàn trong đó có em trai và em gái của Asôca tham gia đã được phái sang truyền đạo ở Xrilanca
(đảo Xâylan) và trồng cây bồ đề làm lưu niệm ở bên đó.
ASÔCA (292 - 237 TCN)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
6
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
ACƠBA (1542 - 1605)
Acơba (Akbar) - hoàng đế hùng cường nhất của triều đại Môgôn ở ấn Độ, trị vì 1556 - 1605.
Acơba sinh ra trong lúc vua cha là Humayun đang trên đường đi lánh nạn. Từ nhỏ, Acơba đã biểu lộ một
tư chất đặc biệt về thể thao và võ nghệ. Khi Hamayun khôi phục lại được ngôi báu, Acơba mới 13 tuổi đã
được phong làm tổng trấn xứ Pungiap và năm 14 tuổi, khi vua cha mất, lên ngôi hoàng đế ở Đêli.
Acơba một mặt thiết lập chính quyền chuyên chế tập trung cao độ, tiến hành chinh phục và đàn áp khốc
liệt các vùng lân cận không chịu quy thuận; mặt khác, lại thi hành chính sách khoan dung đối với mọi tôn
giáo. Tuy là một tín đồ trung thành của đạo Hồi, ông đã có một thái độ rất độ lượng đối với mọi tôn giáo
đang tồn tại ở ấn Độ. Ông đã ra lệnh bãi bỏ "thuế đầu người" hay "thuế ngoại đạo", một thuế đánh vào bất
cứ người dân nào không theo đạo Hồi. Ông khuyến khích quý tộc Mông Cổ kết thân với quý tộc ấn Độ
theo ấn giáo. Chính Acơba cũng lấy một công chúa xứ Ratputana theo ấn giáo làm vợ và tuyển nhiều cung
phi là con gái của các gia đình quý tộc ấn Độ. Acơba thực hiện chính sách trọng đãi người tài, tuyển dụng
cả những người ấn Độ theo ấn giáo vào những chức vụ cao trong chính quyền. Do đó, Acơba đã đưa đế
quốc Môgôn trở thành đế quốc hùng cường nhất trong lịch sử ấn Độ.

Tuy bản thân không biết chữ, nhưng Acơba rất trọng đãi các trí thức và văn nghệ sĩ. Trong cung điện của
Acơba thường tổ chức những buổi bàn luận của các học giả. Nhà vua hăng hái tham gia thảo luận với họ
về các vấn đề văn học, triết học, tôn giáo. Acơba đã cho thành lập một thư viện lớn gồm hàng vạn cuốn
sách chép tay và những bản dịch sách cổ ấn Độ sang tiếng Ba Tư (ngôn ngữ được sử dụng ở triều đình
Môgôn). Một sử gia đã gọi Acơba là "nhà vua học giả uyên bác không biết chữ".
KILIĐASA (T.K.IV-V)
Kaliđasa - nhà thơ lớn của ấn Độ, ở thời Gupta, tác giả vở kịch Sơkuntơla nổi tiếng.
Theo truyền thuyết, Kaliđasa mồ côi cả cha lẫn mẹ từ bè, được một người chăn bò nuôi dưỡng. Lớn lên,
Kađiđasa là một chàng trai khỏe mạnh, nhưng trí tuệ rất kém cỏi. Về sau được nữ thần Kali truyền cho trí
tuệ và óc thông minh. Do vậy, ông đã lấy tên là "kẻ nô lệ của thần Kali" (Kaliđasa). Kaliđasa đã hấp thụ
được những truyền thống văn hóa lâu đời và rực rỡ của nền văn minh ấn Độ. Bản chất là một người yêu
thiên nhiên, yêu cái đẹp, đặc biệt là lòng thương yêu con người sâu sắc, Kaliđasa đã tiếp tục phát triền chủ
đề tình yêu trong một xã hội mà chế độ đẳng cấp khắc nghiệt đang ngự trị, và có lẽ cũng chính vì thế
Kaliđasa đã trở thành một trong những nhà thơ, nhà viết kịch lớn của thời đại. Kaliđasa được vua ấn Độ
Vikrammađitya (biệt hiệu của Chandragupta II) mời vào cung và được coi là một trong chín viên ngọc
quý của hoàng cung.
Kaliđasa có nhiều sáng tác về thơ ca, về kịch, trong đó nổi tiếng nhất là tập thơ trỡ tình Mây đưa tin và vở
kịch thơ Sơkuntơla viết bằng tiếng Sănxkri. Đối với nhân dân ấn Độ, Sơkuntơla của Kaliđasa từ lâu đã đi
vào tâm tư tình cảm của họ, đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho những sáng tác, những hoạt động
văn hóa của họ (ngâm vịnh, diễn kịch, đóng phim, hội họa, âm nhạc...). Kaliđasa cũng được dịch ra nhiều
thứ tiếng trên thế giới, đã được dàn dựng ôpêra, quay phim và công diễn ở khắp mọi nơi.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
7
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
GAMA (VAXCÔ ĐƠ) (k. 1469 - 1524)
Vaxcô đơ Gama (Vasco de Gama) - nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã hoàn thành cuộc thám hiểm vòng quanh
châu Phi sang ấn Độ lần đầu tiên (1497 - 1498).
Vaxcô đơ Gama thủy thủ Đồ Đào Nha, từ thời niên thiếu đã theo các tàu buôn qua lại nhiều nước ở châu
Âu và dọc bờ biển châu Phi. Sau cuộc thám hiểm thành công của Bactôlômêu Điaxơ tới mỏm cực Nam
châu Phi (1487), nhiều nhà hàng hải muốn tiếp tục hoàn thành cuộc thám hiểm sang ấn Độ, nhưng vua Bồ

Đào Nha đã chọn Vaxcô đơ Gama, nhà hàng hải dũng cảm và có chí lớn này thực hiện.
Ngày 6-7-1497, Vaxcô đơ Gama chỉ huy đoàn tàu gồm 4 chiếc Caravela cùng 168 thủy thủ, mở đầu cuộc
thám hiểm. Cuối năm, họ tới mũi Bão Táp và đi lên phía Bắc. Vaxcô đơ Gama loanh quanh ở bờ biển phía
đông Châu Phi một thời gian không dám vượt qua ấn Độ Dương. Sau nhờ một thủy thủ ARập thông thuộc
đường đi và hiểu biết gió mùa ở ấn Độ Dương dẫn đường đoàn tàu của Vaxcô đơ Gama cập được bến
Calicut ở bờ biển Tây Nam ấn Độ (1498). Lưu lại ở đây hơn một năm, tiến hành nhiều cuộc cướp bóc và
cũng xảy ra nhiều vụ xung đột với các tàu buôn ARập và dân địa phương, đến tháng 8-1499, đoàn tàu của
Vaxcô đơ Gama trở về nước, chỉ còn 55 người sống sót, nhưng chở về đầy vàng và hương liệu. Sau đó,
Vaxcô đơ Gama còn trở lại ấn Độ nhiều lần và đã hi sinh trên đất ấn Độ.
GAMA (VAXCÔ ĐƠ)
( 1469 - 1524)
CÔLÔMBÔ (1451 - 1506)
Crixtôphôrô Côlômbô (Christophoro Colombo) - nhà hàng hải Italia, phục vụ triều đình vua Tây Ban Nha,
thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên qua Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ.
Côlômbô xuất thân trong gia đình công nhân dệt ở Giênôva, một hải cảng sầm uất ở phía Bắc Italia. Ông
thường có những suy nghĩ táo bạo và lãng mạn, luôn mơ ước vượt trùng dương tới miền đất xa lạ. Ông đã
nhiều lần vượt biển theo các đoàn tàu buôn. Năm 1476, ông sang Bồ Đào Nha đề xuất dự án vượt đại
dương theo hướng tây tới Nhật Bản và Trung Quốc, nhưng vua Bồ Đào Nha không chấp thuận. Ông bỏ
sang Tây Ban Nha và được vua Tây Ban Nha Phecnanđô và nữ hoàng Ixabenla chấp nhận dự án và cấp
kinh phí cho ông thực hiện cuộc thám hiểm.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
8
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Ngày 3-8-1492, Côlômbô được phong Đô đốc, cầm đầu một đoàn tàu gồm ba thuyền buồm và 60 thủy thủ
rời cảng Palôxơ (Nam Tây Ban Nha) đi tìm đường sang ấn Độ theo hướng tây. Sau hai tháng rưỡi lênh
đênh ngoài biển khơi Đại Tây Dương đầy gian khổ và lo âu, ngày 12-10-1492, đoàn tàu của Côlômbô đến
được vùng quần đảo Bahama, rồi Cuba và Haiti. Côlômbô tưởng rằng mình đã đến Nhật Bản hoặc những
hòn đảo ven bờ ấn Độ (cho nên ông gọi dân bản xứ là người ấn Độ - Indian). Nhưng gần nửa năm sục sạo
ở các hòn đảo này, ông không tìm thấy hạt tiêu và hương liệu và những thứ hàng đắt giá ở châu Âu, mà
chỉ thu hoạch được một ít vàng và đường. Tháng 3-1943, ông trở về Tây Ban Nha, được triều đình và

