Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Bài tập nhóm An sinh xã hội: Tìm hiểu và nghiên cứu về trợ cấp tuổi già

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.06 KB, 46 trang )

An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƢƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
----------o0o----------

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: AN SINH XÃ HỘI
Đề tài:

Tìm hiểu và nghiên cứu về trợ cấp tuổi già
Danh sách nhóm: Nguyễn Thị Phƣơng _ 11142325_Nhóm trƣởng
Cao Thị Hƣờng _ 11141955
Hà Thị Thanh

Lớp tín chỉ:

_ 11153956

Nguyễn Thị Ngọc Trang

_ 11141320

Vũ Thị Ánh Tuyết

_ 11150800

An sinh xã hội_8
Hà Nội, tháng 10/2016
1



An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
LỜI NÓI ĐẦU:
ừ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người
đã tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y
phòng hàn”; đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của
cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình
thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến
ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau.

T

Trong quá trình phát triển xã hội, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để
hình thành, phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm
công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập làm
thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn,
rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc
sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền
lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc
những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động
tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn…); đồng thời, đòi hỏi
giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành ở Việt Nam, nhưng
những nội dung của ASXH thì đã được thực hiện khá lâu. Những câu thành ngữ
“áo lành đùm áo rách”, “thương người như thể thương thân”, “bầu ơi thương lấy
bí cùng”…, đã thể hiện tính cộng đồng ở nước ta và nó đã góp phần điều chỉnh
các hành vi trong xã hội về các hoạt động mang nội dung ASXH và dần được
Nhà nước xây dựng thành các chính sách về ASXH. An sinh xã hội là một trong
những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ,

nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã
hội của đất nước. Để chính sách này đảm bảo tốt hơn đời sống cho người dân,
góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển
kinh tế của đất nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Pháp luật về an sinh xã hội ở
Việt Nam là hết sức cần thiết.
Vì những nguyên do đó mà An sinh xã hội, đặc biệt là trợ cấp tuổi già, là
một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Và để tìm
hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm em đã nghiên cứu về an sinh xã hội-trợ cấp tuổi
già với những vai trò của nó tới mọi mặt đời sống cũng như liên hệ thực tiễn về
chế độ hưu trí tại Việt Nam.
2


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Bài tiểu luận của chúng em bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:

I, Phân tích tổng quan về An sinh xã hội.............................................................................4
II, Khái quát về tổ chức Lao động quốc tế (ILO................................................................11
1, Nguồn gốc......................................................................................................................11
2, Thành viên của ILO......................................................................................................12
3, Mục tiêu và hoạt động..................................................................................................12
4, Hình thức hỗ trợ của ILO.............................................................................................12
III, Nội dung các chính sách, chương trình trong hệ thống ASXH..................................14
1, Bảo hiểm xã hội (BHXH).............................................................................................14
2, Cứu trợ xã hội (CTXH)................................................................................................17
3, Ưu đãi xã hội (ƯDXH)................................................................................................20
4, Xóa đói giảm nghèo (XĐGN)......................................................................................21
IV, Vấn đề tài chính trong ASXH, cơ chế đóng góp, phương thức phân phối tài chính và
các đối tượng trong diện bảo vệ của an sinh..............................................................................24
V, Giới thiệu về già hóa dân số. Chế độ trợ cấp tuổi già...............................................24

1, Tại sao cần có trợ cấp tuổi già trên Thế giới.............................................................27
2, Sự cần thiết của chế độ hưu trí tại Việt Nam..............................................................28
3, Thực trạng về thu nhập và chế độ y tế dành cho người già trên Thế giới...................31
4, Mười hoạt động ưu tiên nhằm tận dụng tối đa cơ hội của dân số già hóa..................33
5, Đối tượng được hưởng trợ cấp tuổi già.......................................................................34
6, Điều kiện được hưởng trợ cấp tuổi già, mức trợ cấp và thời gian trợ cấp..................37
VI, Nhận thức về ASXH của mọi người hiện nay..............................................................41
1, Nhận thức của Đảng và nhà nước................................................................................41
2, Nhận thức của người dân...............................................................................................43
3, Trách nhiệm, cơ chế giám sát và sự quản lí của nhà nước, chính quyền......................44

3


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
I.

Phân tích tổng quan về An sinh xã hội:
1.
Quan niệm An sinh xã hội:
a.
Quan niệm về An sinh xã hội trên thế giới:

Trong thực tiễn, do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp
cận nên hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về ASXH.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): ASXH là những biện pháp công cộng
nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được
nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp
bênh thu nhập.
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): ASXH là hình

thức bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số
biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về
kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai
sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong, cung cấp chăm sóc y
tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em.
Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi ASXH là thành tố của hệ thống
chính sách công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành viên xã hội
chứ không chỉ có công nhân. Những vấn đề mà ISSA quan tâm nhiều trong hệ
thống ASXH là chăm sóc sức khoẻ thông qua bảo hiểm y tế; hệ thống BHXH,
chăm sóc tuổi già; phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ giúp xã
hội.

4


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
b.

