A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng , không xây dựng và phát triển nền
dân chủ nhà nước xã hội chủ nghĩa thì không thể thực hiện quyền lực, quyền dân
chủ, quyền làm chủ và mọi lợi ích của nhân dân lao động trên thực tế các lĩnh vực
của đời sống xã hội trong tiến trình cách mạng xã hộ chủ nghĩa ở Việt Nam .
Thực ra từ trước đến nay ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên cứu
có hệ thống về nền xã hội chủ nghĩa cả mà thường chỉ mới bàn về dân chủ, quyền
làm chủ, bản chất và mục tiêu của chế độ, nhưng về thể chế nhân dân, cơ chế dân
chủ cho từng mặt hay toàn bộ nền dân chủ là chưa đủ mức . Chúng ta lại thường
nói phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa nhưng thế nào là nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa thì cũng phải bàn.
Trong bài tiểu luận này sẽ trình bày về vấn đề Thực trạng xây dựng nền dân
chủ trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.Chúng ta sẽ
đi luận từng vấn đề nhỏ, từng khía cạnh để hiểu rõ những bản chất, đặc điểm,
chức năng nhiệm vụ… của những vấn đề nêu trên. Vấn đề đầu tiên cần nghiên cứu
là lý luận chung về dân chủ theo quan điểm chủ nghĩa Mác Leenin.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích những nội dung cơ bản theo chủ nghĩa Mác leenin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về quá trình xây dựng , đổi mới cách thức quản lý nhà nước lên chủ nghĩa
xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về nền dân chủ trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ; Làm rõ quá trình phát
triển nhận thức của Đảng về quá trình quản lý và đổi mới lên nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa sau gần 30 năm.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
1
chủ nghĩa Mác Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng của
nền dân chủ và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo tư tưởng của Bác
trong việc đổi mới tiền để cho việc CNH HĐH, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
3. Ý nghĩa của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác Leenin và một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ thống,
lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh; quy nạp và diễn dịch,
v.v...
2
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ THEO QUAN ĐIỂM
CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN
1.1. khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa
Quan điểm của đảng ta về dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện xuyên suốt
trong tất cả các nội dung trong văn kiện Đại hội XI ,là hệ thống quan điểm hoàn
chỉnh và toàn diện về những vấn đề cơ bản của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Đảng a không những chỉ rõ bản chất tốt đẹp, tính chất ưu việt mà còn
khẳng định tầm quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước; chỉ ra nhưng nguyên tác, yêu cầu,
biện pháp cơ bản xây dựng , những lực cản chủ yếu của việc xây dựng và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới và giải pháp khắc phục.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ được xác lập ở các nước đã
hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ và bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nề dân chủ khác hẳn về bản chất và đối lập về
nguyên tắt với dân chủ tư sản . Điều đó thể hiện trên những vấn đề chính yếu sau:
thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giành được chính quyền và ngày
càng phát huy trong quá trình xây dựng xã hội mới; thứ hai, dân chủ xã hội chủ
nghĩa là nền dân chủ do Đảng cộng sản lãnh đạo; thứ ba, dân chủ xã hội chủ nghĩa
là dân chủ của đa số và người lao động , vì đa số và người lao động không phải của
thiểu số bóc lột , đặc quyền, đặc lợi;thứ tư, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân
chủ, mà ở đó nhân dân lao động làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội được phát luật bảo đảm; thứ năm, dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện
bằng hệ thống tổ chức thể hiện quyền lực chính trịxã hội của nhân dân, tập trung
và thong qua nhà nước; thứ sáu, không ngừng mở rộng dân chủ gắn với tang cường
kỷ cương , pháp luật của quy luật cơ bản của sự phát triển dân củ xã hội chủ nghĩa
. Đó là bản chất tốt đẹp của xã hội chủ nghĩa . Đó là chế độ dân chủ “ gấp triệu
lần” hơn bất cứ chế độ dân chủ nào trong lịch sử như V.L Leenin từng khẳng định
3
Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân
không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của
xã hội mà cơ bản nhất là dân chủ về kinh tế. Trên lĩnh vực chính trị xã hội, quyền
tham gia quản lí nhà nước của nhân dân và các đoàn thể quần chúng ngày càng được
mở rộng về phạm vi, về độ sâu và phong phú đa dạng về các hình thức. Mục tiêu
của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ tệ nạn người bóc lột người và tạo ra
ngày càng nhiều điều kiện để thực hiện triệt để công bằng xã hội, công lí cho mọi
người, bình đẳng thực sự giữa nam và nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho mọi
công dân mưu sinh và mưu cầu hạnh phúc . Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ của xã hội loài người tiến bộ trong tương lai.