nhân dân Tây Ban Nha đón tiếp trọng thể. Ông được vua Tây Ban Nha phong phó vương các thuộc địa ở
Tần lục địa.
Từ 1493 - 1504, Côlômbô còn thực hiện ba chuyến thám hiểm nữa sang lục địa mới. Ông đã khám phá ra
hầu hết các đảo trên quần đảo Ăngti và cả bờ biển Trung Mỹ. Nhưng số vàng bạc và của cải mà ông mang
về cho vua Tây Ban Nha quá ít ỏi, vì thế ông không được nhà vua tín nhiệm nữa. Năm 1506, ông mất tại
một thành phố nhỏ ở miền Bắc Tây Ban Nha trong sự nghèo khổ và lãng quên.
Christopher Columbus (c. 1446-1506)
Magienlan (1480 - 1521)
Phecnan đơ Magienlan (Fernand de Magellan) - nhà hàng hải nổi tiếng, thực hiện chuyến thám hiểm đầu
tiên vòng quanh trái đất (1519 - 1522)
Magienlan, thủy thủ người Bồ Đào Nha, đã tham gia nhiều chuyến đi biển men theo bờ biển Tây Phi và
Đông Phi. Ông luôn có hoài bảo vượt trùng dương, đến những chân trời xa lạ.
Năm 1517, Magienlan đến thành phố Sêvila (Tây Ban Nha) được hoàng đế Tây Ban Nha ưu ái giúp đỡ.
Năm 1518, ông cưới con gái nhà quý tộc quyền thế Tây Ban Nha. Hoàng đế Tây Ban Nha trích công quỹ
chi phí cho chuyến thám hiểm của? Magienlan như mua sắm tàu bè, vũ khí, chiêu mộ thủy thủ ... Ngày
20/9/1519, ông chỉ huy đoàn tàu gồm 5 chiếc và 265 thủy thủ thực hiện cuộc hành trình vòng quanh thế
giới. Sau khi đi dọc theo bờ biển Nam Mỹ, men theo bờ biển phía Đông, ông đã tìm ra một eo biển, ở giữa
mũi cực Nam của đại lục này với đảo Đất Lửa, về sau eo biển này mang tên ông, eo Magienlan. Tiếp theo,
đoàn thám hiểm đi vào một đại dương trong cảnh bể lặng sóng yên. Magienlan đặt tên là Thái Bình
Dương. Thái Bình Dương rộng lớn hơn Đại Tây Dương nhiều. Đoàn thám hiểm lênh đênh giữa biển khơi
hơn một năm trời, đói khát, bệnh tật đã làm họ kiệt quệ. Tháng 2.1521, đoàn thám hiểm đến Philipin.
Magienlan tìm thấy ở đây có nhiều hồ tiêu, hương liệu, mặt hàng rất quý đối với châu Âu. Trong những
cuộc đụng độ, cướp đoạt những sản phẩm này của dân bản xứ nhiều thủy thủ bị giết, bản thân Magienlan
cũng bị chết ngày 6/3/1521. Đoàn thám hiểm chỉ còn một tàu vượt qua mũi Nam
Phi trở về nước.
Ngày 15/4/1522, đoàn thám hiểm về đến Tây Ban Nha chỉ còn lại 13 thủy
thủ, nhưng trên tàu đầy ắp hương liệu. Magienlan cùng các thủy thủ đã thực
hiện một cuộc hành trình - một chuyến đi vòng quanh thế giới lần đầu tiên.
Cuộc thám hiểm đã khẳng định là Trái Đất hình tròn.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử

9
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Ferdinand Magellan (c. 1480-1521)
CANVANH (1509 - 1564).
Giăng Canvanh (Jean Calvin) - nhà cải cách tôn giáo Pháp, người sáng lập giáo hội Tin lành ở Giơnevơ và
đã gây ra một phong trào cải cách tôn giáo rộng lớn ở châu Âu.
Canvanh sinh ngày 10-9-1509 tại thị trấn Noayông, miền Bắc nước Pháp. Cha ông làm thư ký cho vị giám
mục của xứ này, và muốn con mình trở thành luật sư, nên đã gửi ông học luật ở trường đại học Pari. Tại
thủ đô nước Pháp, ông đã tiếp thu tư tưởng của các nhà nhân văn chủ nghĩa và tư tưởng cải cách tôn giáo
của Luthơ. Khi chính quyền quân chủ chuyên chế Pháp tiến hành khủng bố những người theo cải cách tôn
giáo, ông đã bỏ sang Đức, rồi sau định cư ở Giơnevơ.
Năm 1536, ông đã cho ra mắt công chúng tác phẩm Thiết chế của đạo Kitô, trình bày một cách hệ thống
tư tưởng cải cách tôn giáo. Giáo lý căn bản của ông là thuyết định mệnh. Ông cho rằng số phận của mỗi
người, giàu hay nghèo, là do Chúa trời định. Nhưng người ta không biết được số mệnh của mình, mà cứ
phải lao động, kinh doanh kiếm tiền hết sức mình, còn kết quả thành bại là do Thượng đế quyết định.
Thuyết định mệnh của Canvanh phản ảnh đúng thực trạng tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, nhưng
nó cũng thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Năm 1541, Canvanh đã xây dựng ở Giơnevơ một tổ chức Công xã của những người được lựa chọn hay
quốc gia của Canvanh giáo. Nhà thờ của giáo hội Canvanh được trang trí đơn giản, mục sư là người giảng
giải giáo lý (chủ yếu là kinh Phúc âm) và lo về phần hồn của tín đồ. Vai trò quản lý của công xã là thuộc
về Hội đồng trưởng lão do tín đồ bầu ra.
Tôn giáo cải cách của Canvanh đáp ứng được yêu cầu về tư tưởng và tổ chức của giai cấp tư sản, cho nên
đã truyền bá rộng rãi ở Pháp, Anh và nhất là ở Nêđeclan.
LUTHƠ (1483 - 1546)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
10
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Mactin Luthơ (Martin Luther) - nhà thần học, nhà cải cách tôn giáo ở Đức vào thế kỉ XVI, người đề
xướng ra tôn giáo mới (Tân giáo) hay đạo Tin lành chống giáo hội Thiên chúa giáo phản động. Luthơ sinh
ngày 10-10-1483 ở thị trấn Âyxlêben, miền Trung nước Đức. Cha ông là chủ hầm mỏ và lò luyện sắt. Cha

