Trần Thị Tú Anh – QT33D041
MỤC LỤC
A.L I NÓI U ...................................................................................................... 1
I. NH NG NH N NH CHUNG V TR NG T IÀ .......................................... 1
1. TR NGỌ TÀI VÀ TH MẨ QUY NỀ XÉT XỬ C AỦ TR NGỌ TÀI ........................................................................................................... 1
1.3. Thẩm quyền xét xử của trọng tài ....................................................................................................................... 3
2. THỦ T CỤ TỐ T NGỤ TR NGỌ TÀI .......................................................................................................................................... 5
2.1. Thủ tục tố tụng trọng tài ................................................................................................................................... 5
2.3. Ưu thế của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với toà án ................................................................. 7
3. PHÁN QUY TẾ TR NGỌ TÀI .................................................................................................................................................. 8
3.1. Khái niệm phán quyết trọng tài ........................................................................................................................ 8
3.2. Hiệu lực của phán quyết trọng tài .................................................................................................................... 8
4. THI HÀNH PHÁN QUY TẾ TR NGỌ TÀI .................................................................................................................................... 9
4.1. Thi hành phán quyết trọng tài trong nước ........................................................................................................ 9
II. TH C TI N GI I QUY T TRANH CH P TH NG M I B NG
TR NG T I VI T NAM V M T S KI N NGH CÓ LIÊN QUANÀ À ... 11
1. QUI NHĐỊ HI NỆ HÀNH VỀ TR NGỌ TÀI Ở VI TỆ NAM ........................................................................................................... 11
3. Thực tiền giải quyết tranh chấp thương mại tại VIAC ....................................................................................... 12
4. M TỘ SỐ KI NẾ NGHỊ IĐỐ V IỚ CÁC TRUNG TÂM TR NGỌ TÀI Ở VI TỆ NAM ................................................................................ 13
5. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài .................................................. 13
K T LU N ............................................................................................................. 15
A. LỜI NÓI ĐẦU
Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã và đang phát triển
và phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới theo nền kinh tế thị trường và xu hướng sử dụng
các biện pháp ngoài toà án (ADR) đã mang tính toàn cầu. Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu hướng đó. Trọng tài Việt nam tuy đã ra đời từ rất lâu song hoạt động chưa có hiệu quả
do cơ chế pháp luật về trọng tài còn nhiều bất cập và một phần do các thương nhân chưa
hiểu rõ về cách giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Mới đây, Quốc hội Việt Nam đã ban
hành Luật trọng tài thương mại 2010 nhằm khắc phục những thiếu sót về luật từ trước tới
nay, tạo điều kiện cho trọng tài thương mại ở nước ta phát triển. Trong điều kiện đó, tôi đã
chọn đề tài “Trọng tài thương mại, một phương thức giải quyết tranh chấp” làm đề tài
nghiên cứu bài tập học kỳ với mong muốn nâng cao hơn nữa nhận thức của cá nhân trong
vấn đề này.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ TRỌNG TÀI
1. Trọng tài và thẩm quyền xét xử của Trọng tài
1.1. Khái niệm
Trọng tài thương mại được hiểu ngắn gọn là trọng tài giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực thương mại. Luật Thương mại Việt Nam quy định rõ trong điều 5 rằng
“hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi của thương nhân, bao gồm
1
Trần Thị Tú Anh – QT33D041
việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội. Dịch vụ
thương mại gồm những dịch vụ gắn liền với việc mua bán hàng hoá. Xúc tiến thương mại là
hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương
mại”. Như vậy là Luật thương mại quy định khái niệm “thương mại” theo nghĩa hẹp, tức là
chỉ các hoạt động mua bán hàng hoá và những hoạt động gắn với việc mua bán hàng hoá.
Trong phần chú thích của Điều 1 Luật mẫu UNCITRAL, người ta cho rằng “khái
niệm thương mại cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất
cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hợp đồng hay không. Quan hệ có bản chất
thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn với các giao dịch sau đây: bất kì giao dịch
buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hay dịch vụ, hợp đồng phân phối; đại
diện thương mại hay đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn
thiết kế cơ khí, li-xăng. đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc
chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh,
vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường
bộ”. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Luật mẫu UNCTRAL đã đưa ra gợi ý về một phạm
vi khái niệm thương mại rất rộng so với khái niệm thương mại của Việt Nam.