Quan niệm về An sinh xã hội ở Việt Nam:

Ở Việt Nam, mặc dù ASXH là một lĩnh vực còn nhiều mới mẻ nhưng
cũng đã dành được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý nghiên cứu
về vấn đề này.
- Theo GS Hoàng Chí Bảo thì: ASXH là sự an toàn của cuộc sống con
người, từ cá nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển con người
và xã hội. ASXH là những đảm bảo cho con người tồn tại (sống) như một con
người và phát triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân tính trong hoạt động,
trong đời sống hiện thực của nó như một chủ thể mang nhân cách.
- Theo PGS.TS Nguyễn Hải Hữu thì "ASXH là một hệ thống các cơ chế,
chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong

xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ có nguy cơ
suy giảm, mất nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già
cả không còn sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khác quan rơi vào hoàn
cảnh nghèo khổ và cung cấp các dịch vụ sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua hệ
thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã hội.
- GS.TS Mai Ngọc Cường lại cho rằng, để thấy hết được bản chất, chúng ta
phải tiếp cận ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này.
+ Theo nghĩa rộng: ASXH là sự đảm bảo thực hiện các quyền để con người
được an bình, đảm bảo an ninh, an toàn trong xã hội.
. + Theo nghĩa hẹp: ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết
yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do
họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cô
đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, người bị thiên tai địch hoạ.
- "Chiến lược ASXH giai đoạn 2011 – 2020”ghi nhận: “An sinh xã hội là sự
bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội thông qua việc thực
thi hệ thống các cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro
có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế”.
Trong bài "Đảm bảo ngày càng tốt hơn ASXH và phúc lợi xã hội là một
nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020” Thủ
5


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng "ASXH và PLXH là hệ thống các chính sách và
giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và
tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân".
Trên cơ sở phân tích các quan điểm về ASXH trên, chúng ta có thể khái
quát rằng: An sinh xã hội là những can thiệp của Nhà nƣớc và xã hội bằng các
biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho các thành

viên trong cộng đồng do bị mất hoặc giảm thu nhập bởi các nguyên nhân ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thƣơng tật, tuổi già và chết; đồng
thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho
tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay khi gặp những
rủi ro xã hội khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà
nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm
an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội do đó nó vừa có tính
kinh tế, vừa có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc.
Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã
tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”; đồng
thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần
dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố
đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của
các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã
hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống ASXH đã có những
cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ
người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu
nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường
hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối
đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập
nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu
hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng
những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn…);
đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho
họ.
6


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già


Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều Bang đã thành lập quỹ ốm đau và
yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật.
Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia,
dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề
nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, ASXH (lúc này là BHXH)
đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng
góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba
bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không
phân biệt già – trẻ, nam – nữ, người khoẻ – người yếu mà tất cả đều phải tham gia
đóng góp.

Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ
Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến
tranh thế giới thứ hai, ASXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở
châu á, châu Phi và vùng Caribê. Ngoài BHXH, các hình thức truyền thống về
tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để giúp đỡ những người có hoàn
cảnh khó khăn như những người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người
goá bụa và những người không may gặp rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn… Các dịch
vụ xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ
đặc biệt cho người tàn tật, người già, bảo vệ trẻ em… được từng bước mở rộng ở
các nước theo những điều kiện tổ chức, chính trị, kinh tế – xã hội, tài chính và
quản lý khác nhau. Hệ thống ASXH được hình thành và phát triển rất đa dạng
dưới nhiều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử,
trong đó BHXH là trụ cột chính. Đạo luật đầu tiên về ASXH (Social Security)
trên thế giới là Đạo luật năm 1935 ở Mỹ.
Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất,
tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật ngữ ASXH được chính thức sử dụng. Đến
7



An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
năm 1941, trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động Quốc
tế (ILO) chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế. ASXH đã
được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Nội dung
của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên ngôn có viết: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng ASXH. Quyền đó đặt
cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách
và sự tự do phát triển con người…”. Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO
đã thông qua Công ước số 102, được gọi là Công ước về ASXH (tiêu chuẩn tối
thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ về ASXH đã có trên toàn thế giới thành 9 bộ
phận.
c.

Bản chất của An sinh xã hội:

ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân
tương ái của cộng đồng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một
trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng,
giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con
người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.
Là 1 cơ chế - công cụ phân phối lại thu nhập cá nhân trong xã hội theo
chiều ngang (nam, nữ, già ,trẻ…) và chiều dọc (giàu – nghèo).
Là sự che chắn, bảo vệ thành viên trong xã hội trước rủi ro, biến cố bất
lợi tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mỗi quốc gia. Thể hiện rõ ràng nhất quyền
của con người được LHQ công nhận- Chủ nghĩa nhân văn – nhân đạo: nhà nước và
xã hội cùng giúp đỡ những người gặp rủi ro.
=> Tạo động lực cho họ và sự đoàn kết cộng đồng..- ASXH gồm những
chính sách: BHXH, CTXH, UĐXH, XĐ-GN, QDP.

2.
a.

Vai trò, ý nghĩa của An sinh xã hội:
Vai trò của An sinh xã hội:

Vai trò, ý nghĩa của an sinh xã hội Vai trò của an sinh xã hội Khi đánh
giá về vai trò của ASXH, Ngân hàng Thế giới cho rằng, một hệ thống ASXH được
thiết kế tốt sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua
8


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
hệ thống ASXH, Nhà nước tiến hành phân phối lại thu nhập cho người nghèo và
những người dễ bị tổn thương, nhanh chóng tác động lên nghèo đói và bất bình
đẳng xã hội. Trên cơ sở phân tích vị trí của ASXH trong hệ thống chính sách kinh
tế - xã hội, ASXH có những vai trò cơ bản sau:
 Đối với xã hội:
+ Hệ thống ASXH là một trong những cấu phần quan trọng trong các
chương trình xã hội của một quốc gia và là công cụ quản lý của nhà nước thông
qua hệ thống luật pháp, chính sách và các chương trình ASXH. Mục đích của nó là
giữ gìn sự ổn định về xã hội - kinh tế - chính trị của đất nước, đặc biệt là ổn định
xã hội, giảm bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội; tạo nên sự
đồng thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển.
ASXH còn là một trong những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính sách
xã hội. Nó hướng đến bảo đảm mức sống tối thiểu cho người dân, bảo vệ giá trị cơ
bản và là thước đo trình độ phát triển của một nước trong quá trình phát triển và
hội nhập.
+ Bảo đảm ASXH là nền tảng của phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thông qua việc áp dụng các cơ chế điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa các khu