mẹ ông đều là những con chiên ngoan đạo, ông được học trường dòng và trở thành tu sĩ. Sau khi tốt
nghiệp tiến sĩ thần học, năm 1513, ông làm giáo sư triết và thần học ở trường đại học Vitttenbec. Nghiên
cứu hình thức tổ chức và lễ nghi đơn giản của đạo Kitô nguyên thủy và chịu ảnh hưởng những tư tưởng
của các nhà nhân văn và cải cách giáo hội trước, Luthơ đã đề ra chủ trương "sự cứu vớt con người bằng
lòng tin", có nghĩa là con người sẽ được cứu vớt bằng lòng tin vào Thượng đế, chứ không cần những lễ
nghi phiền toái, tốn kém, tổ chức đẳng cấp giáo hội phức tạp và chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến của
giáo hội. Hay nói cách khác, Luthơ đã phát biểu quan điểm giáo hội "rẻ tiền" của giai cấp tư sản. Năm
1517, Luthơ đứng lên phản đối việc bán thẻ xá tội của Giáo hoàng và viết một bài văn gồm 95 luận điểm
để trình bày quan điểm của mình và đem dán ở trước cửa trường đại học Viitenbec. Năm 1520, Giáo
hoàng ban hành chiếu chỉ rút phép thông công (khai trừ khỏi giáo hội) đối với Luthơ. Sinh viên ở trường
đại học Vittenbec và đông đảo nhân dân quanh vùng, đã đem chiếu chỉ của Giáo hoàng rút phép thông
công Luthơ ra đốt. Cuộc vận động cải cách tôn giáo ở Đức bắt đầu. Một số quý tộc phong kiến Đức đã đi
theo tôn giáo cải cách (Tân giáo) để chiếm đoạt tài sản và tịch thu ruộng đất của giáo hội Thiên chúa giáo.
Nông dân Đức cũng nổi dậy chống lại cả giáo hội Thiên chúa giáo lẫn quý tộc phong kiến trong cuộc
chiến tranh nông dân Đức (1524 - 1525). Luthơ đứng về phía quý tộc phong kiến Đức, kêu gọi quý tộc
đàn áp cuộc khởi nghĩa nông dân. Cải cách tôn giáo của Luthơ trở thành công cụ của một bộ phận quý tộc
phong kiến Đức tăng cường thế lực chống lại hoàng đế Đức và bộ phận quý tộc phong kiến vẫn duy trì
đạo Thiên chúa (gọi là phái Cựu giáo). Cuộc chiến tranh giữa hai phái Tân giáo và Cựu giáo trong suốt hai
thế kỷ XVI - XVII đã làm cho nước Đức bị tàn phá và kiệt quệ.
Muynxơ (Tômat) (1490-1525)
Tômat Muynxơ (Thomas Munzer hay Muntzer) - nhà cải cách tôn giáo, lãnh tụ cuộc Đại chiến tranh nông
dân ở Đức.
Muynxơ xuất thân gia đình thợ mỏ. Bố ông bị bọn quý tộc phong kiến treo cổ vì có thái độ phản kháng lại
chúng. Muynxơ căm thù bọn quý tộc phong kiến, cố gắng học hành, tốt nghiệp tiến sĩ thần học và làm linh
mục ở nhà thờ Xơvichacao. Xơvichcao là một thành phố công nghiệp vùng Dăcden, ở đây phong trào cải
cách tôn giáo của nhân dân lao động gọi là phong trào "rửa tội lại", diễn ra sôi nổi. Muynxơ trở thành
người lãnh đạo phái "rửa tội lại"
Khi phong trào cải cách tôn giáo của Luthơ diễn ra, Muynxơ nhiệt liệt hoan nghênh. Nhưng tư tưởng cách
mạng triệt để của Mynxơ khác xa với tư tưởng cải lương, thỏa hiệp của Luthơ. Bị trục xuất khỏi
Xơvichcao,? Muynxơ sang Tiệp, liên kết với phái Huxơ (phong trào cải cách tôn giáo tích cực do Gian

Hunxơ phát động). Khi phong trào khởi nghĩa của nông dân bùng nổ mạnh mẽ ở Đức, ông trở về nước.
Cuối năm 1524, Muynxơ tham gia cuộc khởi nghĩa nông dân ở Sơvaben và công bố Bức thư luận cương,
trình bày cương lĩnh của phong trào bình dân và nông dân. Đầu năm 1525, Muynxơ trở về thành phố
Muynhaoden (Dắc den) và trực tiếp lãnh đạo phong trào quần chúng ở đây. Sau khi cuộc khởi nghĩa của
dân nghèo ở Muynhaoden giành được thắng lợi, Muynxơ được bầu làm Chủ tịch Hội đồng thành phố.
Ông đã xây dựng một đạo quân mạnh bảo vệ thành phố và hỗ trợ cho phong trào cách mạng của nông dân,
thị dân, thợ mỏ ở các vùng xung quanh. Bọn lãnh chúa phong kiến đã liên kết với nhau tấn công nghĩa
quân. Quân phong kiến có kị binh, pháo binh yểm trợ, ưu thế hơn nghĩa quân. Nghĩa quân tuy có tinh thần
chiến đấu cao, nhưng vì trang bị kém, huấn luyện chưa đầy đủ, những người chỉ huy thiếu kinh nghiệm tổ
chức và chiến đấu, nên nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề. Muynxơ bị thương nặng, bị bắt, sau đó bị bọn
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
11
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
phong kiến tra tấn dã man, nhưng ông nhất định không chịu khuất phục. Bọn phong kiến đã đem Muynxơ
ra chặt
Muynxơ (Tômat) (1490-1525)
Orăng (Ghiôm) (1533-1584)
Ghiôm I Orăng - Natxâu (Guillaume I er d'Orange - Nassau) - lãnh tụ cuộc cách mạng tư sản Nêđeclan
(Xứ thấp), quốc trưởng đầu tiên của các tỉnh liên hiệp (tức Hà Lan).
Ghiôm I Orăng - Natxâu là con cả của bá tước Ghiôm VIII Natxâu, được thừa kế lãnh địa ở Orăng, nên
mang họ Orăng - Natxâu, một vương hầu của đế quốc Đức. Xứ Nêđêclan là lãnh thổ của đế quốc Đức hay
đế quốc thần thánh Rôma - Giecmani. Năm 1556, hoàng đế Đức Saclơ Canh (Charles V tức Charles
Quint) từ ngôi, đã giao Nêđeclan cho con mình là vua Tây Ban Nha Philippô II cai trị của Philippô II ở
Nêđeclan hết sức hà khắc, nhà vua bắt nhân dân đóng góp thuế khóa nặng nề và dựa vào giáo hội Thiên
chúa giáo khủng bố gắt gao đạo Tin lành, đạo này được đa số nhân dân Nêđeclan tin theo. Các tầng lớp xã
hội Nêđeclan đều bất mãn với chế độ cai trị của Tây Ban Nha. Một đoàn đại biểu quý tộc, do Ghiôm
Orăng cầm đầu, dâng lên người đại diện của Philippô II lời thỉnh cầu nhà vua giảm bớt chính sách hà
khắc, nhưng nhà vua không chấp nhận. Năm 1566, một cuộc nổi dậy của nhân dân kéo đến phá hủy các
nhà thờ của giáo hội Thiên chúa giáo (phong trào "phá hoại tượng thánh") mở đầu cuộc cách mạng tư sản
ở Nêđeclan. Vua Tây Ban Nha đưa quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Nhân dân Nêđeclan thành lập các