Từ đó, rút ra khái niệm trọng tài thương mại là quá trình giải quyết tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực thương mại do các bên tự nguyện lựa chọn trong đó bên thứ ba trung lập
(trọng tài) sau khi nghe các bên trình bày sẽ đưa ra một quyết định (phán quyết trọng tài) có
tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp
1.2 Các loại trọng tài
Trong những năm gần đây, số lượng những vụ tranh chấp trong thương mại quốc tế
được giải quyết bằng trọng tài ngày càng tăng. Các tổ chức trọng tài phi chính phủ đã phát
triển mạnh mẽ chưa từng thấy ở khắp các nơi trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương, nơi được coi là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Ở
các quốc gia khác nhau, trọng tài thương mại phi chính phủ có những tính chất, đặc điểm
khác biệt, phù hợp với trình độ và đặc điểm phát triển kinh tế –xã hội của mỗi nước. Tuy
vậy, nhìn chung, chúng ta có thể chia trọng tài kinh tế phi chính phủ ra làm hai loại chính
dựa trên phương pháp tiến hành tố tụng:
* Trọng tài vụ việc (Ad-hoc arbitration)
Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài mà do các bên tự thành lập để giải quyết vấn
đề họ yêu cầu, sau khi giải quyết xong vụ tranh chấp thì giải tán. Như vậy, trọng tài đặc
biệt hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự do thoả thuận của các bên tranh chấp. Các bên tranh
chấp có toàn quyền lựa chọn bất kỳ một người nào làm trọng tài viên để giải quyết tranh
chấp của mình. Người này chỉ cần được các bên nhất trí chứ không bị giới hạn bởi bất kỳ
một điều kiện nào nhưng nếu các bên thống nhất lựa chọn một người không đủ khả năng thì
chính họ là người sẽ phải gánh chịu hậu quả do sự đề cử của mình đem lại. Do đó, trọng tài
viên thường là người có uy tín, kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ trong lĩnh vực thương
mại quốc tế và công minh trong xét xử. Ngoài ra, các bên tranh chấp còn có toàn quyền
trong việc thoả thuận để tự thiết lập những thủ tục, nguyên tắc tố tụng riêng sao cho phù
hợp với tranh chấp của mình chứ không nhất thiết phải tuân theo bất kỳ một nguyên tắc sẵn
2
Trần Thị Tú Anh – QT33D041
có nào. Nhưng họ cũng có thể thoả thuận chấp nhận một hệ thống quy định mẫu về trọng
tài, điển hình như Bản quy tắc trọng tài của UNCITRAL thông qua ngày 28/4/1976 hay
Luật mẫu UNCITRAL thông qua ngày 21/6/1985. Như vậy, tổ chức và tố tụng của trọng tài
đặc biệt khá đơn giản, có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí của các bên liên quan. Tuy
nhiên trên thực tế, hình thức trọng tài đặc biệt chỉ thích hợp với những tranh chấp có giá trị
nhỏ, hoặc giữa các bên đương sự am hiểu pháp luật, dày dạn trên thương trường và có nhiều
kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp.
Ở Việt Nam, trước đây chưa có qui định cụ thể về hình thức trọng tài đặc biệt này.
Tuy nhiên, Pháp lệnh trọng tài thương mại có hiệu lực từ ngày 01/7/2003 đã đưa ra qui định
về loại hình trọng tài này tại điều 26, chính thức công nhận loại hình trọng tài này và đồng
thời cũng đã đưa ra được giải pháp đối với hạn chế nêu trên của trọng tài Ad-hoc.
* Trọng tài thường trực hay trọng tài qui chế (Institutional Arbiration)
Trọng tài thường trực là trọng tài được thành lập ra và hoạt động thường xuyên theo
một quy chế nhất định, có cơ quan thường trực (trung tâm trọng tài). Đối với trọng tài
thường trực, khi lựa chọn trọng tài viên, các bên thường chỉ được lựa chọn trong một danh
sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài, hoặc ít nhất trọng tài viên cũng phải đáp ứng
được một số điều kiện tối thiểu do trung tâm trọng tài đặt ra. Khi xét xử, trọng tài thường
trực phải tuân theo qui tắc tố tụng đã định trước của trung tâm. Như vậy, đối với hình thức
trọng tài thường trực, quyền tự do của các bên bị hạn chế một phần nên có thể coi trọng tài
thường trực là hình thức trung gian giữa trọng tài đặc biệt và toà án. Tuy nhiên, đây cũng là
thuận lợi cho các bên chưa có nhiều kinh nghiệm trong thương mại quốc tế bởi vì các bên
tranh chấp không cần phải qui định quá chi tiết về qui tắc, thủ tục tố tụng mà chỉ cần qui
định trung tâm trọng tài nào sẽ giải quyết tranh chấp giữa các bên và chấp nhận qui tắc tố
tụng của trung tâm trọng tài đó.
