TIỂU LUẬN
MÔN: TỔ CHỨC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Đề tài:
“Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của kỳ họp Quốc hội Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về kỳ họp Quốc hội
2. Thực trạng hiệu quả hoạt động của kỳ họp Quốc hội hiện
2
4
4
5
nay
2.1. Hiệu quả hoạt động của kỳ họp Quốc hội trong giai đoạn hiện 5
nay
2.2. Một số tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động tại kỳ họp Quốc 6
hội
3. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt 8
động của kỳ họp Quốc hội trong giai đoạn hiện nay
3.1. Giải pháp về việc lập kế hoạch, chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội
8
3.2. Giải pháp về điều hành kỳ họp
9
3.3. Giải pháp về quy trình thảo luận và thông qua các dự án, đề án, 10
báo cáo tại kỳ họp
3.4. Giải pháp về chất vấn và trả lời chất vấn
3.5. Giải pháp về đại biểu Quốc hội
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
11
12
13
14
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Hiến pháp năm 1992 có hiệu lực thi hành và cho đến nay là
Hiến pháp 2013, Quốc hội nước ta đã trải qua 40 kỳ họp tại các khóa IX, X,
XI và XII trong đó gần đây nhất là kỳ họp thứ bảy Quốc hội khóa XII. Trong
suốt 18 năm qua, kỳ họp Quốc hội đã dần từng bước được nâng cao về chất
lượng, thực chất trở thành một hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
Quốc hội. Nhưng không vì vậy mà trong giai đoạn hiện nay, trước những tình
hình mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Quốc hội và càng đặc biệt
hơn là hoạt động của Quốc hội tại kỳ họp không có những bước tiến mới
nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp từ các đại biểu Quốc hội nói riêng
và cả Quốc hội nói chung. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động của kỳ
họp Quốc hội là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
3
NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KỲ HỌP QUỐC HỘI
Kỳ họp Quốc hội là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của Quốc hội, nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực Nhà
nước của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, trí tuệ của tập thể đại biểu
Quốc hội. Chỉ tại kỳ họp, ba chức năng và mười bốn nhiệm vụ quyền hạn
của Quốc Hội đượ c quy định trong Hiến pháp mới đượ c thực hiện rõ nét
nhất. Tại kỳ họp, Quốc hội th ảo lu ận dân chủ và quyết định những vấn đề
quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân; thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
So với hình thức tổ chức hoạt động khác của Quốc hội thì kỳ họp là
hình thức hoạt động có ưu thế hơn cả. Chỉ có kỳ họp, Quốc hội mới thông
qua được những quyết định chính thức của mình các văn bản pháp luật, kể
cả Hiến pháp đến các nghị quyết khác. Các hình thức hoạt động khác như
hoạt động của Hội đồng dân tộc, của các Uỷ ban chỉ là hình thức trợ giúp,
để trên kỳ họp Quốc hội thực hiện một cách chính xác nhiệm vụ quyền hạn
của Quốc Hội. Chính trên kỳ họp, quyền lực của Quốc hội được thể hiện
một cách đầy đủ nhất, mọi vấn đề quan trọng nhất của đất nước thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được Hiến pháp quy định tại điều 84,
chỉ được Quốc hội thảo luận và chính thức quyết định tại kỳ họp của Quốc
hội.
Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, một kỳ vào giữa năm và
một kỳ vào cuối năm, do Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập. Trong
trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba
4
tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban
thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường.
Kỳ họp Quốc hội là công khai. Khi Quốc hội họp công khai, công chúng
có thể được đến dự theo giấy mời của Văn phòng Quốc hội. Các cơ quan
thông tấn, báo chí được tham dự các phiên họp công khai của Quốc hội để
phản ánh kịp thời, chính xác các hoạt động tại kỳ họp Quốc hội.
Để bảo đảm cho kỳ họp có hiệu quả thực sự, mọi kỳ họp phải
tiến hành theo một trình tự bắt buộc. Trình tự tiến hành các kỳ họp của
Quốc hội được quy định một số điểm chính các điều khoản của Hiến pháp,
Luật tổ chức Quốc hội. Những quy định này được chi tiết hoá trong Nội
quy kỳ họp Quốc hội. Tiến trình kỳ họp thường được chia làm ba giai đoạn:
Chuẩn bị kỳ họp, thảo luận, và thông qua các dự án. Ngoài trình tự trên,
Nội quy kỳ họp có quy định cách thức tiến hành kỳ họp thứ nhất, trình tự
tiến hành chất vấn, trả lời chất vấn và trình tự lập pháp.