1.2. Đặt trưng dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tập hợp các thiết chế nhà nước , xã hội
được xác lập, vận hành và từng bước hoàng thiện nhằm đảm bảo thực hiện trê
thực tế , ngày càng đầy đủ các quyền lực chính trị của giai cấp công nhân , của giai
cấp và các tầng lớp nhân dân khác và của toàn xã hội.
Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ của xã hội chủ nghĩa :
Thứ nhất , nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang tính lịch sử.
Mọi nền dân chủ điều mang tính lịch sử , bởi nó ra đời trong những điều
kiện và tiền đề chính trị xác định , tồn tại biến đổi trong mối quan hệ biện chứng
với những cơ sở kinh tế xã hội, chính trị xã hội xá định . Trong đó, những lợi ích
chính trị cơ bản của giai cấp công nhân giữ vai trò chi phối , quyết định đến bản
chất , các hình thái và phương thức thực thi quyền lực chính trị chủ yếu của nền
dân chủ .Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu
tranh về tay giai cấp nhân dân , xác lập bộ máy nhà nước của nhân dân do đảng
cộng sản lạnh đạo.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tất yếu trải qua các giai đoạn cơ bản như sau:
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, các điều kiện tiền đề của chủ nghĩa cộng
sản đực từng bước sát lập và củng cố, theo đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng
từng bước tự phủ định mình , từng bước tự tiêu vong.
4
Thứ hai , nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản chất giai
cấp của giai cấp công nhân , đồng thời là nền dân chủ đại chúng, dân chủ cho đại
đa số.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản chất giai cấp công
nhân , là nền dân chủ đại chúng , cho đại đa số nhân dân lao động.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây
dựng chủ nghĩa cộng sản, được xây dụng trên cơ sở phát huy, thể hiện ngày càng
đầy đủ, trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân mà nồng cốt là liên minh của giai
cấp công nhân với quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Cùng với quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình xây dựng nề dân chủ , khối liên minh này
ngày càng đông đảo, ngày càng trở thành nề tảng của giai cấp công nhân. Đó chính
là động lực xã hội cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa và là chủ thể của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ có tính chất dân tộc,
đồng thời lại mang tính nhân loại.
Nền dân chủ có tính dân tộc bởi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây
dựng trước hết trong lòng từng quốc gia dân tộc, trên cơ sở văn hóa xã hội chủ
nghĩa với nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .
Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây
dựng trên các lập trường , nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Leenin, hệ thống
lý luận cách mạng khoa học , phản ánh một cách đúng đắn, chính xác vai trò sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Thứ tư, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cuối cùng trong lịch
sử là nền dân chủ tự tiêu vong.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sản phẩm tất yếu của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ấy thống nhất về lợi ích chính trị của giai cấp
công nhân với lợi ích chính trị của nhân dân lao động, với dân tộc và toàn xã hội.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân tha gia vào quản lý nhà nước
ngày càng nhiều và càng có hiệu quả.