đội du kích (bọn quý tộc Tây Ban Nha gọi họ là "những kẻ khốn cùng") chiến đấu ở cả trong rừng lẫn
ngoài biển chống quân đội Tây Ban Nha. Ghiôm Orăng cũng tổ chức một đội quân đánh thuê về tham gia
chiến đấu. Ông được nghĩa quân bầu làm Thống lĩnh (cũng gọi là Quốc trưởng)
Cuộc chiến tranh cách mạng diễn ra ngày càng ác liệt, khí thế cách mạng của nhân dân ngày càng lên cao.
Năm 1579 bọn quý tộc bảo thủ và một bộ phận tư sản ở miền Nam Nêđeclan rút khỏi cuộc đấu tranh cách
mạng, thừa nhận sự thống trị của Tây Ban Nha 17 tỉnh miền Bắc kiên quyết chiến đấu đến khi giành được
thắng lợi, thành lập nước cộng hòa, gọi là "Các tỉnh liên hiệp" (về sau gọi theo tên? của một tỉnh quan
trọng nhất và có thủ đô Amxtecđam là Hà Lan). Năm 1584, Ghiôm Orăng người tiêu biểu cho cuộc đấu
tranh giải phóng Nêđeclan, bị một tên tay sai của Tây Ban Nha ám sát. Sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc được giao cho con ông là Môrit Orăng một người có tài tổ chức và chỉ huy quân đội. Năm 1609,
Tây Ban Nha phải ký hòa ước đình chiến với "Các Tỉnh liên hiệp" và năm 1648 chính thức thừa nhận nền
độc lập của "Các Tỉnh liên hiệp".
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
12
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
CRÔMOEN (1599 - 1658)
Ôlivơ Crômoen (Oliver Cromwell) - nhân vật chủ chốt của cách mạng tư sản Anh (1640 - 1660), người có
nhiều công lao đưa cuộc cách mạng đến thắng lợi và đã nắm chính quyền độc tài quân sự 1653 - 1658.
Crômoen là một địa chủ, đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, có tinh thần cách mạng, khả năng tổ chức và
chỉ huy quân sự. Năm 1640, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội. Trong Quốc hội, ông đã hăng hái chống
lại nhà vua và giáo hội Anh. Khi cuộc chiến tranh chống vua Saclơ I nổ ra (1642), ông đã tổ chức đạo
quân "kiểu mới", làm hạt nhân cho quân đội của Quốc hội (quân "đầu tròn", vì đầu tóc cắt ngắn, ăn mặc
giản dị). Đơn vị kị binh của Crômoen, do lòng dũng cảm và chí kiên quyết, được mệnh danh là "sườn sắt".
Quân đội "đầu tròn" của Quốc hội đã đánh bại quân đội "kị sĩ" của vua và bắt giam vua (1648).
Sau khi vua Anh Saclơ I bị xử tử (1649), chế độ Cộng hòa được thành lập. Chính phủ Cộng hòa đã phái
Crômoen mang quân đội sang đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Airơlen, Xcôtlen và tiến hành
chiến tranh với Hà Lan buộc nước xảy ra nhiều biến động do quần chúng lớp dưới không thỏa mãn với
những chính sách của chính phủ Cộng hòa, bọn sĩ quan cao cấp và bọn đại tư sản ở Luân Đôn đã ủng hộ
Crômoen thực hiện chế độ độc tài quân sự. Năm 1653, Hội đồng sĩ quan bầu Crômoen làm người đứng
đầu Chính phủ và phong cho ông chức vụ suốt đời làm Bảo hộ công. Lúc đầu, Crômoen còn chia sẻ quyền

lợi với một hội đổng quốc gia, nhưng từ 1655, ông nắm tất cả mọi quyền hành, không triệu tập cả Quốc
hội. Crômoen mất ngày 3-9-1658.
CRÔMOEN (1599 - 1658)
Oasinhtơn (1732-1799)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
13
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Gioóccgiơ Oasinhtơn (George Washington) - người lãnh đạo chủ yếu cuộc chiến tranh giành độc lập ở
Bắc Kỳ, Tổng chỉ huy quân khởi nghĩa và Tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1789-1796)
Oasinhtơn là một điền chủ giàu có ở bang Vơcginia. Khi 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ nổi dậy giành độc
lập, triệu tập Đại hội lục địa ở Philađenphia (1774), Oasinhtơn là một trongnhững đại biểu của Bang
Vơcginia và được cử làm Tổng chỉ huy quân đội lục địa (1776)
Oashingtơn có công lớn trong việc tổ chức quân đội cách mạng. Đội quân cách mạng có tinh thần yêu
nước, hy sinh chiến đấu, nhưng kỷ luật kém và thiếu thốn đủ mọi thứ, nhất là vũ khí. Oasinhtơn đã thực
hiện chiến thuật chiến đấu mới là phân tán lực lượng, bố trí lực lượng kín đáo trong rừng, thành từng toán
bắn tỉa để chống lại quân đội Anh theo đội hình dàn hàng ngang. Quân của Oasinhtơn đã liên kết với quân
Pháp do chính phủ Pháp gửi sang giúp đỡ cách mạng Bắc Mỹ chiến đấu chống quân đội Anh. Năm 1789,
Oasinhtơn được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hợp chúng quốc châu Mĩ và bốn năm sau (1792), ông
được bầu lại lần thứ hai. Ông mất năm 1799.
Oasinhtơn (1732-1799)
Louis XVI. 1754-1793.
Môngtexkiơ (1689-1755)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
14
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Môngtexkiơ (Charles de Secondat, nam tước De la Brêde et De Montesquieu) - nhà văn và đại biểu triết
học ánh sáng Pháp.
Môngtexkiơ xuất thân gia đình quý tộc áo dài ở địa phương, bản thân làm thẩm phán ở tòa án Boocđô.
Ông đã viết nhiều tác phẩm, một số tác phẩm chính là Những bức thư Ba Tư (1721), Tinh thần pháp luật
(1748) .v...v...

Môngtexkiơ phê phán nền quân chủ chuyên chế và tán thành chế độ quân chủ lập hiến. Trong cuốn sách
nhỏ Những bức thư Ba Tư, dưới hình thức những bức thư của hai người Ba Tư viếng thăm Pari viết cho
bạn bè, ông châm biếm những phong tục và thể chế của xã hội phong kiến Pháp thời "Vua mặt trời" Lui
XIV.
Trong cuốn Tinh thần pháp luật, Môngtexkiơ đã phân tích một cách hệ thống và chi tiết những hình thức
chính quyền, những điều kiện và nguyên tắc của chúng. Ông cho rằng một quốc gia muốn có quy củ, phải
có hiến pháp và phải xác định ba quyền riêng biệt và độc lập với nhau: quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp. Lý luận của Môngtexkiơ không nhằm lật đổ chế độ quân chủ hiện hành bằng cách
mạng, mà chỉ nhằm hạn chế quyền hành của nhà vua và mở rộng quyền hạn của giai cấp tư sản trong việc
tham gia vào công việc quản lý nhà nước. Học thuyết ba quyền phân lập của Môngtexkiơ đã có ảnh hưởng
đến các nhà cách mạng tư sản Pháp ở thế kỷ XVIII trong khi soạn thảo hiến pháp
Môngtexkiơ (1689-1755)
Ruxô (1712-1778)
Giăng - Giắc Ruxô (Jean - Jacques Rousseau) - nhà văn, nhà triết học gốc Thụy Sĩ, người phát ngôn của
nền dân chủ tiểu tư sản trong triết học ánh sáng Pháp.
Ruxô là con một người thợ đồng hồ Thụy Sĩ, sinh ở Giơnevơ. Thời niên thiếu ông đã sống cuộc đời cực
nhọc, phải tự kiếm sống bằng nhiều nghề và tự học để bồi dưỡng kiến thức. Tác phẩm nổi tiếng của Ruxô
là cuốn Khế ước xã hội. Theo Ruxô, thì xã hội và nhà nước sinh ra do sự thỏa thuận giữa các cá nhân, vì
lợi ích chung. Trong bản Khế ước xã hội đó, mỗi người chịu từ bỏ một phần chủ quyền của mình để giao
cho những đại biểu do mình bầu ra. Những người đại biểu này cai trị theo danh nghĩa của những người
bầu ra họ. Vì thế chủ quyền không thể thuộc về một cá nhân (vua chúa), mà là của nhân dân. Học thuyết
về chủ quyền của nhân dân đã là cơ sở cho chế độ cộng hòa dân chủ của những người tư hữu nhỏ. Ruxô
khẳng định chế độ tư hữu lớn gây ra sự bất bình đẳng xã hội và sự áp bức của người giàu đối với người
nghèo, người mạnh đối với người yếu, do đó cần phải hạn chế chế độ tư hữu lớn và bảo vệ những người
tư hữu nhỏ. Tư tưởng của Ruxô phản ánh tâm trạng của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và của quần
chúng nông dân muốn thủ tiêu chế độ phong kiến, nhưng lại sợ những tai họa của chủ nghĩa tư bản và mơ
ước ngây thơ rằng có thể tránh được những tai họa đó bằng cách hạn chế chế độ tư hữu lớn, duy trì chế độ
tư hữu nhỏ. Học thuyết của Ruxô có ảnh hưởng lớn trong cách mạng tư sản Pháp, nhất là đối với phái
Giacôbanh.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử

15
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Ruxô (1712-1778)
Vônte (1694-1778)
Vônte (Voltaire) - nhà sĩ, thi sĩ, kịch sĩ, sử gia, triết gia và đại biểu xuất sắc của triết học ánh sáng Pháp.
Vônte, tên chính là Phơrăngxoa Mari Aruê (Francois Maria Arouet), là con một viên chưởng khế ở Pari.
Hồi trẻ, Vônte học trường Đại học luật Pari, rồi làm việc ở tòa án. Nhưng sau vì thích hoạt động văn học
ông bỏ nghề luật chuyển sang nghề văn. Ông sáng tác nhiều thơ ca, truyện ngắn, sử thi, những khảo luận
lịch sử và triết học.
Năm 22 tuổi, vì sáng tác những bài thơ châm biếm có tính chất chống lại vị Nhiếp chính của triều đình,
ông bị tống giam vào ngục Baxti, sau bị trục xuất khỏi nước Pháp, sang sống ở nước Anh 4 năm. Khi trở
về Pháp, Vônte đã cho xuất bản tập Những bức thư triết học nổi tiếng (1734). Trong cuốn cách này, Vônte
đả kích sự chuyên quyền của giáo hội, chính sách ngu dân và những tục lệ phong kiến lạc hậu của nước
Pháp. Cuốn sách bị giáo hội thiêu hủy và tác giả phải trốn ra nước ngoài để khỏi bị đàn áp.
Về mặt chính trị, Vônte tuy chống lại sự độc đoán của chính quyền chuyên chế, nhưng lại không muốn lật
đổ chế độ quân chủ, xóa bỏ chế độ tư hữu, mà chủ trương thực hiện nền "chuyên chế sáng suốt", đặt hy
vọng vào những vị vua sáng suốt thấm nhuần triết học. Đối với nhân dân, một mặt ông bảo vệ tích cực
những người bị áp bức, những nạn nhân của sự chuyên quyền độc đoán, nhưng mặt khác ông lại kinh thị
nhân dân, không đồng ý bạo động. Ông đã kích kịch liệt giáo hội Thiên chúa giáo, đòi hỏi tự do tín
ngưỡng, nhưng ông lại cho rằng tôn giáo "vẫn có ích" đối với tầng lớp bình dân và tuyên bố: "Nếu không
có Thượng đế thì phải tạo ra Thượng Đế". Vônte đã có một vai trò to lớn trong việc truyền bá tư tưởng
ánh sáng và có ảnh hưởng cách mạng mạnh mẽ đối với những phần tử tư sản tiên tiến trong cuộc đấu
tranh chống chế độ phong kiến.
Rôbexpie (1758-1794)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
16
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Maximiliêng đơ Rôbexpie (Maximilien de Robespierre) - nhà cách mạng tư sản cánh tả trong Cách mạng
tư sản Pháp (1789-1794), người lãnh đạo chủ chốt của phái Giacôbanh, phái đã đưa cuộc cách mạng tư
sản Pháp lên đỉnh cao nhất.

Rôbexpie là luật sư ở Arat (miền Bắc nước Pháp), nổi tiếng về tinh thần cách mạng ngoan cường và đức
tính chính trực, liêm khiết (người ta gọi ông là "Người không thể mua chuộc").
Năm 1789, Rôbexpie được bầu vào Hội nghị ba đẳng cấp. Sau Hội nghị ba đẳng cấp chuyển thành Quốc
hội. Trong Quốc hội, Rôbexpie đứng đầu cánh tả hay còn gọi là phái Núi, đấu tranh kiên quyết chống lại
phái hữu để bảo vệ quyền lợi của bình dân và đòi đưa vua Lui XVI ra xét xử. Cuộc khởi nghĩa ngày 31-5
và 2-6-1973, do nhân dân Pari tiến hành đưa phái Giacôbanh, đứng đầu là Rôbexpie, lên nắm chính
quyền. Rôbexpie đã tiến hành nhiều chính sách cách mạng và thực hiện chính sách "khủng bố" để thúc
đẩy cách mạng tiến lên. Quân đội cách mạng, dưới sự lãnh đạo của phái Giacôbanh, đã liên tiếp đánh bại
và đẩy lùi quân đội can thiệp của các nước châu Âu ra ngoài biên giới. Nhưng rồi trong nội bộ phái
Giacôbanh có sự phân hóa: một bộ phận giàu có lên muốn ngừng cuộc cách mạng lại, còn bộ phận những
nghèo khổ (những người "không quấn chẽn") muốn thúc đẩy cách mạng tiến lên hơn nữa. Rôbexpie
không đáp ứng đầy đủ quyền lợi cho quần chúng "không quần chẽn", cho nên nhiệt tình cách mạng của họ
không được như trước nữa. Ngày 9 Técmiđo (tháng Nóng) năm II Cộng hòa (27/7/1794) bọn phản động
và thái hóa trong quốc hội đã tấn công và bắt giam Rôbexpie. Sáng ngày 10 Tecmiđo (28-7-1794),
Rôbexpie cùng các bạn chiến đấu của mình đã bị đưa lên máy chém không qua xét xử.
Rôbexpie (1758-1794)
GARIBANĐI (1807 - 1882)
Giuxeppo Garibanđi (Giuseppe Garibaldi) - người anh hùng dân tộc Italia, chỉ huy quân "áo đỏ" hay đội
quân "một nghìn" tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng đất nước Italia khỏi ách thống trị của đế quốc
áo và bọn phong kiến cát cứ Italia. Garibanđi xuất thân trong một gia đình thủy thủ gốc Giênôva, lập
nghiệp ở Nixơ. Ông làm thủy thủ từ nhỏ, sau trở thành thuyền trưởng, đi lại nhiều nơi. Năm 1833, ông
tham gia tổ chức "Italia trẻ" so Mađini lãnh đạo và năm 1834, tham dự một vụ đột kích xưởng đóng tàu ở
Giênôva, nhưng thất bại và bị kết án tử hình vắng mặt. Ông bỏ trốn sang Nam Mỹ, ở đó ông đã tham gia
cuộc khởi nghĩa của nhân dân Brazin và chiến đấu bảo vệ nước Cộng hòa Uruguay. Trong những trận
chiến đấu này, đội quân của ông mặc áo sơmi đỏ, nên được mệnh danh là đội quân "áo đỏ". Những chiến
thắng của đội quân "áo đỏ" đã vang dội về đất nước Italia.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
17
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Khi cuộc kháng chiến chống áo của nhân dân Italia nổ ra, ông trở về nước. Tháng 6-1848, ông cập bến

Nixơ và được đón tiếp như "người anh hùng của hai lục địa". Tháng 2-1849, nước Cộng hòa Rôma do
Mađini đứng đầu, được thành lập; Garibanđi nhận nhiệm vụ chỉ huy những chiến sĩ bảo vệ nước Cộng
hòa này. Quân đội Pháp sang giúp Giáo hoàng đàn áp cuộc khởi nghĩa, chiếm lại Rôma và tiêu diệt nước
Cộng hòa Rôma, Garibanđi phải lưu lạc nhiều nơi và cuối cùng dừng lại ở đảo Caprêra bên bờ Địa Trung
Hải, mua một thái ấp làm nơi trú ngụ. Năm 1859, chiến tranh nổ ra giữa áo và liên minh Pháp - Piêmôntê.
Garibanđi tổ chức và chỉ huy đội quân tình nguyện "xạ thủ núi Anpơ" chiến đấu bên cạnh quân đội
Piêmôntê, được thủ tướng Phiêmôntê Cavua phong làm trung tướng. Quân đội của Garibanđi đã giải
phóng một loại thành phố Lômbacđia. Năm 1860, cuộc khởi nghĩa của nhân dân đảo Xixilia nổ ra chống
chính quyền phong kiến tay sai đế quốc áo. Cavua khuyến khích Garibanđi đem quân xuống giúp nhân
dân Nam Italia. Đội quân tình nguyện "áo đỏ" hơn một nghìn người do Garibanđi chỉ huy (cho nên gọi là
đội quân "một nghìn" đổ bộ lên đảo Xixilia, giải phóng toàn đảo. Sau đó, đội quân "một nghìn" tăng lên
đến 16.000 người, đổ bộ lên miền Nam Italia tiến vào thủ đô Napôli, giải phóng toàn bộ miền Nam Italia
Cavua không muốn cho miền Nam Italia thành lập chính quyền dân chủ, cho nên đã đưa quân xuống miền
Nam Italia, ép Garibanđi đem Nam Italia sát nhập vào Piêmôntê. Tháng 1-1861, vương quốc Italia thống
nhất được thành lập, vua Piêmôntê được tôn lên làm vua Italia. Nhưng còn hai vùng lãnh thổ trên bán đảo
chưa được giải phóng là Vênêđia (thuộc áo) và Rôma (quân đội Pháp bảo hộ). Garibanđi không nhận một
chức vụ nào của triều đình mà quay trở về sống ở thái ấp của mình trên đảo Caprêra. Năm 1866 Garibanđi
tham dự cuộc chiến tranh của Italia liên minh với Phổ chống áo. Trong khi quân đội Italia thua cả trên bộ
và trên biển thì quân tình nguyện của Garibanđi đánh thắng áo nhiều trận ở vùng Tirôn. Cuộc chiến tranh
kết thúc áo phải trao trả Vênêdia cho Italia. Tháng 10-1867, Garibanđi lại hành quân vào Rôma, đánh bại
quân đội của Giáo hoàng. Nhưng quân viễn chinh Pháp kéo sang giúp Giáo hoàng, đánh bại Garibanđi.
Năm 1870, khi chiến tranh Pháp - Phổ nổ ra, Garibanđi kéo quân sang giúp nước Cộng hòa Pháp chống lại
quân đội Phổ. Sau khi Công xã Pari thất bại, ông lại trở về sống những ngày cuối của đời mình trên đảo
Caprêra.
GARIBANĐI (1807 - 1882)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
18
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
CAVUA (1810 - 1861)
Camilô Benxô đơ Cavua (Camillo Benso de Cavour bá tước)- Thủ tướng của vương quốc Piêmôntê,