2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA KỲ HỌP
QUỐC HỘI HIỆN NAY
2.1. Hiệu quả hoạt động của kỳ họp Quốc hội trong giai đoạn
hiện nay.
Trong các nhiệm kỳ gần đây, công tác chuẩn bị, quy trình tiến hành và
công tác điều hành kỳ họp Quốc hội đã có nhiều bước cải tiến. Cụ thể:
Việc chuẩn bị các kỳ họp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, do
nhiều cơ quan đảm nhiệm như xây dựng các dự án trình Quốc hội, điều tra,
nghiên cứu, thu thập tình hình thực tế và ý kiến đóng góp của nhân dân về các
vấn đề liên quan đến kỳ họp Quốc hội. Việc chuẩn bị kỳ họp thu hút sự tham
gia của đông dảo các cơ quan nhà nước, của Hội đồng dân tộc và các ủy ban
của Quốc hội cũng như bản thân mỗi đại biểu Quốc hội. Thể hiện ở trước
kỳ họp thứ bảy Quốc hội khoá XII, trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
đánh giá của các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan
5
hữu quan và tình hình thực tế, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận và
thống nhất dự kiến chương trình kỳ họp trình Quốc hội chủ yếu gồm các
vấn đề như: Quốc hội sẽ xem xét thông qua 10 dự án luật và 2 dự thảo nghị
quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật; nghe báo cáo và thảo luận về chủ trương
đầu tư dự án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh;
đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn
đến năm 2050; xem xét, quyết định về vấn đề nhân sự của Chính phủ cũng
như các cơ quan của Quốc hội…
Hơn nữa, nguyên tắc tập thể thảo luận và quyết định theo đa số đã bảo
đảm phát huy trí tuệ của các đại biểu, huy động sự đóng góp của các cơ quan
hữu quan, của đông đảo cán bộ tham mưu, nghiên cứu và các cán bộ phục vụ.
Tại các kỳ họp Quốc hội, không khí thảo luận của các đại biểu đã thực sự sôi
nổi, thu hút được sự chú ý của dư luận và trong nhân dân. Những vấn đề
được đưa ra thảo luận, xem xét và quyết định tại kỳ họp Quốc hội đã thực sự
trở thành hình thức giam sát hữu hiệu của Quốc hội đối với các cơ quan Nhà
nước hữu quan. Đặc biệt, trong việc chất vấn và trả lời chất vấn, các đại
biểu đã thể hiện rõ vai trò của mình, các nội dung được chất vấn bao quát
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có nhiều vấn đề nóng bỏng, bức
xúc liên quan tới trách nhiệm của nhiều cơ quan Nhà nước trong khi đối
tượng bị chất vấn đã có sự chuẩn bị nội dung và trả lời nghiêm túc hơn.
Chính những đổi mới đó đã từng bước xác lập nên lề lối, tác phong làm
việc dân chủ của Quốc hội tại kỳ họp, tạo nên sự tin cậy trong nhân dân,
được nhân dân đồng tình và hoan nghênh.
2.2. Một số tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động tại kỳ họp
Quốc hội.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng đổi mới phương thức hoạt động, nhưng
Quốc hội vẫn chưa thể hoàn thành trọn vẹn các nghị quyết của chính mình đề
6
ra. Trên thực tế, số lượng cũng như chất lượng các dự án trình ra và Quốc hội
đã thông qua tại một kỳ họp, nhất là trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI và các
kỳ họp vừa qua của Quốc hội khóa XII đã tăng lên đáng kể. Tuy vậy, so với
thời gian của một năm và cả nhiệm kỳ hoạt động, công sức, chi phí bỏ ra của
rất nhiều chủ thể tham gia vào việc tổ chức, tiến hành kỳ họp thì về mặt này,
số lượng văn bản luật, quyết định thông qua tại kỳ họp là chưa nhiều, chưa
theo đúng chương trình xây dựng luật đã dự kiến do vậy tại một số kỳ họp
phải điều chỉnh chương trình nhiều lần, gây chậm tiến độ tại các kỳ họp.
