ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN
NGUYỄN THỊ HẠNH
QUÁ TRÌNH NHẬP CƯ CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN VÀO
MỸ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Mã số: 60 22 03 11
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội 2016
Công trình được hoàn thành tại: Trường đại học Khoa hoc xã hội
và Nhân văn (ĐHQGHN)
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thiện Thanh
Phản biện 1: PGS.TS Hoàng Khắc Nam
Phản biện 2: PGS.TS Phạm Hồng Thái
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Khoa Lịch sử trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn
(ĐHQGHN) vào 17h giờ 00 ngày 23 tháng 03 năm 2016
Có thể tìm đọc luận văn tại:
Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
PHẦNMỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa với sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, di dân diễn ra với
quy mô lớn chưa từng có.Vấn đề di dân đặt ra nhiều thách thức đối
với sự phát triển của các quốc gia.
Di dân là một hình thức di chuyển trong không gian của
con người từ một đơn vị địa lý hành chính này đến một đơn vị địa
lý hành chính khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong
khoảng thời gian di dân xác định. Di dân quốc tế là hình thức di
dân ra khỏi biên giới của một quốc gia tức là di dân từ nước này
sang nước khác. Trong đó, có thể bao gồm dòng di chuyển của dân
tị nạn, hợp tác và xuất khẩu lao động, di dân thuộc địa. Quá trình
này diễn ra thường xuyên giữa các quốc gia dưới tác động của
nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội.Di dân với trình độ khác nhau
về văn hóa, truyền thống, kinh nghiệm… là một trong những yếu
tố ảnh hưởng lớn đến quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội,
đồng thời ảnh hưởng lớn đến cơ cấu dân số.Ảnh hưởng này tác
động đến mỗi vùng, mỗi quốc gia, khu vực ở những mức độ, hiệu
quả khác nhau.
Trong tiến trình lịch sử, Mỹ là một trong những quốc gia
có số lượng dân nhập cư lớn của thế giới, được coi là “một quốc
gia của dân nhập cư”. Ngay từ khi thành lập, Liên bang Mỹ được
xây dựng và phát triển bởi các thế hệ người nhập cư. Sau gần ba
thế kỷ, dân tộc Mỹ vốn đa sắc tộc lại càng trở nên đa dạng hơn
nữa.Việc mở rộng lãnh thổ thông qua xâm chiếm, mua bán và sáp
nhập làm gia tăng sự đa dạng đó, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu là
dòng người nhập cư khổng lồ tới từ khắp mọi nơi.
1
Trong khi đó, tại Nhật Bản, cuộc Duy tân Minh Trị cuối
thế kỷ XIX đã đánh dấu quá trình “mở cửa”, phát triển của quốc
gia châu Á này. Người Nhật di cư với số lượng đông đảo tới các
nước, trong đó có vùng đất Hawaii.Năm 1885, trước áp lực của sự
gia tăng dân số, Chính phủ Nhật Bản đề ra chính sách khuyến
khích người thất nghiệp hoặc nông dân nghèo di cư. Vì vậy, từ
cuối thế kỷ XIX đến năm 1924 là thời kì người Nhật nhập cư
mạnh vào Mỹ. Tuy nhiên năm 1924, Chính phủ Mỹ đã ban hành
Đạo luật 1924 cấm nhập cư, trong đó có cấm người Nhật Bản.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhất là sau sự kiện
quân đội Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng, Mỹ đã thi hành chính
sách sơ tán và giam giữ người Nhật (từ 1942 đến 1945).
Trong quá trình lịch sử nhiều thăng trầm đó, những dòng
người nhập cư Nhật Bản đến Mỹ đã tác động tới lịch sử phát triển,
làm phong phú hơn nền văn hóa, cơ cấu xã hội của nước Mỹ. Hiện
nay, nước Mỹ vẫn tiếp tục nhận dân nhập cư nhiều hơn bất cứ
quốc gia nào trên thế giới với nhiều truyền thống văn hóa, nguồn
gốc chủng tộc và các tôn giáo khác nhau. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về
lịch sử nước Mỹ, nghiên cứu vấn đề nhập cư của các dân tộc vào
Mỹ là điều không thể thiếu, trong đó có nhóm người nhập cư từ
Nhật Bản.Vậy, nguyên nhân nào thúc đẩy người Nhật di cư tới
Mỹ? Quá trình nhập cư và vai trò của người nhập cư Nhật Bản vào
Mỹ như thế nào?