vực kinh tế, các vùng kinh tế và các nhóm dân cư, ASXH có thể được coi như là
một giá đỡ đảm bảo thu nhập cho người dân.
Hệ thống chính sách ASXH được thiết kế trên cơ sở các nguyên tắc công
bằng, đoàn kết ở các mức độ khác nhau còn thể hiện giá trị và định hướng phát
triển của một quốc gia. Cách thức thiết kế hệ thống ASXH chính là sự thể hiện mô
hình phát triển xã hội, quan điểm lựa chọn đầu tư cho con người.
+ Hệ thống ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững thông qua việc "điều hoà”các "mâu thuẫn xã hội", đảm bảo xã hội không có
sự loại trừ, điều tiết tốt hơn và hạn chế các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và bất
ổn định xã hội.
Nhà nước thông qua chính sách ASXH để cân đối, điều chỉnh nguồn lực
cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên sự phát triển hài hoà, giảm bớt
sự chênh lệch giữa các vùng; mở rộng chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã
hội, hạn chế bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư.
9


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Thông qua việc hoạch định và thực hiện chính sách ASXH, cho phép các
Chính phủ tiến hành lựa chọn mục tiêu tăng trưởng hiệu quả và bền vững. Một hệ
thống ASXH lâu dài, đầy đủ có thể thực hiện mọi mục tiêu tái phân phối của xã
hội, giải phóng các nguồn lực trong dân cư.
 Đối với các gia đình:
Nếu một hệ thống ASXH được thiết kế hiệu quả có thể tạo điều kiện cho
các gia đình đầu tư tốt hơn cho tương lai. Trong vai trò này, hệ thống ASXH cơ
bản là khắc phục các rủi ro trong tương lai, cho phép các gia đình tiếp cận đến
được các cơ hội để phát triển.
Hệ thống ASXH còn góp phần hỗ trợ cho các gia đình quản lý được rủi
ro. Thông qua các chương trình ASXH, ít nhất nó cũng giúp cho các gia đình
đương đầu được với những giai đoạn khó khăn trong cuộc sống.

ASXH còn là một yếu tố bảo hiểm, cho phép các gia đình được lựa chọn
sinh kế để phát triển. Như vậy, hệ thống ASXH vừa bảo vệ cho các thành viên
trong xã hội vừa nâng cao khả năng tồn tại độc lập của họ trong cuộc sống. Ý
nghĩa của an sinh xã hội An sinh xã hội là một biện pháp của chính sách xã hội và
là một trong những chỉ báo quan trọng về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mà đối tượng của nó là những
người gặp rủi ro, bất trắc trong cuộc sống.
b.

Ý nghĩa của an sinh xã hội

An sinh xã hội là một biện pháp của chính sách xã hội và là một trong
những chỉ báo quan trọng về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường mà đối tượng của nó là những người gặp rủi
ro, bất trắc trong cuộc sống.
An sinh xã hội vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có giá trị về mặt xã
hội, đặc biệt nó thể hiện giá trị đạo đức cao đẹp và tinh thần nhân đạo sâu sắc. An
sinh xã hội có các ý nghĩa cụ thể sau:
Thứ nhất, an sinh xã hội lấy con người làm trung tâm, coi quyền con
người, bảo vệ con người trước các biến cố rủi ro xảy ra. Con người vừa là động lực
của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc xây dựng xã hội. Trong tuyên
10


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
ngôn về nhân quyền do Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua ngày 10.12.1948 đã
khẳng định: “Tất cả mội người, với tư cách là thành viên xã hội xó quyền hưởng
đảm bảo xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội
và văn hóa cần cho sự tự do phát triển con người”.
Thứ hai, an sinh xã hội vừa tạo điều kiện cơ bản và thuận lợi giúp các đối

tượng đặc biệt có cơ hội để phát huy hết thế mạnh của cá nhân đồng thời thể hiện
thái độ, trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo cơ hội giúp họ hòa nhập vào cộng
đồng.
Thứ ba, an sinh xã hội góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội. Mục
tiêu cơ bản của an sinh xã hội là tạo môi trường công bằng cho các tầng lớp dân
cư, cho người nghèo, cho người lao động, cho các đối tượng gặp biến cố rủi ro
tham gia. An sinh xã hội phỉa thực sự là công cụ phát triển tiến bộ xã hội. Ngoài
việc giảm bớt, hạn chế những khó khăn cho đối tượng nghèo đói, an sinh xã hội
còn phải đa dạng hóa các hình thức hoạt động khác nhau đối với các đối tượng
khác nhau để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ tư, an sinh xã hội thể hiện truyền thống tương thân, tương ái, đoàn
kết giúp đỡ nhau của cộng đồng. Trên cơ sở sự liên kết, hợp tác của cộng đồng
những rủi ro hoạn nạn được chia sẻ, đây là yếu tố phát huy sức mạnh của cộng
đồng, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc ta.
Thứ năm, an sinh xã hội góp phần phân phối lại thu nhập giữa xác tầng
lớp dân cư, giữa những người lao động làm công ăn lương, giữa những người có
công với nước, giữa những người gặp khó khăn, biến cố rủi ro, giữa những người
nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa...
II.