5
1.3. Tính tất yêu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa mácleenin thì động lực của quá trình
phát triển xã hội ,của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Dân chủ phải
được mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân , để nhân dân
tham gia vào công việc quản lí nhà nước, quản lí và phát triển xã hội “ với việc phát
triển dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân
tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi việc quả lí nhà nước”.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và thực
hành dân chủ , là quá trình vận động biến dân chủ thành hiện thực trong lĩnh vực
đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào
thực tiễn xây dựng cuộc sống mới. xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá
trình tất yếu diễn ra nhằm xây dựng ,phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu
cầu của nhân dân. trước hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực,
quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện cần thiết, tất yếu để mọi công dân được
sống trong bầu không khí thực sự dân chủ.xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
chính là thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân thông qua Đảng cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những
biểu hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường
kỹ cương, pháp luật.
Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến dân chủ từ khả
năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ “ ngày càng tiến tới cơ sở hiện thực của
nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của
bản thân nhân dân”.
6
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Qúa trình xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam
Nội dung chủ yếu của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực trong sự nghiệp
cách mạng xây dựng, phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.1.1. Nội dung chủ yếu của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất chế độ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ lâu dài
và trọng yếu, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn vây, vấn đề
trung tâm là phải xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực
hiện tư bản. Chủ nghĩa xã hội cũng cần thực hiện nhà nước pháp quyền. Trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam, quyền lực nhà nước là thống nhất,
nhưng có sự phân công rành mạnh và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền
lực nhà nước trong việc thực hiện ban quyền lập pháp , hành pháp, tư pháp.
Sau gần 25 năm đổi mới, về cơ bản nước ta đã chuyển đổi thành từ mô
hình kinh tế quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và tiến từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa . Hiện nay đang
từng bước phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
để tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và xây dưng phát triển nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa hướng tới tương lai tốt đẹp.
2.1.2. dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực trong sự nghiệp
cách mạng xây dựng phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta để tiến lên
chủ nghĩa xã hội
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta , vừa là mục tiêu , vừa là
động lực của sự phát triển đất nước, xây dựng và tưng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cách
mạng Việt Nam từ khi đảng lãnh đạo, bất kì ở gai đoạn lịch sử nào, dân chủ cũng
vừa là mục tiêu vừa là động lực cho cách mạng. Nước ta đi theo con đường chủ
nghĩa cần xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì đây là một mục tiêu
7
quan trọng của cách mạng . Không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa xã hội mà không thực hiện quyền dân chủ rộng rải trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống với quảng đại quần chúng thì chỉ là chủ nghĩa xã hội hình thức.
công cuộc đổi mới đất nước , Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắt
cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát huy
quyền làm chủ tập thể chủ của nhân dân thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội không ngừng tiến lên. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kì quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội do đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 đã
ghi “ dân chủ xã hội chủ nghĩa là đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân”.
Hiến pháp năm 1992 cũng đã khẳng định, tất ả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân và phải được thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ.
Dân chủ gắng liền với kĩ luật, kĩ cương và công bằng xã hội, đòi hỏi phải thực
hiện trong thực tế đời sống trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trải qua gần
25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991 , nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng và được thế giới thừa nhận.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội , thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước , mở rộng hội nhập quốc tế , phát triển bền vững, thực hiện thành công mục
tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của Đảng đề ra , chúng ta
phải coi trọng phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì nó là một mục tiêu cơ bản
của quá rình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến lượt nó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
được phát triển và hoàn thiện lại trở thành động lực mạnh mẻ thúc đẩy xã hội
không ngừng phát triển . Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là chỗ chưa chín muồi đế chín
muồi , từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển
. Qúa trình này cần có thời gian và môi trường ổn định , đặc biệt là ổn định chính
trị , nếu không có sự ổn định thì sẽ không làm được việc gì. Muốn duy trì ổn định
xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy đó làm động lực
thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội.
2.2. Thực trạng xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng có nội dung toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
8
Trên lĩnh vực chính trị:
Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị là
đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vì nô lệ ,làm thuê, bị áp bức bóc lột trở
thành người làm chủ nhà nước , làm chủ xã hội. Muốn thực hiện được nội dung đó,
giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản phải dùng bạo lực đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, như C.Mác
ph.Ănghen nói: “ Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền,
phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”.