Quy trình thảo luận, thông qua các luật, các nghị quyết của Quốc hội cũng
còn có chỗ bất hợp lý cần được tiếp tục cải tiến; một số phiên họp còn vắng
khá nhiều đại biểu; việc điều hành kỳ họp vẫn còn có lúc chưa thật khoa
học; việc chuẩn bị một số nội dung chưa kịp thời, đặc biệt là chúng ta hầu
như chưa thực hiện được việc gửi tài liệu đến đại biểu trước 20 ngày hoặc
10 ngày và do đó đại biểu cũng khó có thể nghiên cứu trước tài liệu.
Không những vậy, trên thực tế đang có sự lẫn lộn giữa chất vấn và đặt
câu hỏi để nắm thông tin. Trong nhiều câu hỏi mà đại biểu Quốc hội gửi
bằng phiếu qua đoàn thư ký kỳ họp để chuyển tới người bị chất vấn có
không ít câu hỏi chưa phù hợp, tính tranh luận chưa cao, mang tính chất chung
chung, được nêu ra không phải chấn vấn mà chỉ muốn biết thông tin cụ thể
hoặc có những câu quá tập trung vào vấn đề chi tiết mà không nâng lên tầm
chính sách, ví dụ: vấn đề nhà công vụ, vấn đề y tế, tham nhũng…Ngoài ra,
việc trả lời chất vấn còn không đi thẳng trực tiếp vào vấn đề, nhất là trách
nhiệm của mình mà còn vòng vo, nhiều khi lại liệt kê thành tích của ngành, né
tránh trách nhiệm hoặc thanh minh đổ lỗi cho khách quan hay cơ quan khác
dẫn đến thiếu thời gian vào phần việc chính của hoạt động chất vấn tại kỳ
họp. Trong những trường hợp như vậy, Quốc hội cũng chưa có thái độ
nghiêm khắc nhắc nhở người bị chất vấn; hậu quả pháp lý của hoạt động
chất vấn chưa được bảo đảm cũng như sự quy kết trách nhiệm chưa trở
thành thói quen. Do vậy, mà hiệu quả hoạt động chất vấn nói riêng và hiểu
7
quả hoạt động của kỳ họp Quốc hội đôi lúc kém hiệu quả chưa đi vào chiều
sâu.
Sở dĩ có những tồn tại trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, các cơ quan chuẩn bị báo cáo, đề án trình ra Quốc hội chưa
cung cấp đầy đủ kịp thời các thông tin, tư liệu cần thiết; sự phối hợp giữa cơ
quan trình đề án và các cơ quan thẩm tra của Quốc hội có lúc chưa thật chặt
chẽ thậm chí tránh né những vấn đề phức tạp nên khi dự thảo được đưa ra
trước kỳ họp Quốc hội còn nhiều tồn đọng dẫn đến thời gian tranh luận kéo
dài.
Thứ hai, Quốc hội còn thiếu các cơ quan chuyên môn tham mưu về
kiểm toán, thẩm định các vấn đề kinh tế, khoa học, công nghệ, môi trường…
Bộ máy giúp việc hiện nay của Quốc hội chưa đủ mạnh để tham mưu, phục
vụ Quốc hội xem xét, quyết định những vấn đề khó khăn, phức tạp, đặc biệt
là những vấn đề có tính chuyên sâu.
Thứ ba, một số điều kiện đảm bảo cho việc tổ chức, tiến hành kỳ họp
Quốc hội như chế độ cung cấp thông tin, tư liệu phục vụ cho việc xem xét,
thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước tuy đã được quy
định trong các văn bản pháp luật, nhưng chưa đáp ứng được trên thực tế.
Thứ tư, năng lực, trình độ của một bộ phận đại biểu Quốc hội do cơ
cấu chưa đáp ứng được yêu cầu “phản biện” lại những vấn đề quan trọng
trình ra kỳ họp Quốc hội xem xét, thông qua. Ngoài ra, cũng phải nói đến
trách nhiệm của một số đại biểu Quốc hội chưa cao nên vẫn còn tình trạng
một số đại biểu đọc sơ quan thậm chí không ngó gì đến tài liệu trước khi dự
kỳ họp Quốc hội.