người đóng vai trò chủ chốt trong việc thống nhất Italia.
Cavua xuất thân từ một gia đình quý tộc đại địa chủ, nhưng lại mang tư tưởng tự do tư sản, có đầu óc canh
tân. Năm 1852, ông được vua Piêmôntê vời ra làm thủ tướng. Vương quốc Piêmôtê là một trong bảy quốc
gia phong kiến trên bán đảo Italia và là quốc gia duy nhất thoát khỏi ách thống trị của đế quốc áo. Cavua
đã đẩy mạnh canh tân xứ Piêmôtê nhỏ bé và xúc tiến việc thống nhất quốc gia Italia "từ trên xuống".
Ngoài việc phát triển thực lực của mình, Cavua còn trông mong vào sự ủng hộ của Pháp. Năm 1859,
Piêmôntê đã cùng Pháp tiến hành cuộc chiến tranh chống áo trên đất Italia. Cuộc chiến tranh này đã mang
lại cho Piêmôntê xứ Lômbacđia. Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân và của phái dân chủ đã
thúc đẩy nhanh sự thống nhất nước Italia. Đạo quân "áo đỏ" hay đạo quân "một nghìn" do người anh hùng
dân tộc Garibandi chỉ huy, đã giải phóng miền Nam Italia. Vùng này sau được sát nhập vào Piêmôntê.
Tháng 3-1861, Quốc hội Italia đầu tiên họp ở Tôrinô (thủ đô của Piêmôntê), tuyên bố thành lập vương
quốc Italia thống nhất. Vua Piêmôntê Vichto- Emmanuen II được tôn làm vua Italia và Cavua làm thủ
tướng. Nhưng ba tháng sau Cavua mất. Công cuộc thống nhất Italia tuy chưa hoàn thành, nhưng Cavua đã
là người đóng góp phần cơ bản cho sự thống nhất của nước Italia.
CAVUA (1810 - 1861)
LINGÔN (1809 - 1865)
Abraham Lincôn (Abraham Lincoln) - Tổng thống thứ 16 của Hoa Kì, người đã lãnh đạo miền Bắc Hoa
Kỳ giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Li khai (1861 - 1865) và thủ tiêu chế độ nô lệ da đen ở Hoa Kì.
Abraham Lincôn sinh ra trong một gia đình chủ trại nghèo ở Kentơcki. Hồi trẻ, ông làm nhiều nghề để
sinh sống, tranh thủ thời gian học luật và trở thành luật sư. Năm 1848, Lincôn được bầu làm đại biểu
Quốc hội. Ông đã đọc nhiều bài diễn văn chống lại chế độ nô lệ da đen. Năm 1860, Đảng Cộng hòa đề cử
Lincôn ra tranh chức Tổng thống và ông đã thắng. Bọn chủ nô miền Nam đã nổi loạn để chống lại việc
bầu một người chủ trương xóa bỏ chế độ nô lệ lên làm Tổng thống. Cuộc hội chiến giữa các bang miền
Bắc và các bang miền Nam Hoa Kì nổ ra, mà lịch sử gọi là Cuộc chiến tranh li khai kéo dài 14 năm (1861
- 1865). Nhờ có những chính sách tiến bộ của Licôn như cấp đất ở miền Tây cho những người di cư, xóa
bỏ chế độ nô lệ da đen, nên quân đội miền Bắc đã đánh thắng quân đội miền Nam, hợp nhất hai miền.
Ngày 14-4-1865, trong một buổi dạ hội long trọng tại thủ đô Oasinhtơn, Lincôn bị ám sát do một diễn
viên kịch được bọn chủ nô miền Nam thuê. Abraham Lincôn được đánh giá là một trong những Tổng
thống vĩ đại của Hoa Kì.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử

19
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
LINGÔN (1809 - 1865)
Niutơn (1643-1727)
Ixăc Niutơn (Isaac Newton) - nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra
vật lý học cổ điển"
Niutơn xuất thân gia đình quý tộc nông thôn. Cha của Niutơn mất trước khi ông ra đời. Lúc mới sinh
Niutơn ốm yếu, quặt quẹo. Bà mẹ quan tâm chăm sóc sức khỏe? cho Niutơn nhiều hơn đường học vấn.
Năm 12 tuổi, bà mới cho con trai đi học. Vì sức yếu, cậu thường bị các bạn bắt nạt. Cậu bèn nghỉ ra cách
trả thù thú vị, là quyết tâm học thật giỏi để đứng đầu lớp. Năm 17 tuổi, Niutơn vào học ở trường Đại học
tổng hợp Kembritgiơ. Thời gian còn là sinh viên, Niutơn đã tìm ra nhị thức trong toán học giải tích, được
gọi là "nhị thức Niutơn". Năm 27 tuổi, ông được cử làm giáo sư toán ở trường Đại học nơi ông học; năm
30 tuổi, ông được bầu làm hội viên Hội khoa học hoàng gia Anh (Viện hàn lâm) và 23 năm cuối đời, ông
làm chủ tịch Hội khoa học hoàng gia Anh. Ông còn là hội viên danh dự của nhiều Hội khoa học và viện sĩ
của nhiều Viện hàn lâm.
Niutơn là người phát minh những định luật trong lĩnh vực vật lý và toán học. Cống hiến lớn khiến tên tuổi
ông trở thành bất tử là "nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý
học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ. Một lần, Niutơn trông thấy quả táo rụng từ trên cây xuống,
ông liền nghĩ đến những nguyên nhân về sự rơi của các vật và tìm ra sức hút của quả đất.
Những phát kiến về thiên văn học của Niutơn dựa vào định luật vạn vật hấp dẫn đã giáng đòn chí mạng
vào uy tín của giáo hội. Bọn bảo vệ tôn giáo đã phản ứng lại một cách quyết liệt đầy căm phẫn trước
những phát minh về thiên văn học của Niutơn. Do ảnh hưởng của giáo hội, nhiều trường đại học ở châu
Âu đến tận thế kỷ XIX vẫn cấm dạy môn cơ học, những vấn đề có liên quan đến định luật vạn vật hấp dẫn
của Niutơn. Niutơn sống cuộc đời độc thân và hết sức đãng trí. Tính đãng trí của ông đã trở thành những
giai đoạn như chuyện mời cơm khách, chuyện luộc đồng hồ, chuyện đục hai lỗ cho chó và mèo ... Niutơn
mất năm 84 tuổi. Ông được mai táng ở Đài kỷ niệm quốc gia Anh trong tu viện Oetminxtơ - nơi an nghỉ
của các vua chúa và các bậc vĩ nhân của nước Anh.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
20
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11