Hình thức trọng tài thường trực có rất nhiều ưu điểm, với một điều lệ và quy tắc tố
tụng độc lập, tương đối ổn định, với thực tiễn và kinh nghiệm phong phú được tích luỹ qua
quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, với một đội ngũ những trọng tài viên là những
chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (thương mại quốc tế, hàng hải quốc tế, thanh
toán quốc tế, luật quốc tế...) khiến cho quá trình tố tụng diễn ra một cách nhanh chóng và
hiệu quả.
Ở Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp
Việt Nam được thành lập theo quyết định số 204/TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày
28/4/1993, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài hàng hải và Hội đồng trọng tài ngoại
thương. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có nhiệm vụ xét xử các tranh chấp phát sinh
từ quan hệ kinh tế quốc tế và từ ngày 15/4/1996, Trung tâm được phép mở rộng thẩm quyền
xét xử sang các quan hệ kinh tế phát sinh trong nước. Trung tâm hoạt động theo điều lệ
riêng, xét xử theo quy tắc tố tụng riêng và là tổ chức trọng tài thương mại có uy tín nhất
hiện nay ở Việt Nam.
1.3. Thẩm quyền xét xử của trọng tài
Ở các nước trọng tài được lập ra để xét xử các tranh chấp phát sinh trong thương mại và
nhiều lĩnh vực khác. Nhưng đối với một tranh chấp cụ thể thì trọng tài không có thẩm
quyền đương nhiên. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên giao tranh chấp trong
3
Trần Thị Tú Anh – QT33D041
thương mại cho trọng tài giải quyết chứ trọng tài không thể tự mình đem tranh chấp ra xét
xử. Trong hoạt động ngoại thương, thẩm quyền xét xử của trọng tài đối với các tranh chấp
cụ thể có thể được quy định trong hợp đồng, trong một văn bản thoả thuận riêng về trọng tài
giữa các bên, hoặc trong điều ước quốc tế có liên quan.
Theo thoả thuận trọng tài
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết đưa ra trọng tài để giải quyết tất cả
hoặc một số loại tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau về một quan hệ pháp luật nhất định,
theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới dạng một điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc một văn bản thoả thuận riêng (điều 7.1 Luật mẫu
UNCITRAL).
Trong khi đàm phán, ký kết hợp đồng, các bên có thể thoả thuận điều khoản về trọng
tài, trong đó qui định trọng tài nào có quyền giải quyết tranh chấp có thể phát sinh sau này.
Điều khoản trọng tài này trở thành một phần của hợp đồng. Khi đó, điều khoản trọng tài
trong hợp đồng được coi là một hình thức của thoả thuận trọng tài. Tất nhiên, vào lúc này
chưa thể xác định được tranh chấp có xảy ra hay không và xảy ra tranh chấp gì. Vì vậy, điều
khoản trọng tài thường mang tính tổng quan, không đi vào chi tiết, tuy nhiên sẽ rất thuận lợi
nếu các bên thống nhất về việc chọn cơ quan trọng tài nào, ở đâu có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp cũng như thống nhất về thể thức chỉ định trọng tài viên.
Trong bản quy tắc trọng tài UNCITRAL 1976, điều 21 đã có quy định về vấn đề này.
Như vậy, điều khoản trọng tài trong hợp đồng là độc lập tương đối so với hợp đồng
vì nó được coi như một dạng của thoả thuận trọng tài. Có nghĩa là khi hợp đồng vô hiệu thì
điều khoản trọng tài vẫn có hiệu lực trừ phi người ký kết hợp đồng không đủ năng lực hành
vi
Nếu trong hợp đồng không có điều khoản trọng tài, thì trong quá trình thực hiện hợp
đồng, thường là khi tranh chấp đã xảy ra nhưng cũng có thể là khi tranh chấp chưa xảy ra,
các bên cũng có thể ký một văn bản thoả thuận giao tranh chấp cho một tổ chức trọng tài
nào đó giải quyết; thoả thuận này, cũng có thể được ghi nhận qua việc trao đổi thư từ hoặc
điện tín ( sau đây gọi chung là văn bản trọng tài). Văn bản trọng tài cũng được coi là một
hình thức của thoả thuận trọng tài.