Bước tiếp theo là giai cấp công nhân phải xây dựng một nền dân chủ rộng
rải cho nhân dân, đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ
về chính trị, tham gia vào cộng cuộc quản lý xã hội, quản lý nhà nước, làm cho nhà
nước thật sự là của dân , do dân và vì dân.
Trên lĩnh vực kinh tế:
Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động mới chỉ là nhiệm vụ quan trọng bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa
quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là phát triển kinh
tế; nâng cao chủ nghĩa là cuộc cách mạng về kinh tế. Trong điều lệ quốc tế I ,
C.Mác viết: “ Bất cứ cuộc cách mạng chính trị nào cũng chỉ là thủ đoạn để giải
phóng giai cấp công nhân vè mặt kinh tế “. Trong hệ tư tưởng Đức, Ông nói: Xây
dựng chủ nghĩa cộng sản về thực chất là xây dựng về kinh tế. Chỉ có giải phóng về
kinh tế là cơ sở giải phóng giai cấp công nhân về mặt tinh thần, làm chủ dược kinh
tế mới làm chủ được mặt tinh thần.
Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi căn bản trong phương thức
và nội dung sinh hoạt tinh thần của xã hội theo hướng tiến bộ. Trên cơ sở kế thừa
và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc , thực hiện việc tiếp thu
các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại để thực hiện việc giải phóng những người
lao động về mặt tinh thần qua việc xây dựng từng bước thế giới quan cộng sản,
xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Vì vậy, trong tuyên ngôn của
Đảng cộng sản, C.Mác Ănghen đã chỉ rõ: “ cách mạng cộng sản chủ nghĩ là sự
9
đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có
gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt
một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ”.
Các nội dung trên diễn tả ra đồng thời và có quan hệ mật thiết, tác động ,
thức đẩy lẫn nhau đưa đến sự thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.2.1. Lịch sử phát triển
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thứ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
việt nam đã đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm,
chiến lượt gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này còn nhiều hạn chế. Đảng ta chưa nhận
thức hết được tính phức tạp, khó khăn và lâu dài của thời kỳ quá độ ; chưa xác định
nội dung “ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa “, thậm chí đối lập chủ nghĩa tư bản
với chủ nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu phủ định sạch trơn ; tư duy giáo
điều, đơn giản về chủ nghĩa tư bản , đồng nhất bản chất bóc lột, áp bức , nô dịch
loài người của chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với toàn bộ
những tiến bộ, văn minh của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn
đên công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế
xã hội . Việc giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chủ trương “ lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển” là quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan. Nhất là thời kì sau khi thống nhất đất nước , do duy trì
quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm triệt tiêu nhiều động lực phát triển
đất nước.
Trong phương hướng phát triển đất nước , xây dựng chủ nghĩa xã hội đã
không chú ý đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thỏa đáng mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân tập thể xã hội.
Nhiều quy luật, đặt biệt là các quy luật về kinh tế trong thời kỳ quá độ đã
bị nhận thức sai lệch hoặc quá máy móc, giáo điều. Việc tồn tại hai hình thức sở
hữu, hai thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã làm triệt tiêu
10
các nguồn lực cần thiết , vốn có trong các thành phần kinh tế tất yếu phải tồn tại
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa,
con người mới xã hội chủ nghĩa còn có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ quan, duy ý
chí,... Các phương hướng , giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chung
chung, trừu tượng. Vì vậy, trên thực tế chỉ tồn tại ở hình thức, không có nội dung,
thực chất . Một số vấn đề về xã hội như bình đẳng xã hội, công bằng xã hội giữa
các tộc người, giữa miền núi với miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị… đều có
những nhận thức chưa đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết thực của các chính sách xã hội
còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên , bước vào thời kỳ đổi mới, qua các
thời kỳ đại hội, nhận thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Những điểm mới trong nhận thức vê chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên
những nét căn bản sau:
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ đi lên chủ nghĩa quá độ. Tiến trình
đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi mói tư duy
về xã hội va thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, về các phương hướng quá đội lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề
dặt ra cần phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước. Đại hội XII của
Đảng làm rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ “con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử. Điểm mới của đại hội XII về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam được thể hiện tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hai là, xác định rõ phương châm “ lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mục tiêu
cao nhất”
11
Ba là, xác định ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông
qua việc xác định lộ trình công nghiệp hóa và mô hình phát triển kinh tế nhằm
hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam.
