Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bài thảo luận nhóm: Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.84 KB, 20 trang )

Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU
Với những thắng lợi giành được trong thế  kỷ  XX, nước ta từ  một nước thuộc  
địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường 
xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu  
vực và trên thế  giới. Nhân dân ta từ  thân phận nô lệ  đã trở  thành người làm chủ  đất  
nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn, đã bước vào  
thời kỳ đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang làm được những thành tựu như  vậy 
là do nhận thức đúng đắn con đường đi lên xã hội chủ  nghĩa theo tư  tưởng Hồ  Chí 
Minh đồng thời vận dụng những quan điểm cách mạng và khoa học của chủ  nghĩa 
Mác ­ Lênin. Mối quan hệ  biện chứng giữa lượng và chất là một trong những quan 
điểm khoa học mà chứng ta đã và đang sử dụng một cách khá triệt để trong sự nghiệp 
phát triển đất nước. Bởi lẽ  quy luật đó cho ta biết cách thức, phương thức của quá 
trình vận động và phát triển của sự  vật, hiện tượng. Việc nhận thức được quy luật  
này đã đóng góp vai trò to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước ta không chỉ trong giai  
đoạn hiện nay và cả sau này.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như  vậy, sau đây, nhóm 6 xin trình bày về  chủ 
đề: “Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay”. 
Với khả  năng có hạn cùng những hạn chế  nhất định về  quỹ  thời gian, đề  tài không  
tránh khỏi những thiếu sót, Nhóm 6 rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy 
cô. 
Trân trọng cảm ơn!

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 1


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay



MỤC LỤC

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 2


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

I.

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN 

1.

Khái niệm

1.1.

Chất:

Là “tổng thể các thuộc tính cho biết đối tượng là gì?”
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ  tính quy định khách quan vốn có của sự 
vật, hiện tượng, đó là sự  thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố  cấu  
thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự  vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự 
vật, hiện tượng khác. Mỗi sự  vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn 
có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc 
tính, những yếu tố  cấu thành quy định. Thuộc tính của sự  vật là những tính chất,  

những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ 
khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.  
Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự  vật, hiện tượng chỉ  được bộc lộ  ra thông  
qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
Mỗi sự  vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một  
chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ 
chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể  tồn tại sự  vật 
không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện 
qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện 
chất của sự  vật. Thuộc tính của sự  vật có thuộc tính cơ  bản và thuộc tính không cơ 
bản.
Những thuộc tính cơ  bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự  vật. Chính 
chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng  
thay đổi hay mất đi thì sự  vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính của sự  vật 
chỉ  bộc lộ  qua các mối liên hệ  cụ  thể  với các sự  vật khác. Sự  phân chia thuộc tính  
thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, 
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 3


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

tùy theo từng mối quan hệ. Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những  
yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố  tạo thành, nghĩa là 
bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như 
nhau, song chất của chúng lại khác nhau.
Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa  
tương đối, song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vật không  
tách rời nhau: chất là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về chất của  

nó. Chất biểu hiện trạng thái tương đối ổn định của sự  vật, là sự  kết hợp tương đối 
trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền vững các thuộc tính của sự  vật, làm cho sự  vật này không 
hòa lẫn với sự  vật khác mà tách biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắn liền với  
lượng của sự vật.
1.2.

Lượng:

Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt  
số  lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự  vận động và phát triển cũng như  các  
thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. 
Lượng là cái khách quan, vốn có của sự  vật, quy định sự  vật ấy là nó. Lượng của sự 
vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích 
thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ  cao hay thấp, 
nhịp điệu nhanh hay chậm…
“Những lượng không tồn tại mà những sự vật có lượng hơn nữa những sự vật  
có vô vàn lượng mới tồn tại” – Engels.
Trong thực tế  lượng của sự  vật thường được xác định bởi những đơn vị  đo 
lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử 
nước bao gồm hai nguyên tử  hydrô liên kết với một nguyên tử  oxy,… bên cạnh đó có 
những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như  trình độ  nhận  
thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong  

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 4


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay


những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự  vật bằng con 
đường trừu tượng và khái quát hoá.
Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên 
tử  hợp thành nguyên tố  hoá học, số  lượng lĩnh vực cơ  bản của đời sống xã hội) có  
những lượng vạch ra yếu tố  quy định bên ngoài của sự  vật (chiều dài, chiều rộng,  
chiều cao của sự vật). Bản thân lượng không nói lên sự  vật đó là gì, các thông số  về 
lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự 
vật, đó là mặt không ổn định của sự vật.
2.