Thoả thuận trọng tài là cơ sở để khẳng định thẩm quyền của trọng tài đối với tranh
chấp trong thương mại quốc tế. Về nội dung thì một thoả thuận trọng tài phải hàm chứa các
nội dung sau
• Cơ quan giải quyết tranh chấp
• Quy tắc tố tụng trọng tài đước áp dụng
• Trọng tài viên được chỉ định để giải quyết tranh chấp
• Địa điểm giải quyết tranh chấp
Hầu hết luật pháp các nước đều quy định thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn
bản, tuy nhiên có những nước qui định thoả thuận trọng tài có thể lập bằng miệng. Công
ước New york 1958, công ước Châu Âu 1961 đều qui định rằng: thoả thuận trọng tài phải
được lập thành văn bản tuy nhiên lại có cách giải thích khác nhau về hình thức văn bản của
thoả thuận trọng tài. Công ước New york 1958 khẳng định: “một thoả thuận trọng tài bằng
4
Trần Thị Tú Anh – QT33D041
văn bản được hiểu là điều khoản trọng tài trong một hợp đồng bằng văn bản thoả thuận
trọng tài được các bên ký kết bằng văn bản độc lập với hợp đồng hoặc được ghi nhận trong
việc trao đổi thư từ hoặc điện tín”. Trong Luật trọng tài thương mại 2010 qui định thoả
thuận trọng tài phải được làm bằng văn bản, bao gồm cả những hình thức như thư từ, tài
liệu trao đổi giữa các bên. Những qui định không giống nhau này làm phát sinh khó khăn
trong việc giải quyết tranh chấp khi có sự xung đột pháp luật về hình thức của thoả thuận
trọng tài.
Thoả thuận trọng tài sẽ là vô hiệu khi trái với qui định của pháp luật về nội dung và
hình thức của thoả thuận. Ngoài ra thoả thuận sẽ không có hiệu lực khi người kí kết thoả
thuận không có đủ năng lực hành vi theo qui định của luật pháp.
Theo điều ước quốc tế
Việc giao tranh chấp cho trọng tài thương mại xét xử cũng có thể được quy định trong
các điều ước quốc tế. Trước đây, trong Điều kiện chung giao hàng giữa các nước thành viên
khối SEV qui định trọng tài của bên bị kiện có thẩm quyền xét xử tranh chấp giữa các bên
mua bán hàng hoá. Hiện nay, bản Điều kiện chung giao hàng này không còn hiệu lực nữa.
Trong các điều ước quốc tế hai bên hay nhiều bên đang có hiệu lực không có qui định về
thẩm quyền của trọng tài. Từ đó rút ra thẩm quyền của trọng tài hiện nay chỉ do các bên
đương sự lập ra.
Ngoài việc chấp nhận xét xử tranh chấp ra, trọng tài còn có thể từ chối không xét xử
tranh chấp mặc dù hai bên tranh chấp có thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử tài cơ quan
trọng tài. Đây có thể là những trưòng hợp trọng tài xét thấy rằng tranh chấp đó không thuộc
thẩm quyền của mình hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu do qui định pháp luật của một trong
hai bên tranh chấp mà họ không biết.
2. Thủ tục tố tụng trọng tài
2.1. Thủ tục tố tụng trọng tài
Thủ tục tố tụng trọng tài thương mại quốc tế được tiến hành theo đúng quy tắc tố
tụng của tổ chức trọng tài hoặc quy tắc tố tụng mà hai bên đã thống nhất lựa chọn. Mỗi
trung tâm trọng tài thương mại quốc tế ở một nước đều xây dựng cho mình một bản qui tắc
tố tụng phù hợp với đặc điểm luật pháp về trọng tài của nước đó. Tuy nhiên, để tăng sự hấp
dẫn của các trung tâm trọng tài quốc tế và để thuận tiện cho việc xét xử và công nhận phán
quyết trọng tài, hầu hết quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài quốc tế đều có xu thế
xích lại gần với quy tắc của trọng tài ICC và quy tắc của Luật mẫu UNCITRAL. Quá trình
tố tụng tại trọng tài quốc tế thường bao gồm các bước như: đơn kiện, chọn và chỉ định trọng
tài viên, công tác điều tra trước khi xét xử, phiên họp xét xử, kết thúc xét xử...
Theo một cách thông thường nhất, tố tụng trọng tài sẽ bắt đầu khi đơn kiện của
nguyên đơn được gửi tới trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài xem xét đơn yêu cầu và
bản tường trình nội dung tranh chấp, nếu thấy tranh chấp là đối tượng của thoả thuận trọng
tài và thoả thuận trọng tài giữa các bên là có giá trị hiệu lực pháp lý thì quá trình tố tụng sẽ
bắt đầu và tiếp tục với việc hình thành một hội đồng trọng tài
Hội đồng trọng tài được chọn và thành lập theo đúng thoả thuận của các bên. Trong
việc hình thành hội đồng trọng tài thì việc quan trọng nhất là việc chọn và chỉ định trọng tài
viên.