Khái quát về tổ chức Lao động quốc tế (ILO):
1.
Nguồn gốc:

Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) được thành lập năm 1919, vào thời điểm
Chiến tranh Thế giới Thứ nhất kết thúc. Khởi xướng việc thành lập ILO là ông
Robert Owen - nhà công nghiệp xứ Wales (1771-1853), và ông Daniel Legrandnhà công nghiệp người Pháp (1783-1859). Lúc mới thành lập, ILO là tổ chức độc
lập liên kết với Hội Quốc Liên. Đến năm 1946, ILO ký Hiệp định quy định các

11



An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
mối quan hệ với Liên hợp quốc (LHQ) và trở thành tổ chức chuyên môn đầu tiên
của LHQ. Từ năm 1920, ILO đóng Trụ sở tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ Sỹ.
2.

Thành viên của ILO:

Khi thành lập năm 1919, ILO chỉ có 45 nước tham gia. Đến nay, ILO đã
có 180 quốc gia thành viên trong đó Brunây là thành viên trẻ nhất - vừa gia nhập
ILO đầu năm 2007. Nguồn kinh phí cho các hoạt động của ILO bao gồm: nguồn
ngân sách thường xuyên do các nước thành viên ILO đóng góp niên liễm theo tỷ lệ
của Liên hợp quốc, và các nguồn tài chính do các nhà tài trợ song phương và đa
phương hỗ trợ.
3.

Mục tiêu và hoạt động:

ILO được thành lập trên cơ sở ba mục tiêu cơ bản là mục tiêu nhân đạo (cải
thiện điều kiện làm việc của người lao động); mục tiêu chính trị (đảm bảo công
bằng xã hội và bảo vệ các quyền lao động và quyền con người sẽ tạo bình ổn xã
hội); và mục tiêu kinh tế. Để thực hiện các mục tiêu trên, ILO xây dựng các tiêu
chuẩn lao động quốc tế thông qua hình thức các Công ước (CW) và Nghị quyết
trong đó qui định các tiêu chuẩn tối thiểu về quyền của người lao động (ví dụ
quyền tự do thương hội, quyền được tổ chức và đàm phán tập thể, quyền xoá bỏ
lao động cưỡng bức, không bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc và trong việc làm
vv…). Đến nay (2/2007), ILO đã thông qua tổng cộng 187 Công ước và 197
Khuyến nghị. Trong số 187 CW trên, có 8 CW được coi là các Công ước cơ bản
tập trung vào 4 lĩnh vực: Tự do lập hội và tổ chức; Chống lao động cưỡng bức;

Xóa bỏ lao động trẻ em; Chống phân biệt đối xử. Các Công ước và Khuyến nghị
của ILO được coi là cơ sở của Bộ luật lao động quốc tế.
4.

Hình thức hỗ trợ của ILO:

12


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Các quốc gia thành viên được ILO hỗ trợ dưới hình thức các chương
trình, dự án do ILO điều hành. Các hoạt động trợ giúp khác là: tư vấn; nghiên cứu
kỹ thuật; tăng cường năng lực, thể chế; đào tạo, thăm quan khảo sát, hội nghị/hội
thảo về các chuyên đề liên quan đến chiến lược và chính sách lao động, việc làm.
Mọi hoạt động trợ giúp của ILO đều phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong
Điều Lệ ILO, đó là tôn trọng quyền cơ bản tại nơi làm việc; tạo thêm nhiều cơ hội
cho phụ nữ cũng như nam giới có được việc làm đàng hoàng với thu nhập phù hợp
và được bảo vệ về nhân phẩm.
Trên cơ sở chính sách chung qui định trong Điều lệ ILO và 6 nội dung cơ
bản nêu trong Chương trình Nghị sự về Việc làm Bền vững, ILO hỗ trợ các quốc
gia thành viên thông qua các chương trình, dự án liên quan đến quan đến hỗ trợ
hoạch định chiến lược, xây dựng chính sách lao động và việc làm đảm bảo phù hợp
với ưu tiên của cả ILO và của quốc gia thành viên. Trên cơ sở các nguyên tắc trên,
các lĩnh vực cụ thể được ILO ưu tiên trợ giúp là:
(1) hỗ trợ đào tạo và tái đào tạo nghề
(2) xây dựng các chính sách việc làm
(3) quản lý lao động
(4) xây dựng luật lao động và quan hệ lao động
(5) cải thiện điều kiện làm việc
(6) phát triển quản lý

(7) xây dựng hôi, nghiệp đoàn
(8) bảo đảm an sinh xã hội
(9) tập hợp tư liệu về lao động, an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp.
Nhìn chung, định hướng chiến lược các hoạt động của ILO thể hiện trong
Chương trình Nghị sự về Việc làm Bền vững của Tổng Giám đốc ILO được các
nước thành viên tích cực hưởng ứng. Hội đồng kinh tế xã hội của LHQ họp tháng
7/2006 đã dành thời gian Phiên Thảo luận Cấp cao để thảo luận và ủng hộ Chương
trình này. Cho tới nay, các hoạt động hỗ trợ của ILO được đánh giá là hiệu quả, kịp
13


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
thời và góp phần hỗ trợ tích cực các quốc gia trong lĩnh vực xây dưng chính sách
lao động, cải thiện quan hệ lao động và điều kiện làm việc cho người lao động.
III. Nội dung các chính sách, chƣơng trình trong hệ thống ASXH:
1.
Bảo hiểm xã hội (BHXH):
a.
Khái niệm BHXH:
- BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an
toàn xã hội.
Bản chất của BHXH:
BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu khác quan cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội
dung sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ

thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất định. Kinh tế càng phát triển
thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ
lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con
người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Hoặc cũng có thể là
những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản…
Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động sẽ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập
trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ
yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục
tiêu này đã được ILO cụ thể hóa như sau:
b.

14


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu
cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
c.