Nội dung quy luật

Mỗi sự  vật, hiện tượng là một thể  thống nhất bao gồm chất và lượng nhất 
định, trong đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự  biến đổi  
này tạo ra mâu thuẫn giữa lượng và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ  nhất định 
và trong những điều kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và  
chất được giải quyết, chất mới được hình thành với lượng mới, nhưng lượng mới lại  
biến đổi và phá vỡ  chất đang kìm hãm nó. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: 
chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại  
biến đổi dần để chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. Cứ căn cứ thế, quá trình động 
biện chứng giữa chất và lượng tạo nên cách thức vận động, phát triển của sự vật.
2.1.

Khái niệm độ:

Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ  sự thống nhất giữa lượng và chất, là  
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự 
vật, sự  vật chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn của độ, lượng và chất tác động  
biện chứng với nhau, làm cho sự vật vận động.
2.2.


Chu trình thay đổi: 

Từ  những thay đổi về  lượng dẫn đến sự  thay đổi về  chất. Trong mối quan hệ 
giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổ  định, còn lượng là mặt biến đổi hơn.  
Sự  vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ  sự  thay đổi về  lượng. 
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 5


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về  lượng cũng dẫn đến sự  thay đổi về  chất 
ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ  sự  thay đổi nào về  lượng cũng  ảnh hưởng đến trạng 
thái tồn tại của sự  vật. So với lượng thì chất thay đổi chậm hơn. Chỉ  khi nào lượng  
biến đổi đến một giới hạn nhất định (độ) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật  
không còn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thế nó.
Tại thời điểm lượng đạt đến một giới hạn nhất định để  vật thay đổi về  chất  
gọi là điểm nút. Điểm nút là phạm trù triết học dùng để  chỉ  thời điểm mà tại đó sự 
thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Ví dụ: 0c, 100c là điểm nút,  
tại những điểm nút đó nước từ  thể lỏng chuyển sang thể rắn và thể  hơi (thay đổi về 
chất).
Khi có sự thay đổi về chất diễn ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự  kết thúc 
một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự đứt đoạn trong liên tục, nó không chấm dứt sự 
vận động nói chung mà chỉ  chấm dứt một dạng vận động cụ  thể, tạo ra một bước 
ngoặt mới cho sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng trong một độ mới.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Bước nhảy để  chuyển hoá về  chất của 
sự  vật hết sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau. Những hình 
thức bước nhảy khác nhau được quyết định bởi bản thân của sự  vật, bởi những điều 

kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự  vật, có thể  phân chia  
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước nhảy 
được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ 
bản của sự  vật. Chẳng hạn, khối lượng Uranium 235(Ur 235)được tăng đến khối 
lượng tới hạn thì sẽ  xảy ra vụ  nổ  nguyên tử  trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là 
bước nhảy được thực hiện từ  từ, từng bước bằng cách tích luỹ  dần dần những nhân 
tố  của chất mới và những nhân tố  của chất cũ dần dần mất đi. Bước nhảy dần dần  
khác với sự thay đổi dần dần về lượng của sự vật. Bước nhảy dần dần là sự  chuyển 

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 6


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

hoá dần dần từ  chất này sang chất khác còn sự  thay đổi dần dần về  lượng là sự  tích  
luỹ liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hoá về chất.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ, có  
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các 
mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất  
của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Khi lượng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay 
thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới 
này tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ  như  vậy, quá  
trình vận động, phát triển của sự  vật diễn ra theo cách thức từ  những thay đổi về 
lượng dẫn đến những thay đổi về  chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất 
giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự  vận động,  
phát triển.

2.3.

Tác động ngược: 

Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về  lượng. Lượng thay 
đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động 
của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế 
chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới. Khi  
chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với  
lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có  
sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự  quy định này có thể  được biểu hiện ở  quy  
mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
3.

Ý nghĩa phương pháp luận:

Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dần những thay đổi  
về  lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện 
chín muồi.