Niutơn (1643-1727)
LƠMANÔXÔP (1711 - 1765)
Mikhaiin Vatxliêvitsơ Lơmanôxôp (Mikhail Vassilievitch Lomonossov) - nhà bác học và nhà văn hóa lớn
của nước Nga.
Lơmanôxôp sinh ra trong gia đình đánh cá tại một làng ven biển Bạch Hải, thuộc tỉnh Ackhanghenxcơ
nước Nga. Năm 1730, chàng thanh niên nông thôn ấy đã bỏ nhà trốn lên Matxcơva và theo học ở trường
Cao đẳng. Ông đã trở thành một nhà khoa học và nhà văn hóa lớn. Ông còn có nhiều phát minh quan trọng
đi đầu trong nền khoa học thế giới. Ông được bầu làm viện sĩ của nhiều Viện hàn lâm khoa học ở Nga,
Italia, Đức... Hoạt động khoa học của Lơmanôxôp bao quát nhiều lĩnh vực. Về vật lí, ông đã tìm ra thuyết
nguyên tử, định luật bảo toàn năng lượng, lí thuyết về điện, v.v... Về hóa học, ông cũng là người đầu tiên
đề xướng ra định luật bảo toàn vật chất, sáng chế nhiều dụng cụ dùng trong thí nghiệm hóa học. Ông là
người đầu tiên ở châu Âu đã viết một giáo trình về hóa lí học. Ông còn có nhiều đóng góp quan trọng về
thiên văn, khí tượng và nhiều ngành khoa học, kĩ thuật khác. Lơmanôxôp
còn đề cập đến cả triết học, kinh tế học, sử học, văn học... với nhiều ý kiến sáng tạo. Trong việc xuất bản
cuốn Văn phạm Nga đầu tiên (1757), ông đã trở thành một nhà cải cách thơ ca và ngôn ngữ văn chương.
Ông cũng là một nhà thơ có tài, ông đã làm nhiều bài thơ bài ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi khoa học và
những khả năng thần kì của con người. Lơmanôxôp là người sáng lập trường Đại học Tổng hợp Matxcơva
mang tên ông.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
21
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
ĐACUYN (1809 - 1882)
Saclơ Đacuyn (Charles Darwin) - nhà tự nhiên học và sinh vật học người Anh.
Đacuyn là con một gia đình trí thức. Ngay từ bé, Đacuyn đã ham mê đùa nghịch ngoài đồng nội, thích đi
lang thang trong rừng để nhặt nhạnh những mẫu đá, cây cỏ, sưu tập những loài sâu bọ... Gia đình cho ông
đi học ngành y. Nhưng được hai năm, thấy "không có khả năng" với nghề y, gia đình lại chuyển ông sang
học khoa triết để hi vọng trở thành giáo sĩ. Sau kỳ thi tốt nghiệp khoa triết vào loại trung bình, người ta
chuẩn bị cho ông bộ áo dài đen của một thầy tu trẻ, thì một việc xảy ra làm đảo lộn hết thảy.
Một đoàn khảo sát vùng Đất Lửa (Nam Mỹ) trên con tàu Bigơn đang chuẩn bị tiến hành. Đacuyn lúc đó
22 tuổi tìm mọi cách để được tham gia cuộc khảo sát. Suốt năm năm trời (1931 - 1836), ông đã cùng con

tàu Bigơn đi dọc theo bờ biển châu Mỹ, châu úc. Ông đã quan sát thiên nhiên, sưu tầm các động thực vật,
tìm hiểu phong tục thổ dân... Ông viết nhật ký và thư từ trao đổi với bạn bè và gia đình về những kết quả
sưu tập và những nhận xét khoa học. Trong lúc con tàu Bigơn còn đang lênh đênh trên Thái Bình Dương,
thì một người bạn của ông đã thông báo về những công trình sơ thảo của ông cho các hội viên của Hội
khoa học Hoàng gia Anh. Cho nên khi ông trở về nước, ông đã được đón tiếp như một nhà bác học lớn.
Nhưng Đacuyn còn nhiều việc phải làm, phân loại mẫu sưu tập, chỉnh lý những tài liệu ghi chép, thực hiện
thí nghiệm... mới hoàn chỉnh được học thuyết về tiến hóa đang thai nghén. Đacuyn đã dành suốt 20 năm
để hoàn thành công trình nghiên cứu. Cuốn Nguồn gốc các giống loài theo con đường đào thải tự nhiên
của ông xuất bản năm 1859 như một tiếng sấm làm rung chuyển màn mây mù tăm tối. Bằng những lập
luận chặt chẻ trên cơ sở tư liệu phong phú, Đacuyn đã giải thích sự hình thành các loài sinh vật bằng quá
trình tiến hóa chọn lọc, chứ không phải bằng "bàn tay Thượng đế". Học thuyết của ông đã lật đổ quan
niệm cũ về tính cố định và bất biến của tự nhiên. Giáo hội Thiên chúa giáo và một số nhà bác học thủ cựu,
đả kích kịch liệt học thuyết "phản chúa" của Đacuyn. Nhưng
những công trình lý thuyết của Đacuyn và
của các nhà khoa học khác, cùng những công trình thực nghiệm ở nhiề nước đã tạo thêm sức thuyết phục
cho học thuyết tiến hóa và đã làm cho học thuyết Đacuyn chiến thắng. Cuộc chiến đấu cho chân lý đã làm
cho sức khỏe của ông giảm sút. Tuy nhiên, ông vẫn bắt tay vào soạn thảo những công trình kế tiếp để bổ
sung hoàn chỉnh cho những lập luận về tiến hóa. Cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, khi đã 73
tuổi, ông vẫn không rời căn phòng làm việc. Ông mất ngày 19-7-1882.
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
22
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
Xanh - Ximông (1760-1825)
Hăngriđơ Xanh - Ximông (Claude Henri Derouvroy) - bá tước De Saint - Simon - nhà triết học, kinh tế
học Pháp, người đề xướng chủ nghĩa xã hội không tưởng đầu tiên.
Bá tước Hăngriđơ Xanh - Ximông xuất thân trong một gia đình quý tộc, có học vấn uyên bác và tư tưởng
tiến bộ. Ngay từ thời thiếu, Xanh - Ximông đã ước mơ thực hiện những sự nghiệp lớn lao. Năm 15 tuổi,
Hăngri nói với cha là không muốn theo các nghi lễ của giáo hội vì không tin vào tôn giáo. Cha tức giận,
bắt ông bỏ ngục. Ông đã vượt ngục, trốn sang Mỹ. Năm 19 tuổi, ông tham gia đạo quân Pháp được phái
sang Mỹ, giúp nhân dân Mỹ chống thực dân Anh giành độc lập, đã lập được nhiều chiến công. Khi chiến