Đối tƣợng của BHXH:

Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị
giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm vì các nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già yếu...Chính vì vậy, đối
tượng bảo hiểm xã hội chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm
hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là
đối tượng được bảo hiểm và họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH
(chiếm phần lớn trong các trường hợp phát sinh trách nhiệm BHXH).
Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có người
sử dụng lao động và Nhà nước. Sở dĩ người sử dụng lao động tham gia vào BHXH
là vì phần họ thấy được lợi ích thiết thực khi tham gia BHXH, một phần là do sự
ép buộc của Nhà nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Đối với Nhà
nước thì khác, họ tham gia BHXH với tư cách là: chủ sở hữu lao động đối với tất
cả công nhân viên chức và những người hưởng lương từ ngân sách. Nhà nước là
người bảo hộ cho quỹ BHXH mà cụ thể là bảo hộ giá trị của quỹ BHXH, bảo hộ
cho sự tăng trưởng của quỹ nhằm tạo sự ổn định cho quỹ và sự phát triển xã hội.
Đối tượng được bảo hiểm xã hội trong quan hệ BHXH ngoài người lao
động còn có người sử dụng lao động. Bởi vì, khi người lao động gặp rủi ro thì
người sử dụng lao động phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều này có nghĩa là họ phải
bỏ ra một khoản chi phí cho ngưòi lao động, nhưng thực tế chi phí này nhanh
chóng được cơ quan bảo hiểm hoàn trả lại.
Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là ngưòi lao động trong trường
hợp họ gặp rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu
trí. Nhưng trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì đối tượng
hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội lại là thân nhân của người lao động như: bố, mẹ,
con, vợ (chồng).
d.


Phạm vi của BHXH:

Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của tổ chức lao động
quốc tế ILO phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
15


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ
thực hiện kiến nghị đó ở mức độ khác nhau.
Ở nước ta theo điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao
gồm 5 chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
Chính sách và chế độ BHXH:
Chính sách BHXH là những quy định chung, có nội dung khái quát về
đối tượng, phạm vi, các mối quan hệ…nhằm đạt mục tiêu chung của BHXH. Việc
ban hành chính sách BHXH dựa trên cơ sở các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chính sách BHXH
được cụ thể hóa qua các chế độ BHXH.
Chế độ BHXH là cụ thể hóa chính sách BHXH, quy định cụ thể và chi
tiết việc thực hiện BHXH. Thực chất đây là một hệ thống các quy định được luật

hóa về đối tượng BHXH và quyền lợi cũng như nghĩa vụ của nó.
Nội dung của Công ước số 102 về BHXH bao gồm một hệ thống 9 chế
độ như sau:
e.

1. Chế độ chăm sóc y tế
2. Chế đọ trợ cấp ốm đau
3. Chế độ trợ cấp thất nghiệp
4. Chế độ trợ cấp tuổi già

16


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
5.

Chế độ trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề

nghiệp
6. Chế độ trợ cấp gia đình
7. Chế độ trợ cấp thai sản
8. Chế độ trợ cấp tàn tật
9. Chế độ trợ cấp tiền tuất.
Tuy điều kiện kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các
quốc gia khi triển khai BHXH có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít nhất
phải có 3 chế độ, trong đó phải có ít nhất một trong các chế độ (3), (4), (5), (8), (9).
Công ước số 157 được thông qua ngày 21-06-1982, gọi là Công ước về
duy trì các quyền về an toàn xã hội, tiếp tục khẳng định 9 nhánh an toàn xã hội như
trên. Đó là các chế độ: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thai sản; Trợ cấp
tàn tật; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tiền tuất; Trợ cấp TNLĐ & BNN; Trợ cấp thất

nghiệp và Trợ cấp gia đình. Tiếp theo vẫn còn một số các Công ước và Khuyến
nghị liên quan đến các chế độ BHXH nhưng nội dung chủ yếu vẫn theo tinh thần
của Công ước số 102.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu:
-Các chế độ BHXH được xây dựng theo luật pháp của mỗi quốc gia và có
tính ổn định tương đối.
-Hệ thống các chế độ BHXH mang tính chất chia sẻ rủi ro.
-Việc chi trả chế độ BHXH chủ yếu căn cứ vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
-Chi trả các chế độ BHXH chủ yếu được thực hiện định kỳ.

2.
a.

Cứu trợ xã hội (CTXH):
Khái niệm:

17


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
CTXH là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và
cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và rủi ro trong cuộc sống
như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu…dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào
cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt
qua cơn nghèo khốn và vươn lên trong cuộc sống bình thường.
b.

Đặc trƣng của CTXH:
- Đối tượng được cứu trợ có phạm vi rộng, toàn dân.


- Người được nhận trợ cấp không phải đóng góp vào quỹ tài chính.
Nguồn quỹ dùng để trợ cấp được lấy từ thuế hoặc từ đóng góp của cộng đồng.
- Mức trợ cấp không đồng đều mà tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và
được xác định dựa vào việc thẩm tra đánh giá thu nhập, vốn và tài sản của người
được xét hưởng trợ cấp.
- Trợ cấp có thể bằng tiền hoặc hiện vật. Khác với bảo hiểm xã hội là hầu
như chỉ bằng tiền.
c.

Vai trò:

Vai trò của CTXH tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi quốc
gia cũng như nguyên nhân cụ thể gây tổn thương cho người dân nước đó. Nhìn
chung, CTXH bao gồm những vai trò cơ bản sau:
- Đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của những cá nhân và nhóm dân cư yếu
thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng, từ đó giúp họ đối phó với những khủng
hoảng bất ngờ, vượt qua được những khó khăn để tồn tại.
- Góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương của
những cá nhân và nhóm dân cư yếu thế.
- Góp phần làm cho sự bảo vệ của hệ thống ASXH toàn diện hơn. CTXH
đã khắc phục được hạn chế của BHXH (chưa có tính phổ cập, không thể bao trùm
hết các bộ phận dân cư cũng như chỉ mới đưa ra mức hỗ trợ hạn chế), nó cung cấp
bảo vệ bổ sung, đảm bảo tất cả mọi người trong xã hội đều được giúp đỡ khi gặp
rủi ro.