5
Trần Thị Tú Anh – QT33D041
Thời gian chọn lựa và chỉ định trọng tài viên có thể do các bên thoả thuận. Thời gian
này phải hợp lý, đảm bảo cho các bên lựa chọn được trọng tài phù hợp đồng thời vẫn đảm
bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra nhanh chóng. Nếu các bên không thoả thuận
về vấn đề này thì sẽ căn cứ theo qui tắc tố tụng hoặc luật trọng tài có liên quan. Ví dụ theo
Luật mẫu UNCITRAL, các bên trong vòng 30 ngày không chỉ định trọng tài sẽ mất quyền
chỉ định trọng tài và khi đó tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác sẽ thay mặt các bên chỉ
định trọng tài viên. Theo quy tắc của Hiệp hội trọng tài Hoa kỳ thì thời gian này là 10 ngày,
theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam thì thời hạn này là từ 30 ngày
đến 2 tháng.
Pháp luật trọng tài của các nước khác nhau cũng quy định cách thức lựa chọn trọng
tài viên khác nhau. Thông thường nếu tranh chấp được giải quyết bằng Hội đồng trọng tài
gồm ba trọng tài viên thì mỗi bên (nguyên đơn, bị đơn) chọn một trọng tài viên. Hai trọng
tài được chọn sẽ bầu một trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách trọng tài của trung
tâm làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Nếu tranh chấp được giải quyết bằng một trọng tài
viên duy nhất thì các bên tự thương lượng chọn ra. Đây là phương thức chọn lựa phổ biến
nhất theo thông lệ quốc tế, ngoài ra mỗi nước có thể có các cách qui định khác.
Các bên được quyền lựa chọn và chỉ định trọng tài viên thì cũng có quyền từ chối
trọng tài viên do chính họ chỉ định. Luật mẫu UNCITRAL quy định: “một trọng tài viên có
thể bị từ chối nếu có thể gây nên những nghi ngờ chính đáng về sự công minh và tính độc
lập khách quan của mình, hoặc khi trọng tài viên không đủ điều kiện và trình độ chuyên
môn như các bên đã thoả thuận.” Quy tắc trọng tài của tung tâm trọng tài quốc tế Singapore
cũng quy định: bất kỳ trọng tài viên nào cũng có thể bị khước từ,.. một bên chỉ có thể khước
từ trọng tài viên do chính mình chỉ định. Phù hợp với thông lệ quốc tế, quy tắc tố tụng
VIAC cũng có những quy định tương tự. Điều 11 quy tắc tố tụng VIAC cũng quy định:
“Các bên đương sự có quyền khước từ trọng tài viên… nếu đương sự nghi ngờ về sự vô tư
của trọng tài viên.”
Sau khi thành lập hội đồng trọng tài, hoạt động tố tụng trọng tài sẽ được tiếp tục với
thủ tục chuẩn bị xét xử. Địa điểm xét xử và ngôn ngữ xét xử cũng là một trong những yếu
tố quan trọng trong quá trình tố tụng, chi phí đi lại và phiên dịch có thể sẽ là không nhỏ nếu
các bên không khôn khéo trong vấn đề này. Tuy nhiên, nếu các bên không thể thống nhất
được vấn đề này thi Hội đồng xét xử sẽ quyết định.
Trong tố tụng trọng tài, nguyên đơn phải ứng trước lệ phí trọng tài theo quy định của
biểu phí trọng tài. Lệ phí trọng tài của các trung tâm trọng tài được quy định trong biểu phí
trọng tài căn cứ theo trị giá vụ kiên.
Trong quá trình tố tụng trọng tài, tính khách quan và việc xét xử công bằng phải được đảm
bảo. Hội đồng trọng tài xét xử không được có thành kiến với các bên khi tố tụng, các bên
phải được đối xử bình đẳng và được quyền trình bày về vụ việc. Các bên tranh tụng phải
được thông báo về việc mở phiên xử và có quyền tranh luận trực tiếp, đưa ra mọi phương
tiện chứng minh để bảo vệ lý lẽ của mình.
Tố tụng trọng tài sẽ được đình chỉ nếu các bên đạt được sự hoà giải. Biên bản hoà
giải (nếu được uỷ ban trọng tài chấp thuận) sẽ trở thành phán quyết trọng tài về điều kiện
được thoả thuận. Phán quyết này có giá trị hiệu lực như phán quyết về nội dung vụ kiện.
6