Bốn là, gắn kết chặc chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa
phát triển kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Năm là, về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng khẳng định việc
thực hiện thành công mục tiêu chủ nghĩa xã hội hơn bao giờ hết, đòi hỏi nhân tố
nội lực, vai trò chủ quan mang tính quyết định. Để làm được điều rất cần tạo dựng
mối quan hệ gắn bó khắng khít , bền chặt giữa Đảng với nhân dân.
Tóm lại, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt
Nam. Để thực hiện thành công con đường này, về thực tiễn đòi hỏi các cấp, các
ngành, cán bộ và nhân dân quán triệt những quan điểm của Đảng, đồng thuận ,
chung sức, quyết tâm thực hiện tốt những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài
của đất nước.
2.2.2. những hạn chế
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được tiến hành trong điều
kiện có những thuận lợi song khó khăn, thách thức rất lớn. Trong hoàn cảnh đó với
sự nổ lực của toàn Đảng , toàn dân với đường lối đúng đắn, sáng tạo đất nước ta đã
giành được nhiều hành tựu to lớn. Đại hội VII của Đảng (1996) nhận định “...
nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng còn một số mặt chưa vững
chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thế kỉ quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, con đường đi lên của chủ nghĩa xã hội
ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”.
Phát huy những kết quả đạt được trong 5 năm qua (1996 2000) dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng mà đại hội IX
của Đảng đã khẳng định.
Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng ình quân
hằng năm 7% . Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường.
Văn hóa xã hội có những tiến bộ , đời sống của nhân dân tiếp tục được cải
thiện.
12
Tình hình chính trị xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng , an ninh được
tăng cường.
Công tác xây dựng , chỉnh đốn Đảng được chú trọng , hệ thống chính trị
được củng cố.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế
được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả.
Đạt được những thành tựu trên là do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng
và đường lối lãnh đạo đúng đắn, Nhà nước ta có cố gắn lớn trong việc quản lý điều
hành; toàn dân tộc đã phát huy lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất
trí, cần cù, năng động, sáng tạo.
Tuy nhiên , bên cạnh đó chúng ta vẫn còn có những yếu kém cần được khắc
phục.
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
Một số vấn đề văn hóa xã hội bức xúc và gây gắt chậm được giải quyết. Cơ chế
chính sách chưa đồng bộ, tình trạng tham nhũng, suy thoái ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Đây là những vấn đề cần phải được
nhanh chóng khắc phục để đất nước phát triển bền vững.
Bế tắc về mặt tư tưởng. Thực sự, trong nhiều năm qua, Đảng cộng sản đã
thành công trong công tác tuyên truyền nhưng không có tiến bộ về nghiên cứu phát
triển tư tưởng. Chỉ biết dùng những kiến thức cũ, về cơ bản là đúng, nhưng ở kỉ
nguyên mới thì cần nâng cấp mà không nâng cấp nổi.
Yếu kém trong công tác tổ chức. Cho nên, không có được những người xuất
chúng có đủ tâm+tài+lực chỉ huy lãnh đạo. Thành ra quan liêu, tham nhũng ngày
càng nhiều. Lãng phí ngày càng tăng. Dẫn đến niềm tin của nhân dân ngày càng suy
giảm.
Tình hình kinh tế chính trị xã hội môi trường, khí hậu toàn cầu ngày
càng có nhiều diễn biến bất thường.
Các thế lực thù địch không ngừng chống phá.