18


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già

- Góp phần phát triển một xã hội hài hòa và bền vững, đưa những người
được cứu trợ ra khỏi hoàn cảnh khó khăn, thoát khỏi tâm lý mặc cảm, vươn lên hòa
nhập vào cộng đồng. Từ đó giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
d.

Mục tiêu:

- Chuyển nhượng các nguồn lực cho cá nhân, các hộ gia đình và các bộ
phận dân cư rơi vào tình trạng túng quẫn và dễ bị tổn thương nhất, từ đó giúp họ
đảm bảo mức sống tối thiểu và cả thiện điều kiện sống.
- Mục tiêu sâu xa: giảm nghèo và tạo ra nhiều cơ hội tiếp cận cho những
người hoặc những nhóm dân cư dễ bị tổn thương (giảm chênh lệch mức sống, xây
dựng nếp sống tốt đẹp giữa người với người, xây dựng một xã hội tốt đẹp, nhân
đạo và văn minh).
e.

Những quan điểm cơ bản về CTXH:
- Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được CTXH khi cần thiết.
- Nhà nước là chủ thể chính thực hiện CTXH.
- Xã hội hóa hoạt động CTXH là xu hướng tất yếu hiện nay.

- Các đối tượng được CTXH phải có trách nhiệm đối với bản thân và
cộng đồng.
- CTXH là cơ sở để phát triển xã hội bền vững.
f.

Đối tƣợng của CTXH:
Đối tượng của CTXH rất đã dạng, bao gồm:
- Những người tàn tật trong cộng đồng, là người bị khiếm khuyết một


hay nhiều bộ phận hoặc chức năng biểu hiện dưới các dạng tật khác nhau, làm suy
giảm khả năng lao động.
- Những người già yếu từ cộng đồng, chủ yếu là những người già cô đơn
không nơi nương tựa, thiếu thốn về thu nhập và sinh hoạt.
- Đối tượng tiếp theo là trẻ em, trẻ em là mầm non của đất nước, luôn
được toàn xã hội quan tâm, tuy nhiên vẫn còn một số bộ phận trẻ em rơi vào tình
19


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
cảnh bất hạnh và dễ tổn thương.
- Ngoài các nhóm đối tượng nên trên, còn có các đối tượng khác như
người bị nhiếm HIV/AIDS, người lang thang xin ăn, những người nghiện hút ma
túy, những người hoạt động mại dâm...nhất là trong thời kỉ kinh tế thị trường hiện
nay, các tệ nạn xã hội đang có điều kiện thuận lợi để phát triển.
- Ngoài các cá nhân yếu thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng thì đối
tượng được hưởng cứu trợ xã hội còn được xác định theo đơn vị hộ gia đình, chẳng
hạn như hộ gia đình rất nghèo, các hộ gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
g.

Các hình thức của cứu trợ xã hội:
- Cứu trợ xã hội thường xuyên.
- Cứu trợ xã hội đột xuất.
- Cứu trợ xã hội bằng tiền.
- Cứu trợ xã hội bằng hiện vật.

3.

Ƣu đãi xã hội (ƢĐXH):


a.

Khái niệm:
- ƯĐXH là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất lẫn tinh thần của Nhà nước

và xã hội nhằm ghi nhận và đền đáp công lao đối với những cá nhân hay tập thể có
cống hiến đặc biệt cho cộng đồng.
b.

Vai trò:
- Giáo dục cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai ý thức được trách nhiệm của

mình đối với xã hội, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp của dân tộc.
- Thực hiện chính sách ƯĐXH sẽ góp phần ổn định xã hội, giữ vững thể
chế chính trị.
- Thực hiện ƯĐXH là góp phần thực hiện chính sách con người của quốc
gia, thể hiện truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”.
c.

Mục đích:
20


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
- ƯĐXH nhằm ghi nhận và tri ân những cá nhân hay tập thể đã có những
cống hiến đặc biệt cho cộng đồng và đất nước.
- Nhằm đảm bảo công bằng xã hội, vì ai cống hiến nhiều cho xã hội,
người đó phải được hưởng nhiều, đây là sự cống hiến đặc biệt bằng cả xương máu.
- Tái sản xuất những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc và giáo dục

truyền thống cho những thế hệ tương lai.
- Đảm bảo ổn định thể chế chính trị của Nhà nước.
d.

Các quan điểm cơ bản về ƢĐXH:
- ƯĐXH là một chính sách xã hội đặc biệt quan trọng trong hệ thống các

chính sách ASXH ở mỗi quốc gia.
- ƯĐXH là việc đầu tư xã hội nhằm tái sản xuất những giá trị tinh thần
cao đẹp của dân tộc.
- ƯĐXH không phải là sự ban ơn mà là thực hiện công bằng xã hội.
- ƯĐXH là trách nhiệm của cả Nhà nước và toàn dân.
e.

Đối tƣợng đƣợc hƣởng ƢĐXH:
- Những người có cống hiến đặc biệt trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc:
+ Liệt sĩ và gia đình liệt sĩ
+ Thương binh và bệnh binh
+ Những người tham gia hoạt động Cách mạng
- Những người có cống hiến đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất nước.

f.