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 7


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa 
biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.
Phải thấy được tính đa dạng của bước nhảy, nhận thức được từng hình thức  

bước nhảy, có thái độ   ủng hộ  bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được 
thực hiện kịp thời.
Phải có thái độ  khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội tủ  các  
điều kiện chín muồi.

II.

ÁP DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO SỰ  ĐỔI MỚI CỦA  

VIỆT NAM HIỆN NAY:
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, VN đã xây 
dựng được cơ sở vật chất­ kỹ thuật hạ tầng kinh tế ­ xã hội  diện mạo đất nước có 
nhiều thay đổi.
1.

Trước CM tháng 8:

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong  
kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, kinh  
tế  VN chìm đắm trong đói nghèo và lạc hậu. Nông nghiệp và công nghiệp chịu tác  
động nặng nề của chế độ thực dân kiểu cũ nên rất lạc hậu. 
Nông nghiệp nước ta hết sức nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật,  
hoàn toàn dựa vào lao động thủ  công và phụ  thuộc vào thiên nhiên. Năng suất các cây 
trồng rất thấp. Vào thời kỳ 1930­1944, năng suất lúa bình quân 12 tạ/ ha trong khi Thái 
Lan là 18 tạ/ ha, Nhật Bản là 34 tạ/ha. 
Sản xuất công nghiệp rất nhỏ bé và què quặt, chủ yếu là công nghiệp khai thác 
mỏ.
2.

Sau CMT8 đến năm 1975:


CMT8 thành công, chủ tịch HCM đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước 
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính phủ mới ra đời đã phải đối mặt với hàng loạt khó  
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 8


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

khăn và thách thức. Trong thời kỳ này, kình tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị 
trí đặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng năng suất,  
chính phủ từng bước cải cách về ruộng đất giảm tô, giảm tức.Nhờ đó trong các vùng  
giải phóng sản xuất nông nghiệp phát triển tăng 13.7% so với năm 1946, nhiều cơ  sở 
công nghệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu 
cho nhân dân được khôi phục và mở rộng. 
3.

Từ 1976 đến 1986:

Sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước, nhân dân VN đã đạt được 
những thành tựu:
Khôi phục cơ  sở công nghiệp , nông nghiệp, giao thông  ở  Miền Bắc, củng cố 
nền kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ở Miền bắc
XD lại các vùng nông thôn  ở  miền Nam bị  chiến tranh tàn phá, cải tạo và sắp 
xếp công thương nghiệp tư  doanh  ở  miền Nam, đưa bộ  phận nông dân Nam Bộ  và  
Nam Trung Bộ vào con đường làm ăn tập thể. 
Bước đầu phân bố lại lực lượng lao động xã hội.
Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong những năm này chưa tương xứng với sực lao  
động và vốn đầu tư bỏ ra, mất cân đối của nền kinh tế  quốc dân còn trầm trọng, thu  

nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội(không có tích lũy từ  nội bộ 
nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuát chỉ bằng 80­90% thu nhập  
quốc dân sử  dụng), thị  trường tài chính tiền tệ  không  ổn định(siêu lạm phát hoành 
hành, lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7%), đời sống nhân dân lao động  
còn khó khăn, lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành  
của Nhà nước giảm sút.
Nguyên nhân: Khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã 
nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần, dựa trên cơ sở công hữu XHCN  
về  tư  liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế  khác bị  coi là một bộ  phận đối lập với  
kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xóa bỏ, làm như  vậy chúng ta đã  
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 9


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

đẩy quan hệ  SX đi quá xa so với trình độ  phát triển của lượng lực sản xuất. Tạo ra 
mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém, với một bên là quan hệ sản  
xuất đã được xã hội hóa giả  tạo, dẫn đến kìm hãm sự  phát triển của LLSX. Hay nói  
cách khác, LLSX của chúng ta còn quá thấp kém,chưa tích lũy đủ  về lượng (tính chất  
và trình độ) đã vội thay đổi chất (Quan hệ  sản xuất) làm cho đất nước lâm vào tình 
trạng khủng hoàng kinh tế ­ xã hội.
Trong giai đoạn 1981­ 1985 nhiều Nghị  quyết và Quyết định quan trọng của  
Đảng và chính phủ  được ban hành từng bước nhằm sửa đổi cơ  chế  quản lý đối với 
kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tự nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp. Đại hội  
toàn quốc lần thứ  V bước đầu có cách nhìn mới về  nền kinh tế  nhiều thành phần.  
Thừa nhận nền kinh tế miền Bắc tồn tại 3 thành phần: quốc doanh, tập thể và cá thể. 
Nền kinh tế  phía Nam gồm 5 thành phần: quốc doanh, tập thể, công tu hợp danh, tư 
bản tư  nhân và cá thể.Đó là bước khởi đầu cho sự  thay đổi cơ  cấu các chủ  thể  sản 