13
Tinh thần đấu tranh của cán bộ, đảng viên thực sự là yếu kém đến mức báo
động. Vì thế cho nên quan liêu, tham nhũng, lãng phí ngày càng tăng mà không làm
sao trị nổi.
Tóm lại: Đảng có được THIÊN THỜI, ĐỊA LỢI nhưng ngày càng yếu về
NHÂN HÒA.
"Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng lòng dân".
2.3. Những giải pháp để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
có hiệu quả
Từ năm 1998, các phiên chất vấn với thành viên Chính phủ được truyền hình
trực tiếp. Những buổi phát sóng trực tiếp này được nhiều người hưởng ứng, thể
hiện mức độ quan tâm của người dân. Quốc hội cũng thể hiện vai trò của mình,
phủ quyết hoặc yêu cầu điều chỉnh lại một số dự thảo luật mà Chính phủ đề xuất.
Quốc hội cũng đang đóng vai trò lớn hơn trong việc giám sát các hoạt động của
Chính phủ, thông qua việc theo dõi đơn thư khiếu nại của công dân.
Giải pháp nâng cao năng lực thực hành dân chủ đại diện ở nước ta:
Một là, đối với Quốc hội
Hai là, lấy phiếu tín nhiệm ở cả Trung ương và cơ sở.
Ba là, cần có kết luận về chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Uỷ
ban nhân dân ở cấp xã và địa phương không tổ chức hội đồng nhân dân.
Bốn là, thực hiện việc giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, phát triển và “phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương
thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ… khắc phục
tình trạng hành chính hoá các tổ chức quần chúng; phát triển nhiều hình thức tự
quản của dân hoạt động theo pháp luật”(3). Thông qua đó “hoàn thiện cơ chế để
nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà
nước”.
Một vấn đề nổi cộm hiện nay là ở nơi nào phát triển các tổ chức xã hội
theo kiểu dân lập, tự quản một cách tự phát thì ở đó có sự thu hẹp vai trò của các tổ
14
chức chính trị xã hội, kể cả vai trò quản lý bằng luật pháp của Nhà nước và vai trò
lãnh đạo của Đảng. Vì thế, phải nghiên cứu mối quan hệ giữa giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ
thống chính trị với sự phát triển khi có những phát triển của các tổ chức dân sự,
trong đó, cần đặc biệt chú ý tới nguy cơ làm suy yếu hệ thống chính trị, đặc biệt
vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, cần định hướng và điều tiết các luồng tư
tưởng, ý kiến khác nhau trong xã hội vào hệ thống giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội thuộc hệ thống chính
trị trong điều kiện một Đảng cầm quyền.Tuy nhiên, cũng cần khắc phục một số
vấn đề về năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ các tổ chức đoàn thể cũng như
mức độ độc lập của các tổ chức này đối với cơ quan nhà nước, nâng cao vai trò của
họ trong quá trình ra quyết định ở các cấp”.
15
C. KẾT LUẬN
Trên đây tôi vừa trình bày về “ thực trạng xây dựng nền dân chủ trong
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” . Qua đó, chúng ta đã
biết được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hình thành với thắng lợi của CMSV , xóa
bỏ chế đọ tư hữu, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh và giữ vai trò chủ đạo của
Đảng là những vấn đề rất quan trọng để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa xứng
đáng với lý tưởng mà Bác Hồ từng mong mỏi.
Là một sinh viên đang theo học trên giảng đường Đại học và là một công
dân của một nước xã hội chủ nghĩa, tôi tự thấy bản thân cần phải cố gắng học tập
hơn nữa, rèn luyện trao dồi tư cách đạo đức, học hỏi không ngừng để sau này trở
thành người có ích cho xã hội và đóng góp bảo vệ cho đất nước, làm cho đất nước
ngày một phát triển văn minh , giàu đẹp , công bằng.
KẾT CẤU ĐỀ TÀI : Bài tiểu luận với chủ đề xây dựng nền dân chủ trong
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay , gồm 3 phần , 2
chương và 10 mục.
16
MỤC LỤC