Thứ năm, các quy định pháp luật về tổ chức, điều hành cũng như hoạt
động tại kỳ họp như quy trình về trình tự, thủ tục quyết định tổ chức bộ máy
nhà nước, bầu và phê chuẩn các chức danh cấp cao trong bộ máy nhà nước
hay quy trình thủ tục thông qua dự án luật còn một số điểm bất cập, nhiều
thủ tục chưa phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
8
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA KỲ HỌP QUỐC HỘI TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
3.1. Giải pháp về việc lập kế hoạch, chuẩn bị cho kỳ họp Quốc
hội.
Trước hết, tại mỗi kỳ họp Quốc hội cần có sự phân công, phối hợp cụ
thể, chu đáo giữa các cơ quan, đơn vị tham gia phục vụ, tổ chức kỳ họp trên
cơ sở rà soát chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng bộ phận. Theo
hướng này, cần phát huy kinh nghiệm lập chương trình làm việc của kỳ họp
một cách chi tiết; cân đối thời gian giữa các nội dung thảo luận; có tính đến
yêu cầu về mặt thời gian để tiếp thu, xử lý các ý kiến của đại biểu Quốc hội
thảo luận về dự án luật, hoàn chỉnh nghị quyết. Với yêu cầu tăng cường sự
tham gia của các uỷ ban vào hoạt động của Quốc hội, cũng cần phát huy vai
trò của các uỷ ban trong việc gút lại các vấn đề thảo luận; tạo điều kiện cho
các ủy ban làm việc cả trong thời gian Quốc hội họp.
Sau đó, cần thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về việc cung
cấp kịp thời tài liệu kỳ họp cho các đại biểu Quốc hội. Theo hướng đó, cần
tăng thêm thời gian mà các cơ quan có trách nhiệm phải gửi những dự thảo đề
án, báo cáo đến các đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội để xem
xét trước khi khai mạc kỳ họp. Làm được việc này sẽ tạo điều kiện cho việc
xem xét kỹ lưỡng những vấn đề mà Quốc hội sẽ thảo luận, quyết định tại kỳ
họp.
Ngoài ra, nên tăng cường hơn nữa các điều kiện vật chất, kỹ thuật đảm
bảo phục vụ có hiểu quả các kỳ họp Quốc hội như: bảo đảm sự thuận tiện
và hiệu quả của các dịch vụ phục vụ kỳ họp như cung cấp thông tin, liên lạc,
báo chí, in ấn tài liệu và cả những điều kiện ăn uống, nghỉ ngơi để các đại
biểu có thể hoàn thành khối lượng công việc lớn với cường độ cao tại các
phiên họp của Quốc hội. Yêu cầu chung đặt ra là các điều kiện làm việc này
9
phải tạo sự thuận tiện, hiệu năng để phục vụ một cách kịp thời, đầy đủ, chu
đáo cho hoạt động của Quốc hội tại kỳ họp.
Không những vậy, cũng cần kiện toàn và củng cố đội ngũ cán bộ phục
vụ kỳ họp Quốc hội. Theo đó, để công tác phục vụ kỳ họp được tiến hành có
hiệu quả hơn, cần thiết phải chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ, nhân viên
theo hướng chuyên sâu về nghiệp vụ. Do vậy, cần có các hình thức tập huấn,
bồi dưỡng nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tổng hợp, ghi biên bản và việc xử lý
thông tin có nội dung liên quan đến chương trình nghị sự của Quốc hội.
3.2. Giải pháp về điều hành kỳ họp.
Việc điều hành kỳ họp gắn liền với vai trò và trách nhiệm của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội. Chính cơ quan này xem xét và quyết định trình Quốc hội
dự kiến nội dung chương trình làm việc của kỳ họp và cách thức thảo luận,
xem xét, quyết định các vấn đề tại kỳ họp. Ở khía cạnh tổ chức, điều hành
kỳ họp, nên nghiên cứu, chọn những vấn đề nổi cộm để tập trung thảo luận,
đi đến quyết định. Ví dụ, thay cho việc thảo luận chung về tình hình kinh tế
xã hội, ngân sách, cần tập trung thảo luận về những vấn đề ở tầm Quốc hội;
thảo luận để đi đến quyết định chứ không chỉ nêu vấn đề; thay việc ban hành
một nghị quyết chung về tình hình kinh tế xã hội bằng những nghị quyết cụ
thể về những nội dung cấp thiết mà Quốc hội thấy cần tỏ rõ chính kiến của
mình.