xuất kinh doanh tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường.
4.

Thời kỳ 1986 đến nay

Trước tình hình khó khăn đó, đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định 
thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về  mặt tư  duy kinh  
tế. Tích cực đến sự  phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ, khuyến khích các 
thành phần kinh tế  ngoài quốc doanh mở  rộng sản xuất để  thu hút vốn đầu tư  phát  
triển công nghiệp.
Năng suất lúa không ngừng tăng, không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà VN 
đã xuất khẩu lương thực ra quốc tế, sản lượng không ngừng tăng. Từ  nước thiếu 
lương thực VN trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ  2 trên thế  giới liên tục từ  năm 
1989 đến nay. 
Sản xuất các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi và tăng trưởng ổn định.  
Tuy nhiên thành tựu và khởi sắc của công nghiệp thực sự bắt đầu trong những năm 90.

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 10


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

Bình quân 5 năm 1991­1995, tốc độ  tăng trưởng giá trị  sản xuất công nghiệp  
toàn ngành đạt 13,7% trong đó khu vực nhà nước tăng 15% , khu vực ngoài quốc doanh  
tăng 10,6%.
Trong 5 năm 1996­2000: sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển  ổn định và  
tăng trưởng với nhịp độ  cao. Giá trị  sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 
1997 tăng 13,8% ,năm 1998 tăng 12,1% , năm 1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17,5%.

Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân  
cư  đều tăng cả  chất lượng và cả  số  lượng, đáp  ứng nhu cầu trong nước và tham gia 
xuất khẩu.Các sản phẩm xuất khẩu thường là các sản phẩm thô như  than , dầu thô,  
kim loại nặng…
Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị 
trường xuất khẩu khá  ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ  chế 
chính sách ngày càng thông thoáng nên trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn 
định hơn hẳn khu vực trong nước. 
Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của thập 
kỷ  90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự  tham gia của các thành  
phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp FDI. Trong đó công nghiệp 
quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Hơn nữa với phương châm VN muốn làm bạn và đối tác chiến lược kinh tế.  
Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây 
dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị  trường trong nước đầy đủ  hơn theo  
cam kết WTO. Cho đến nay đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền  
kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã 
ký kết mười Hiệp định thương mại tự  do khu vực và song phương (gồm sáu FTA ký 
kết với tư  cách là thành viên ASEAN; bốn FTA đàm phán với tư  cách là một bên độc 
lập); vừa hoàn tất đàm phán hai FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích cực đàm  
phán ba FTA khác (ASEAN ­ Hồng Công; EFTA; RCEP). Việc tham gia ký kết và đàm 
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 11


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực 
cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, nhất là đến nay Việt Nam đã tham gia  

vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là: 
Chuỗi giá trị  lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị  năng lượng và an ninh 
năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giày.
Nguyên nhân của những thành tựu đạt được nêu trên:
Nhờ có nhận thức đúng đắn, đổi mới tư  duy lý luận của Đảng về  tính tất yếu  
của phát triển kinh tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung  
sang kinh tế  thị  trường định hướng XHCN; xác định phát triển kinh tế  là nhiệm vụ 
trọng tâm, kiên trì lãnh đạo, chỉ  đạo thực hiện các quyết sách về  kinh tế, được nhân  
dân đồng tình  ủng hộ  và tích cực tham gia. Sự  quản lý, điều hành của Nhà nước đối  
với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ  trong lĩnh  
vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt vai trò làm chủ  về  kinh tế  của nhân dân. Vai trò 
lãnh đạo cũng như nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền 
kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng rõ nét, theo đó đã xác định tiếp tục đổi 
mới tư  duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế  của các tổ  chức đảng, tăng  
cường lãnh đạo và kiểm tra về phát triển kinh tế.
Nhưng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa có mô hình sẵn, chưa  
phải là một đường lối kinh tế đầy đủ, một định hướng rõ ràng để chị đạo nền kinh tế 
phát triển. Chúng ta đã rất đúng khi đề ra đường lối  công nghiệp hóa hiện đại hóa đất 
nước, nhưng ở đây cũng chưa thấy rõ mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện cụ thể 
cũng như  kết quả  của nó. Do vậy, có thể  thấy mục tiêu đạt ra trong tương lai sẽ rất  
khó khăn.
Ðến nay, trên thực tế, nhìn chung nền kinh tế của chúng ta có phát triển nhưng 
chưa vững bền, còn nhiều lúng túng, vấn đề  CNH­HÐH chưa có một nền tảng và 
hướng phát triển rõ ràng. Ðiểm đáng quan tâm là nền kinh tế chúng ta còn nhiều mặt bị 
lệ thuộc nước ngoài, đặc biệt về nguyên liệu, công nghệ cũng như về vốn. Nhiều việc 
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 12



Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

trong nước chúng ta có thể  làm được, chúng ta cũng không làm, nặng về  mua, nhập.  
Nhiều công trình có thể  tự  làm, chúng ta cũng để  người nước ngoài thầu. Trong tình 
hình khó khăn như  hiện nay, chúng ta cũng dễ  dàng bán đi những cơ sở doanh nghiệp 
có truyền thống của chúng ta v.v... Nền kinh tế  chúng ta còn nặng về  khai thác tài 
nguyên thiên nhiên sẵn có trong nước, làm gia công, đại lý, không quan tâm nhiều đến  
sản xuất, xây dựng cơ sở cho CNH­HÐH. Chưa nói trong nhiều trường hợp, chúng ta 
chỉ  theo đuổi phát triển kinh tế, mà không coi trọng vấn đề  an ninh, quốc phòng, kết 
hợp kinh tế với an ninh, quốc phòng, bảo vệ  chủ quyền quốc gia. Nguyên nhân chính 
là ý thức về xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự  chủ  từ  các ngành, các địa phương  
đến nhân dân chưa được quán triệt đầy đủ và thực hiện nghiêm túc.
5.

Dự báo 2016: 

Nền kinh tế toàn cầu đang phục hồi rất chậm do  ảnh hưởng của sự suy giảm  
của kinh tế Trung Quốc và đà giảm của giá dầu thô. Theo đó, sự suy giảm tăng trưởng 
của nền kinh tế  đứng thứ  hai thế  giới cũng như  các nền kinh tế  mới nổi đã gây ảnh  
hưởng lớn đến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng, qua đó  ảnh hưởng đến tăng 
trưởng kinh tế toàn cầu.
Giá dầu giảm cũng là nguyên nhân khiến kinh tế  thế  giới phục hồi chậm, bởi  
theo đánh giá của IMF, những nước xuất khẩu dầu chủ yếu thuộc nhóm các nền kinh 
tế mới nổi và đang phát triển chiếm đến 12% GDP toàn cầu. Như vậy, diễn biến kinh  
tế  thế  giới trong năm 2016 và những năm tiếp theo sẽ  phụ  thuộc chủ  yếu vào sự  hồi  
phục của các nền kinh tế  mới nổi và đang phát triển, nhất là Trung Quốc và tốc độ 
tăng của giá dầu thế giới.
Đối với nền kinh tế trong nước, ngay từ những tháng cuối năm 2015 và đầu năm  
2016, lĩnh vực sản xuất nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng đã phải đối mặt  
với nhiều yếu tố bất lợi. Tốc độ  tăng trưởng năm 2015 của khu vực nông nghiệp đã 

giảm xuống mức 2,03% so với mức 2,6% trong năm 2014. Sang năm 2016, khu vực kinh 
tế nông nghiệp dự báo sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn bởi tình hình thời tiết diễn biến  
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 13