tranh kết thúc, Xanh - Ximông mới 23 tuổi, trở về Pháp, được phong hàm đại tá và được cử chỉ huy pháo
đài lớn Mêdơ ở biên giới phía đông nước Pháp. Nhưng ông đã bỏ nghề quân sự, đi du lịch khắp châu Âu.
Khi cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 nổ ra, ông trở về nước. Lúc đầu, ông có cảm tình với cách mạng,
nhưng đến thời kỳ "khủng bố" thì tỏ ra thất vọng. Ông có xu hướng xây dựng xã hội mới bằng tri thức
khoa học, nên mặc dù đã có 40 tuổi, ông vẫn xin vào học trường Đại học Bách Khoa và say sưa với công
tác nghiên cứu khoa học. Ông viết sách tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Xanh - Ximông công kích kịch liệt chế độ tư bản và kêu gọi cải cách xã hội theo chủ nghĩa xã hội, bảo
đảm cho tất cả mọi giai cấp được thỏa mãn nhu? cầu sinh sống và văn hóa. Ông quan tâm đến số phận của
giai cấp vô sản, nhưng không nhận thức được vai trò và sứ mệnh lịch sử của nó. Ông phủ nhận đấu tranh
giai cấp. Ông chủ trương trong xã hội của nghĩa tương lai, những nhà bác học và những người làm công
nghiệp (bao gồm chủ xưởng, thương nhân, nhà ngân hàng và cả công nhân) giữ vai trò lãnh đạo. Ông cho
rằng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền đại công nghiệp được tổ chức trên những nguyên tắc kế
hoạch hóa, có khả năng bảo đảm sự thỏa mãn nhu cầu cho xã hội. Ông đề ra nguyên tắc "mọi người đều
phải lao động" theo khả năng của mình để cung cấp của cải cho xã hội. Chủ nghĩa xã hội của Xanh -
Ximông là chủ nghĩa xã hội không tưởng vì ông cho rằng nhà tư tưởng đề ra ý hay sẽ được thiên hạ theo
mà xây dựng nên một xã hội tốt đẹp. Nhưng thực tế đã làm ông thất vọng. Vào cuối đời mình, Xanh -
Ximông nghèo túng, viết thư cho những người cầm quyền, những nhà tư sản, để thuyết phục họ thực hiện
học thuyết xã hội của ông. Nhưng những người giàu có không ai ủng hộ học thuyết của nông, cũng không
một ai giúp đỡ ông. Tuy nhiên, tư tưởng về tính chất xã hội có kế hoạch, có tổ chức trong sản xuất của
ông làm cơ sở cho chế độ xã hội tương lai là một cống hiến lớn lao cho lý thuyết của chủ nghĩa xã hội sau
này.
Ricacđô (1772-1823)
Đêvit Ricacđô (David Racardo) - nhà kinh tế học Anh, đại biểu xuất sắc của khoa kinh tế chính trị học cổ
điển tư sản.
Ricacđê sinh trưởng trong một gia đình tư sản giàu có, gốc Do Thái, ở Luân Đôn (Anh). Ông làm việc ở
sở giao dịch và sớm trở thành nhà triệu phú.
Năm 1809, ông phát biểu luận văn về tiền tề và trở thành một trong những nhà lý luận đầu tiên của môn
kinh tế chính trị học cổ điển Anh. Tác phẩm chủ yếu khiến ông được nổi tiếng là cuốn Những điều? cơ
bản trong kinh tế chính trị học và trong vấn đề thuế xuất bản năm 1817. Ricacđô góp phần phát triển
những tư tưởng xã hội chủ nghĩa, trong khi cố gắng giải thích những đòi hỏi của giai cấp công nhân bằng

học thuyết lao động về giá trị. Ông cũng là người đã xây dựng nên luật về địa tô. Ông tuyên truyền cho sự
tự do mâu dịch và không hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, Ricacđô cho rằng kinh tế hàng hóa và chủ nghĩa
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
23
Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
tư bản là hình thức tự nhiên và tồn tại vĩnh viễn, đó là mặt hạn chế mang tính chất tư sản trong học thuyết
của ông. Ricacđô còn hoạt động chính trị. Năm 1817, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội Anh. Ông đã
đưa ra nhiều chủ trương về tự do mậu dịch, hủy bỏ luật ngũ cốc, nhằm thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa Anh.
BANDĂC (1799 - 1850)
Ônôrê đơ Bandăc (Honoré de Balzac) - nhà văn hiện thực lớn của nước Pháp.
Bandăc vốn không phải dòng dõi quý tộc, mà xuất thân trong một gia đình bình dân (cha là nông dân, mẹ
là con nhà buôn), nhưng vì có cảm hình với tầng lớp quý tộc, nên tự nhận mình là quý tộc (chữ "đờ" để
chỉ dòng dõi quý tộc) Bandăc sinh ra và lớn lên tại thành phố Tua, miền Tây nước Pháp. Sau khi tốt
nghiệp đại học luật khoa (1820), ông làm thông sự ở tòa án. Sau thấy mình có thiên hướng viết văn, ông
chuyển sang viết văn. Vì muốn giàu nhanh chóng, ông viết vội vàng để in cho được nhiều cuốn truyện.
Nhưng thấy tiền kiếm chẳng được bao nhiêu, ông lại xoay sang nghề xuất bản. Kết quả ông bị phá sản và
mắc nợ rất nhiều. Ông trở lại nghề viết văn. Ông làm việc hết sức cần cù, trung bình mỗi ngày từ 14 đến
16 tiếng đồng hồ. Ông viết đi viết lại, sửa chữa nhiều lần những trang bản thảo của mình. Ông cũng dành
nhiều công sức nghiên cứu, quan sát cuộc sống và đọc sách tham khảo. Trong hơn 20 năm cặm cụi (kể từ
tác phẩm đầu ta ra đời năm 1829), ông đã viết tới 96 cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn, tập hợp thành một
bộ mang tên là Tấn trò đời. Tấn trò đời của Bandăc là một bức tranh miêu tả trung thực sinh động xã hội
Pháp ở nửa đầu thế kỷ XIX. Bandăc đã lột trần những thủ đoạn làm giàu của giai cấp tư sản. Đối lập với
giai cấp tư sản giàu có, trong các tác phẩm của Bandăc cũng hiện lên hình ảnh đáng thương của những
người bình dân chỉ mong muốn một cuộc sống yên ổn mà không được. Những tác phẩm nổi tiếng của ông
là: Tấm da sầu não, Ơgiêni Grăngđê, Lão Gôriô, Vỡ Mộng, Trời không có mắt (hay Cậu em họ Pông)
v.v...
BANDĂC (1799 - 1850)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
24

Trường THPT Đoàn Kết. Những nhân vật lịch sử 10&11
GUÊTHƠ (1749 - 1832)
Iôhan Vôngang phôn Guêthơ (Johann Wolfgang von Goeth) - nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, chính khách và bác
học Đức.
Guêthơ sinh ra trong một gia đình giàu có ở thành phố Phranphuôc bên sông Mainơ. Lúc nhỏ, Iôhan được
bố và các gia sư dạy chữ và nhiều ngoại ngữ. Năm 16 tuổi, Iôhan học khoa Luật tại trường Đại học
Laixich, sau chuyển sang trường Đại học Xtơraxbua. ở đây, Guêthơ đã tham gia vào nhóm văn học Bão
táp và Xung kích, một phong trào văn hóa chống lại chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa cổ điển. Năm 1771,
ông tốt nghiệp đại học Luật và làm luật sư ở Phranphuốc. Ông bắt đầu sáng tác và trở thành nhà văn nổi
tiếng.
Khi đó "mốt" bảo hộ các tài năng và dùng những người nổi tiếng để tô điểm cho triều đình đang thịnh
hành, ông được công tước trẻ tuổi xứ Dăcden - Vâyma là Calơ Aogutxơ mời sang Vâyma (1776). Ông
được cử giữ chức cố vấn cơ mật, chủ tịch phòng tài chính và được phong tước quý tộc. Tuy ông được hậu
đãi và làm được một số điều hữu ích cho công quốc Vâyma, nhưng "trong chiếc lồng vàng Vâyma khó cất
lời ca", cho nên ông đã bỏ sang Italia, tìm cảm hứng và sáng tác. Đồng thời ông cũng tiến hành nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu về khoáng học và hình thái học. Năm 1792 - 1793, ông tham gia cuộc hành
quân trong các đội quân phong kiến châu Âu chống lại cách mạng Pháp. Tuy có tư tưởng chống lại cách
mạng bạo lực, nhưng ông cũng thấy sự cần thiết phải làm cách mạng để xóa bỏ chế độ phong kiến thối
nát.
Guêthơ đã viết nhiều cuốn tiểu thuyết, nhiều vở kịch, nhiều tập thơ, trong đó nổi tiếng nhất là vở kịch thơ
Phaoxtơ (Faust - phần I xuất bản năm 1806, phần II hoàn thành trước khi tác giả mất năm 1832). Trong
tác phẩm Phaoxtơ, Guêthơ đã gợi lên lòng khao khát hạnh phúc của con người, sự nỗ lực vươn lên không
ngừng nhằm chinh phục thiên nhiên, ông cũng đề cao tự do, cuộc đấu tranh cho tự do và sự cao cả của lao
động sáng tạo. Guêthơ mất năm 83 tuổi.
GUÊTHƠ (1749 - 1832)
GV Biên soạn: Phương Quốc Oai – Tổ Lịch Sử
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×