Ngoài ra, chủ toạ khi thảo luận thông qua luật cũng cần theo dõi chặt
chẽ hơn nữa các ý kiến của đại biểu để yêu cầu các cơ quan chức năng giải
trình đầy đủ, tránh tình trạng giải trình không hết các ý kiến, kiến nghị nên
nhiều ý kiến phải nói đi nói lại nhiều lần, tốn thêm thời gian.
3.3. Giải pháp về quy trình thảo luận và thông qua các dự án, đề
án, báo cáo tại kỳ họp.
10
Trong thời gian tới, cũng nên nghiên cứu để đổi mới quy trình thảo luật
và thông qua các dự án, đề án, báo cáo tại kỳ họp. Theo hướng đó, Quốc hội
cần tiến hành xem xét các dự án, đề án, báo cáo qua các bước:
Bước một, xem xét và biểu quyết để thống nhất những vấn đề chung
đã được đề cập trong các dự án, đề án, báo cáo. Ở bước này, Quốc hội kiểm
tra lại cơ cấu, bố cục về nội dung các vấn đề mà cơ quan có thẩm quyền dự
kiến trình ra Quốc hội xem đã đầy đủ, toàn diện theo yêu cầu của Quốc hội
chưa? Có cần điều chỉnh, bổ sung những vấn đề gì và yêu cầu soạn thảo lại
để trình Quốc hội biểu quyết thông qua. Nói cách khác, bước này là bước để
Quốc hội xác định những nội dung trọng tâm và việc thể hiện nội dung đó
qua hình thức trình bày chủ yếu trên những khía cạnh then chốt.
Bước hai, Quốc hội lần lượt thảo luận kỹ lưỡng từng vấn đề sau khi
đã biểu quyết, thông qua việc điều chỉnh, bổ sung và được Quốc hội cho ý
kiến ở bước một. Trong bước này, Quốc hội thảo luận cụ thể và chi tiết
những vấn đề được đề cập trong các dự án, đề án, báo cáo cũng như mối liên
hệ hữu cơ những vấn đề trong toàn văn dự thảo văn bản, Quốc hội biểu
quyết từng vấn đề cụ thể ở bước này. Quốc hội không nên sa vào thảo luận
những tiểu tiết, những câu chữ, lối hành văn… để tránh lãng phí thời gian.
Bước ba, sau khi đã trải qua quá trình xem xét vừa tổng thể, vừa toàn
diện ở bước một và bước hai, Quốc hội biểu quyết thông qua toàn văn văn
bản.
Trải qua ba bước như trên, Quốc hội sẽ vừa tiết kiệm thời gian mà vẫn
đạt được những hiệu quả trong việc thảo luận và thông qua các dự án, đề án,
báo cáo tại kỳ họp.
3.4. Giải pháp về việc chất vấn và trả lời chất vấn.
11
Trong thời gian tới, cần cải tiến cách thức chất vấn và trả lời chất vấn
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của kỳ họp Quốc hội. Để đổi
mới hoạt động này, cần thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, cần có quy định cụ thể về nội dung, thủ tục, trình tự và việc
xử lý kết quả hoạt động chất vấn. Trong hoạt động của Quốc hội nước ta,
mặc dù vấn đề này đã được quy định ở một số văn bản pháp luật như Luật
Tổ chức Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại
biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội nhưng chưa cụ thể. Vì vậy, việc
chất vấn và trả lời chất vấn chưa thực sự là một hình thức giám sát hữu hiệu
tại kỳ họp Quốc hội.
Thứ hai, cần phân biệt giá trị pháp lý giữa chất vấn và câu hỏi thường.
Chất vấn là hoạt động của những chủ thể được pháp luật quy định kèm theo
các thủ tục cũng như hậu quả pháp lý. Còn câu hỏi thường là nhằm mục đích
tìm hiểu thông tin, đáp ứng nhu cầu có tính nhận thức.
Thứ ba, có sự lựa chọn vấn đề trong nội dung các câu chất vấn. Đại
biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội khi đặt câu hỏi chất vấn cần xác
định cụ thể nội dung và nhằm đúng đối tượng cần chất vấn. Đoàn thư ký kỳ
họp cần xác định những vấn đề nổi cộm, được đông đảo nhân dân quan tâm
để đề nghị Đoàn chủ tịch đưa ra những nội dung cần thiết vào chương trình
chất vấn và trả lời chất vấn.