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

phức tạp, xâm nhập mặn, hạn hán kéo dài, giá nông sản thế  giới tiếp tục giảm, thị 
trường tiêu thụ bị thu hẹp. Đây chính là những yếu tố khiến khu vực nông nghiệp tăng 
trưởng âm 2,69% trong quý I vừa qua.
Giá dầu thế  giới thấp cũng gây  ảnh hưởng trực tiếp đến lĩnh vực khai khoáng 
của Việt Nam (lĩnh vực khai khoáng chiếm 9,61% GDP đã có mức tăng trưởng âm 
1,2% trong quý đầu năm 2016. Nhìn chung, với mức giá dầu thấp như hiện nay, khoảng 
35 USD/thùng, nhiều tính toán cho rằng, chúng ta có khả  năng phải giảm sản lượng  
khoảng 1,5 triệu tấn trong năm 2016, qua đó tác động đến tăng trưởng của ngành công  
nghiệp.
Chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam cũng cho thấy, mức độ cải thiện thấp 
của tổng cung khi chỉ số này dù tăng nhẹ trong những tháng đầu năm 2016, nhưng nhìn  
chung thấp hơn so với năm 2015.
Về  phía tổng cầu, mức độ  cải thiện của tổng cầu trong quý I/2016 cũng thấp 
hơn so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, cầu tiêu dùng trong nước quý I/2016 tăng thấp 
hơn so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá, tông m
̉
ưc ban le hang hoa va doanh
́ ́ ̉ ̀
́ ̀
 
thu dich vu tiêu dung quý I/2016 tăng 7,9% so cùng k

̣
̣
̀
ỳ năm trước, quý I/2015 tăng 9,2%). 
Cầu đầu tư quý I cũng có mức cải thiện thấp hơn so với cùng kỳ năm 2015 bởi đầu tư 
của khu vực Nhà nước giảm, từ  11,6% GDP trong quý I/2015 xuống 11,4% trong quý  
I/2016. Kim ngạch xuất khẩu quý I/2016 tăng 4,1% so cùng kì năm trước, thấp hơn mức  
6,9% của cùng kỳ 2015.
Sự suy giảm này có nguyên nhân chủ yếu là xuất khẩu dầu thô giảm cả về giá  
(giảm 32,8%) và sản lượng (giảm 19,8%), kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện tử,  
máy tính và điện thoại tăng chậm lại so với cùng kỳ năm 2015 (10,5% so với 34,7%).
Kết hợp những yếu tố trên cho thấy, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2016 sẽ 
thấp hơn năm 2015, bởi cả  tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế năm 2016 đều có  
mức độ cải thiện thấp hơn năm 2015.

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 14


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

Phân tích chu kỳ  kinh tế  dựa trên dựa trên chỉ  số  kinh tế  dẫn báo tổng hợp  
(Composite Leading Indicators) của Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cho thấy, tổng 
cầu của nền kinh tế (tăng trưởng ngắn hạn) đã đạt đỉnh chu kỳ vào quý II/2015 và bắt 
đầu rơi vào trạng thái điều chỉnh trong ngắn hạn (kéo dài tối thiểu khoảng 4 quý). Tính  
toán chỉ  số  kinh tế  dẫn báo tổng hợp tại thời điểm cuối quý I/2016 cũng dự  báo xu  
hướng giảm tổng cầu sẽ tiếp tục trong những tháng tới. 
Song, kết hợp chỉ số kinh tế dẫn báo tổng hợp với phân tích xu thế tăng trưởng  
dài hạn cho chúng tôi thấy, xu thế  tăng trưởng dài hạn (tiềm năng tăng trưởng) của 

nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tiếp tục duy trì xu hướng đi lên. Tăng trưởng kinh tế 
Việt Nam trong ngắn hạn đang giảm tốc chủ yếu do chịu tác động của yếu tố chu kỳ 
kinh tế  như  nêu trên. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế  Việt Nam năm 2016 dù không cao 
nhưng cũng không thấp hơn quá nhiều so với năm 2015.
Nhìn một cách tổng thể, kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm 2016 sẽ còn nhiều khó 
khăn, nợ công hiện đã chạm ngưỡng cho phép (65% GDP); cân đối ngân sách nhà nước 
gặp nhiều khó khăn, bội chi ngân sách nhà nước năm 2016 vẫn ở mức cao (khoảng 5% 
GDP); lạm phát được kiềm chế   ở  mức thấp trong năm 2015 (0,63%) và không phải 
chịu sức ép lạm phát cầu kéo quá lớn. Lạm phát cơ bản, phản ánh sức ép đối với lạm 
phát từ việc gia tăng tổng cầu cũng giữ xu hướng giảm từ đầu năm 2015 đến hết quý  
I/2016 (ngoại trừ tháng 2/2016).
Từ cuối năm 2015 đến hết quý I/2016, lạm phát tổng thể tăng chủ  yếu do điều  
chỉnh giá dịch vụ y tế và giáo dục (quý I/2016 tăng tương ứng 35,23% và 4,54% so cùng 
kỳ năm trước) và tăng giá nhà ở và vật liệu xây dựng (quý I/2016 tăng 2,19% so cùng kỳ 
năm trước), nhưng qua năm 2016 đang có biểu hiện tăng cao hơn nhiều (khoảng 3 ­  
3,5%).
Điều này sẽ làm cho khả năng giảm lãi suất là rất hạn chế, gây ảnh hưởng đến 
khả  năng mở  rộng sản xuất ­ kinh doanh của doanh nghiệp cũng như  khả  năng tăng 
vốn đầu tư của doanh nghiệp vào nền kinh tế; xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu nông  
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 15


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

sản còn khó khăn do tình hình hạn hán và nhiễm mặn phát sinh đang ngày càng gay gắt,  
nhất là ở các khu vực Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
  Giá dầu thô giảm sâu tiếp tục tác động tiêu cực đến nền kinh tế  thế  giới và 
Việt Nam không nằm ngoài ảnh hưởng đó.

Tuy nhiên, nền kinh tế  của nước ta vẫn còn đó những thuận lợi cơ  bản. Các 
hiệp định thương mại song phương cũng như  các hiệp định thương mại thế  hệ  mới  
(TPP) sẽ  tạo cho nền kinh tế Việt Nam những lợi thế nh ất định, góp phần nâng cao 
tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Việc tham gia Hiệp định TPP được coi là một bước đi quan trọng của Việt Nam  
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; và được xem như  cơ  hội lớn để  Việt Nam 
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh 
của nền kinh tế cũng như của cộng đồng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận là so với các đối tác trong TPP là Hoa  
Kỳ, Nhật Bản, Canada, Mexico, Peru, Chile, Singapore, Brunei, Malaysia, Australia và 
New Zealand, thì Việt Nam hiện là thành viên kém phát triển nhất.
Thêm vào đó, Việt Nam cũng đang phải thực hiện các bước đi để các thành viên 
trong TPP thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế  thị  trường, khi hiện nay, mới chỉ có 8  
nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế  thị  trường, còn ba quốc gia còn lại là Hoa 
Kỳ, Canada và Mexico thì chưa.
Tham gia vào TPP, Việt Nam có những cơ hội nổi bật như:
Thứ  nhất, tham gia TPP giúp Việt Nam đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu và  
thay đổi cơ  cấu thị  trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn. Theo tính toán 
của các chuyên gia kinh tế, TPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào 
năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025; xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào 
năm 2025.
Nghiên cứu của Viện Kinh tế  Quốc tế  Peterson cũng chỉ  ra rằng, sau khi TPP 
được ký kết, Việt Nam sẽ là nước có thu nhập và xuất khẩu tăng mạnh nhất trong 12 
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 16