Các hình thức ƢĐXH:
- Ưu đãi về vật chất: trợ cấp bằng tiền; bằng hiện vật; trợ cấp nghỉ dưỡng,

an dưỡng, tham quann du lịch; ưu tiên giao hoặc thuê đất, vay vốn ưu đãi sản
xuất,…
- Ưu đãi về tinh thần: tặng bằng khen, huân, huy chương; tặng bằng Tổ
quốc ghi công; dựng tượng đài có công; dùng tên người có công để đặt tên phố, ưu

tiên con em các đối tượng có công trong tuyển sinh giáo dục và đào tạo,…
4.

Xóa đói, giảm nghèo (XĐGN):
Nội dung chương trình XĐGN xét trên góc độ các vấn đề can thiệp bao
21


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
gồm nhiều biện pháp được sử dụng như: hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ đất đai sản xuất và
nhà ở, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ y tế và giáo dục…Các biện pháp này có thể
được chia thành 3 nhóm chính: Nhóm các biện pháp tạo điều kiện cho người nghèo
phát triển sản xuất tăng thu nhập; nhóm các biện pháp tạo cơ hội cho người nghèo
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; và nhóm các biện pháp mở rộng mạng lưới
ASXH đến với người nghèo.
a.

Tạo điều kiện cho ngƣời nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập:
- Tín dụng ưu đãi cho người nghèo: Một trong những nguyên nhân chính

dẫn đến nghèo đói đó là thiếu vốn sản xuất (ở nước ta có tới 79% người nghèo là
do thiếu vốn). Vì vậy, việc Nhà nước cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo có ý
nghĩa quan trọng trong việc tạo điều kiện giúp họ tự thoát nghèo, có điều kiện để
mua sắm thêm các phương tiện sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi
phương thức sản xuất có năng suất lao động cao hơn.
- Hỗ trợ đất sản xuất: Chương trình này thường được thực hiện ở các
nước sản xuất nông nghiệp và người nghèo chủ yếu là người nông dân.
- Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu: Các điều kiện về cơ sở hạ tầng
như: đường sá, trường học, trạm điện, trạm bơm nước, công trình thủy lợi có ảnh
hưởng sâu sắc đến công tác xóa đói giảm nghèo; đặc biệt là ở các khu vực nông

thôn, nơi thường có nhiều người nghèo sinh sống.
- Chương trình khuyến nông, lâm, ngư: Các dịch vụ khuyến nông nhằm
tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận với các thông tin, kỹ thuật, và phát triển
thị trường. Vì vậy, đây là biện pháp quan trọng để thực hiện xóa đói giảm nghèo
một cách bền vững, đặc biệt là ở các nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
- Các chương trình hỗ trợ khác: Tùy theo điều kiện cụ thể mà mỗi nước
còn có thể có những chương trình hỗ trợ khác.
b.

Tạo điều kiện để ngƣời nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản:
- Hỗ trợ về y tế cho người nghèo: Có một thực tế là người nghèo cảm

thấy họ ít khi ốm, nhưng khi ốm tình trạng của họ lại rất nghiêm trọng, đòi hỏi
những chi phí khám chữa bệnh lớn trong khi thu nhập của họ lại rất hạn chế. Chính
22


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
vì vậy, hỗ trợ về y tế cho người nghèo là một chính sách rất quan trọng nhằm giúp
người nghèo có điều kiện được khám chữa bệnh.
- Hỗ trợ người nghèo về giáo dục: Giáo dục là một trong những biện
pháp quan trọng để giúp người nghèo thoát nghèo thông qua việc nâng cao trình độ
dân trí và hiểu biết. Tuy nhiên, do hạn chế về thu nhập khiến các gia đình nghèo
không có đủ tiền cho con ăn học, và càng khó khăn hơn khi các gia đình nghèo lại
thường đông con. Ngoài ra, chi phí cơ hội của việc cho con đến trường cũng là một
nguyên nhân khá quan trọng. Đối với nhiều hộ nghèo, sức lao động của con trẻ có
giá trị hơn nhiều so với việc để chúng đến trường. Lợi ích dài hạn của giáo dục
không thể bù đắp được những tổn thất về thu nhập trong ngắn hạn. Vì vậy, nhiều
trẻ em đã không được đi học hoặc được đi học nhưng không đều hoặc không hoàn
thành được bậc học cơ sở. Do đó, các chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người

nghèo như miễn giảm học phí, cung cấp sách vở học tập, xây dựng trường lớp và
các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật khác…là rất quan trọng.
- Hỗ trợ người nghèo về nhà ở: Chi phí về nhà ở là một trong những chi
phí lớn đối với người dân nói chung. Vì vậy, đối với người nghèo hỗ trợ của Nhà
nước và xã hội về nhà ở là rất cần thiết, đặc biệt ở các nước phát triển và ở các khu
đô thị khi mà chi phí về đất đai và xây dựng là rất đắt đỏ. Nhìn chung, ở các nước
đều có các chương trình hỗ trợ người nghèo về nhà ở như mua bán nhà với giá rẻ,
xây nhà cho người vô gia cư…
- Hỗ trợ các dịch vụ về nước sạch và vệ sinh: Hiện nay ở các nước, các
dịch vụ về nước và vệ sinh đều do nhà nước cung cấp hoặc do tư nhân làm thì cũng
có sự điều tiết và hỗ trợ của nhà nước, để đảm bảo mức giá hợp lý và thường là
thấp cho người dân nói chung, trong đó có đối tượng người nghèo. Trong một số
trường hợp các hộ nghèo có thể có những hỗ trợ thêm như: hỗ trợ và tư vấn xây
nhà vệ sinh, cung cấp nươc sạch cho những vùng khô hạn…
c.