Thứ tư, về phía những người bị chất vấn, cần nhận thức đầy đủ về
mục đích và yêu cầu của chất vấn, trả lời chất vấn và phải coi đây là hoạt
động tích cực, để thông qua đó, công việc quản lý, điều hành của mình được
chấn chỉnh cho tương xứng với nhiệm vụ. Vì vậy, những người bị chất vấn
cần chuẩn bị kỹ nội dung liên quan đến các câu hỏi được nêu ra, chủ động
ứng phóc với những câu hỏi phát sinh từ câu hỏi chính. Việc trả lời phải
nhằm trúng vấn đề, không sa vào giải trình lan man dễ dẫn đến sai lệch chủ
đề chất vấn.
12
Thứ năm và cũng là điều quan trọng hơn cả là vấn đề hiệu lực của chất
vấn. Từ trước đến nay, việc chất vấn và trả lời chất vấn chưa đặt vấn đề xử
lý những chất vấn đúng hay sai, bản chất sự việc và trách nhiệm của người
bị chất vấn với tư cách là thủ trưởng của một cơ quan Nhà nước. Để nâng
cao hiệu lực của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn cần thiết phải xác
định cụ thể bằng các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội hoặc Nội quy kỳ
họp Quốc hội về vấn đề này.
3.5. Giải pháp về đại biểu Quốc hội.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại các kỳ họp Quốc hội, các quy
định của pháp luật nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo được sự tham
gia hơn nữa của các đại biểu Quốc hội đặc biệt là các đại biểu Quốc hội
chuyên trách.
Không những vậy, phải luôn không ngừng nâng cao chất lượng đại biểu
Quốc hội, đại biểu phải có chất lượng, có “tâm”, có “tầm”, có trách nhiệm
trước Quốc hội, trước nhân dân, phải đảm bảo cho mỗi đại biểu đủ điều
kiện để hoàn thành được nhiệm vụ, quyền hạn của mình tại kỳ họp. Mặt
khác, các đại biểu Quốc hội cũng phải tự mình hoàn thiện qua học tập, bồi
dưỡng kiến thức; qua môi trường thực tế mà rèn luyện năng lực bản thân và
kỹ năng đại biểu. Có như vậy thì hoạt động tại kỳ họp mới ngày càng được
nâng cao.
13
KẾT LUẬN
Kỳ họp Quốc hội là hoạt động chủ yếu của Quốc hội, có ý nghĩa và
tầm quan trọng đặc biệt để thông qua đó Quốc hội xem xét, thảo luận và ban
hành các quyết định ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của Nhà nước, quyền
và nghĩa vụ của mỗi người dân. Kết quả của kỳ họp Quốc hội là biểu hiện
rõ nhất quá trình chuẩn bị, tổ chức và tiến hành kỳ họp, trong đó, có sự tham
gia của nhiều chủ thể ở trong và ngoài Quốc hội, trong đó, các đại biểu và cơ
quan Quốc hội là những chủ thể quan trọng nhất.
Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Quốc hội, trước hết, chính
là tăng cường tính chuyên trách, chuyên nghiệp của các chủ thể này. Việc cải
tiến quy trình, thủ tục tổ chức, tiến hành kỳ họp Quốc hội sẽ góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của kỳ họp và cả Quốc hội nói chung. Vì
thế, từ việc trao đổi, xác định những nội dung cần cải tiến về kỳ họp Quốc
hội, bước tiếp theo rất quan trọng là có giải pháp thực hiện để chất lượng
của các kỳ họp không ngừng được nâng cao.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật Hiến pháp Việt
Nam, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2005.
3. Phan Đình Khánh, Phạm Đức Bảo, Tìm hiểu Hiến pháp Việt Nam –
Một số vấn đề cơ bản về Hiến pháp, Nxb. Tp Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh, 1996.
4. Lê Thanh Vân, Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của
Quốc hội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.
5. Ngô Đức Mạnh, “Tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội
tại kỳ họp”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 6/2008.
6. Bùi Ngọc Thanh, “Sửa đổi quy trình, thủ tục tiến hành kỳ họp”, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp, số 10/2009.
7. Bùi Ngọc Thanh, “Tổ chức các kỳ họp Quốc hội”, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, số 10/2008.
8. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
15
9. Luật tổ chức Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
10. Nội quy kỳ họp Quốc hội.
16