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay


quốc gia TPP, với tôc đô tăng tr
́ ̣
ưởng lần lượt 13,6% và 31,7%. Trong khi đó, những 
nước không tham gia TPP sẽ chịu thiệt hại do giao thương chuyển hướng.
Thứ hai, tham gia TPP tạo điều kiện để Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị 
trường, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Với những cam kết  
sâu và rộng hơn trong WTO, TPP tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phân bổ  lại 
nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn.
Đông th
̀
ời, hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa ­  
hiện đại hóa và đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ  tăng trưởng theo chiều rộng 
trên cơ  sở  phát huy lợi thế  so sánh sẵn có sang tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào 
việc khai thác lợi thế cạnh tranh động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả 
xuất khẩu.
Thứ  ba, tham gia TPP góp phần tạo động lực để  các doanh nghiệp Việt Nam 
nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa dịch vụ và phát triển khả 
năng sản xuất của nền kinh tế.
Thứ tư, tham gia TPP giúp Việt Nam thu hút được dòng FDI với giá trị  lớn hơn 
và công nghệ cao hơn.
Thứ  năm, tham gia TPP góp phần tạo cơ  hội để  các doanh nghiệp Việt Nam  
tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Quá trình tự  do hóa thương mại  
và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam đang giúp Việt Nam trở 
thành một trong những địa chỉ  hấp dẫn về đầu tư, thu hút nhiều dự  án đầu tư  lớn từ 
các   tập   đoàn   đa   quốc   gia   như   Samsung,   LG,   Microsoft,   Intel,   Mitsubishi   Heavy  
Industries...
Thứ  sáu, tham gia TPP tạo điều kiện để  Việt Nam nâng cao thực thi quyền sở 
hữu trí tuệ, minh bạch hóa thị trường mua sắm công, đấu thầu chính phủ.
5 thach th
́

ưć
Bên canh nh
̣
ưng c
̃ ơ hôi, Vi
̣
ệt Nam sẽ  phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ 
của các nước đối tác tại thị trường trong nước, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt  
NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 17


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”. Điều này cho thấy, TPP không chỉ đem 
lại cơ hội mà còn đem lại rất nhiều thách thức cho Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ  nhất, những hạn chế trong năng lực cạnh tranh quốc gia có thể  là nhân tố 
cản trở Việt Nam khai thác những cơ hội mà TPP mang lại.
Thứ  hai, sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ  tăng lên và  
nguy cơ thất bại của các doanh nghiệp trên chính thị trường nội địa.
Thứ ba, tham gia TPP có thể khiến Việt Nam giảm nguồn thu ngân sách từ thuế 
nhập khẩu.
Thứ tư, tham gia TPP sẽ dẫn tới gia tăng chi phí cải cách hành chính của Chính 
phủ và các chi phí của doanh nghiệp.
Thứ năm, tham gia TPP có thể dẫn tới những tác động tiêu cực từ việc mở cửa  
thị trường mua sắm công, ảnh hưởng đến vấn đề  việc làm và thu nhập của người lao 
động.
Có thể thây, b
́ ản thân cơ hội không biến thành lợi ích và đôi khi chính thách thức 

làm nên cơ  hội. Thách thức là rất lớn, nhưng cơ hội cũng rất nhiều. Do đó, việc tận  
dụng được đến đâu những lợi ích mà TPP mang lại phụ thuộc rất lớn vào những hành  
động của Nhà nước và doanh nghiệp.

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 18


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN
Như  vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi  
nào lượng tích lũy tới mức độ  nhất định mới làm thay đổi về  chất, nên trong chỉ  đạo 
hoạt động thực tiễn cũng như  trong nhận thức khoa học phải chú ý tích lũy dần dần 
những thay đổi về  lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những 
bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
Bằng việc nghiên cứu sâu sắc hơn về các quy luật cơ bản của phép biện chứng 
duy vật nói chung và quy luật Lượng Chất nói riêng có thể  thấy những đổi mới của 
nước ta đã đạt nhiều thành công cả về Chất và Lượng của nền kinh tế. Tuy nhiên như 
nội dung quy luật Lượng Chất muốn đạt đến sự  chuyển biến về  Chất phải kiên trì  
tích lũy về  Lượng đến giới hạn Độ  rồi kiên quyết thực hiện bước nhảy. Sự  nghiệp  
đổi mới đất nước là một quá trình lâu dài để  Việt Nam chuyển từ  một nước nông  
nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp, thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Bởi 
vậy những năm tới toàn Đảng toàn dân ta cần kiên trì thực hiện từng bước nhiệm vụ 
đổi mới đất nước trước mắt cũng như lâu dài, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa  
xã hội mà chúng ta đang hướng tới.
Xin chân thành cảm ơn!

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA


 19


Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

THÀNH VIÊN TRONG NHÓM:
1. Đỗ Tuyết Nhung 

­ Nhóm trưởng + Thuyết trình

2. Trần Thị Thu Hoài

­ Thuyết trình

3. Phạm Hà Ly
4. Nguyễn Thị Ngọc Hà
5. Trần Ngọc Kính
6. Vũ Đức Thành

NHÓM 6 – LỚP 18.01.NHA

 20



×