Mở rộng mạng lƣới ASXH đến với ngƣời nghèo:
- Chính sách BHXH nhìn chung được các nước thực hiên khá hoàn thiện

với đối tượng là người lao động hưởng lương. Bới vì đối tượng này có quan hệ hợp
23


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
đồng lao động dài hạn và có sự tham gia đóng góp của chủ sử dụng lao động vào
quỹ BHXH. Còn với các đối tượng lao động là nông dân và lao động tự do, chính
sách BHXH thường không hoàn chỉnh và được thực hiện muộn hơn. Trong khi đây
là những đối tượng có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương trước những biến cố thất
thường của cuộc sống.
- Xóa đói giảm nghèo không chỉ đơn thuần làm thề nào để người nghèo

thoát nghèo, một phần quan trọng không kém là ngăn cho những người hiện đang
không nghèo khỏi bị rơi vào cảnh nghèo. Đó là những người có thu nhập cận mức
nghèo hoặc thu nhập chưa đủ cao dễ bị tổn thương trong cuộc sống, Vì vậy các quỹ
ASXH giúp đỡ họ khi gặp khó khăn là cần thiết.
IV. Vấn đề tài chính trong ASXH, cơ chế đóng góp, phƣơng thức phân phối
tài chính và các đối tƣợng trong diện bảo vệ của an sinh:
Nguồn lực tài chính để thực hiện ASXH chủ yếu là từ ngân sách Nhà
nước bị hạn chế, sự đóng góp của người dân là rất ít. Người dân vẫn chưa ý thức
được nguyên tắc có đóng - có hưởng trong hoạt động bảo hiểm. Mức độ che phủ,
đóng góp và mức hưởng đều thấp. Các loại hình bảo hiểm xã hội còn hạn chế, chưa
đa dạng hóa, thủ tục thanh toán còn nhiều trở ngại, tỉ lệ tham gia không cao. Người
dân chưa mặn mà với bảo hiểm y tế do chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm còn
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của đối tượng tham gia.
Đối tượng trong diện bảo vệ của an sinh là tất cả mọi người vì:
-ASXH luôn khơi dậy được tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lần nhau trong
cộng đồng xã hội.
-ASXH góp phần àm đảm bảo công bằng xã hội
-ASXH vừa là một nhân tố ổn định, vừa là một nhân tố động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
-ASXH là “chất xúc tác” giúp các nước, các dân tộc hiểu biết và xích lại
gần nhau hơn, không phân biệt thể chế chính trị, màu da và văn hóa.
V.

Giới thiệu về già hóa dân số. Chế độ trợ cấp tuổi già:
Theo các chuyên gia dân số và kinh tế, già hóa dân số là một trong những
24


An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
xu hướng có ý nghĩa nhất của thế kỷ 21, có tác động đến toàn bộ các khía cạnh của

đời sống xã hội của thế giới và từng quốc gia. Dân số già, điều đó có nghĩa là tuổi
thọ dân cư tăng lên và đó là hệ quả tích cực, một thành tựu của phát triển kinh tế,
Con người sống lâu hơn nhờ các điều kiện tốt hơn về chế độ dinh dưỡng, vệ sinh,
tiến bộ y học, chăm sóc y tế, giáo dục và đời sống kinh tế và phúc lợi xã hội. Theo
thống kê, hiện nay trên thế giới có gần 7 tỷ người và 1/9 trong số này là người từ
60 tuổi trở lên. Theo dự báo, đến năm 2050 dân số thế giới đạt 9,2 tỷ người và tỷ lệ
người từ 60 tuổi trở lên sẽ là 1/5, nghĩa là cứ 5 người thì có một người cao tuổi.
Bên cạnh việc được coi là thành tựu của quá trình phát triển, già hóa dân
số cũng tạo ra thách thức về mặt kinh tế, xã hội và văn hóa ở các cấp độ cá nhân,
gia đình, cộng đồng và xã hội trên toàn thế giới. Thách thức lớn nhất là thay đổi cơ
cấu lao động, tỷ lệ người ở độ tuổi cao (từ 45-60 tuổi) sẽ tăng lên và tỷ lệ gia nhập
thị trường lao động sẽ có xu hướng giảm đi và như vậy, để đáp ứng nhu cầu nhân
lực cho nền kinh tế, các nước phải sử dụng lao động già hơn (đồng nghĩa với việc
tăng tuổi nghỉ hưu để có thêm nhân lực cho nền kinh tế). Về mặt kinh tế, già hóa
dân số và dân số già có ảnh hưởng kép đến nền kinh tế. Một mặt, năng suất lao
động của nhóm tuổi cao sẽ kém hơn so với các nhóm tuổi trẻ khác trong lực lượng
lao động, dẫn đến thu nhập của nền kinh tế nói chung và của từng gia đình nói
riêng bị ảnh hưởng. Điều này dẫn đến hệ lụy là những người trẻ tuổi phải làm việc
nhiều hơn để bù đắp thiếu hụt thu nhập của gia đình. Mặt khác, chi phí chăm sóc y
tế và các phúc lợi khác cho người cao tuổi tăng lên, ảnh hưởng đến đầu tư cho phát
triển. Về mặt xã hội, trong một xã hội dân số già, các vấn đề xã hội sẽ phát sinh
như quan hệ giữa các thế hệ, sự chăm sóc cho người già của từng gia đình và xã
hội… sẽ là những vấn đề các quốc gia phải quan tâm. Như lời tựa trong báo cáo
của Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon “Ảnh hưởng về kinh tế và xã hội của
hiện tượng già hóa dân số có ý nghĩa vô cùng sâu rộng, không chỉ tác động tới cá
nhân người cao tuổi và gia đình họ mà còn tác động lan tỏa tới toàn xã hội và cộng
đồng toàn cầu theo những cách thức chưa từng được biết đến” (UNFPA, 2012).
25



×