Việc trả lời những câu hỏi nghiên cứu trên vừa có ý nghĩa
khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn.Về mặt khoa học, việc tìm
hiểu về quá trình di cư, nhất là vấn đề di cư từ Nhật Bản sang Mỹ
là một chủ đề nghiên cứu tương đối mới mẻ và ít được đề cập ở
Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần làm rõ
những biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng di dân trong lịch sử
nói chung, quá trình di cư từ Nhật Bản sang Mỹ và sự tác động của
2
quá trình di cư đó đối với hai chủ thể có liên quan nói riêng.Về
mặt thực tiễn, nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung kiến thức cho
bản thân tôi trong công tác giảng dạy về lịch sử Mỹ, Nhật Bản và
quan hệ hai nước. Đây chính là lý do giải thích tại sao tôi lựa chọn
đề tài: “Quá trình nhập cư của người Nhật Bản vào Mỹ từ cuối
thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình nhập cư của người Nhật vàoMỹ bắt đầu cuối thế
kỷ XIX và cho đến hiện nay vẫn còn đang tiếp diễn.Quá trình nhập
cư này diễn ra tương đối phức tạp, trải qua nhiều thời kì với những
thăng trầm khác nhau, lúc thuận lợi, lúc căng thẳng. Cho đến thời
điểm hiện tại, đã có nhiều cuốn sách, bài viết về Mỹ, Nhật Bản và
quan hệ Mỹ Nhật ở nhiều khía cạnh khác nhau như về kinh tế,
chính trị, ngoại giao, quân sự….Tuy nhiên, trong phạm vi những
công trình nghiên cứu mà tôi tiếp cận được chưa có công trình tiếng
Việt nào nghiên cứu một cách hoàn chỉnh quá trình nhập cư của
người Nhật BảnvàoMỹ và cuộc sống định cư của người Mỹ gốc
Nhật giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
Tài liệu tiếng Việt:
Một số công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, kinh tế,
chính trị, xã hội Mỹ và Nhật Bản: Lịch sử Nhật Bản (G Sonsom,
người dịch Lê Năng An, Nxb Khoa học xã hội, 1989); Lịch sử thế
giới cận đại (Vũ Dương Ninh, Nxb Giáo dục, 1995); Bốn mươi hai
đời tổng thống Hoa Kì (William A.Degregorio, Nxb Văn hóa thông tin,
1995);Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kì Tokugawa
Nguyên nhân và hệ quả (Nguyễn Văn Kim, Nxb Thế Giới, 2000);
Thế giới những sự kiện lịch sử thế kỷ XX (19011945) , Lê Trung
Dũng, Nxb Giáo dục, 2002); Lịch sử Nhật Bản (R.H.P Mason &
3
J.G.Caiger, người dịch Nguyễn Văn Sỹ, Nxb Lao động, 2003); Lịch
sử thế giới cận đại (Phan Ngọc Liên, Nxb Đại học sư phạm, 2008);
“Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa” (Lương Văn Kế,Nxb Giáo
dục Việt Nam, 2011),…Đây là những công trình đề cập tổng quan
đến các vấn đề trong lịch sử Mỹ và Nhật Bản.
Các bài viết đề cập những khía cạnh khác nhau trong lịch
sử Mỹ, Nhật và quan hệ Mỹ Nhật: Cuốn“ Đông Nam Á truyền
thống và hội nhập” do tác giả Vũ Dương Ninh chủ biên, xuất bản
năm 2002 có công trình nghiên cứu của Thạc sĩ Trần Thiện Thanh
“Nhật Bản với Trung Quốc, Đông Nam Á và sự chuyển hướng
chính sách đối ngoại của Mỹ từ trung lập sang“không tham
chiến” giai đoạn 1937 1941”. Ngoài ra còn rất nhiều bài đăng
trên tạp chí như: Chính sách đối ngoại của Mỹ giai đoạn 1865
1904 của tác giả Trần Thiện Thanh, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay,
số 4 2007. Di cư châu Mỹ trong những năm 1900 do Nguyễn
Khánh Vân tổng hợp (Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 4 2007);
Hoạt động của Nhật Bản ở Mãn Châu và nguyên nhân dẫn đến
mâu thuẫn Mỹ Nhật Bản (19051930) (Trần Thiện Thanh, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 2008). Nhật Bản trong chính sách đối
ngoại của Mỹ trước 1905 (Trần Thiện Thanh, Tạp chí châu Mỹ
ngày nay, số 10 2009); Quan hệ kinh tế Mỹ Nhật Bản 19311941
(Trần Thiện Thanh, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 5 2010); Luận
văn thạc sỹ các năm trước cũng nghiên cứu một số vấn đề có liên
quan đến Mỹ và Nhật như: Lịch sử di dân từ Anh sang Bắc Mỹ thế
kỷ XVII XVIII (Trần Thiện Thanh). Tìm hiểu một số đặc điểm về
chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ cuối XIX đầu XX(Phạm
Công Phin) ….
Tài liệu tiếng Anh:
4
Các công trình nghiên cứu về lịch sử Mỹ và Nhật Bản nói
chung rất phong phú và đa dạng. Trong đó, nghiên cứu lịch sử di
dân quốc tế và sự di dân của các dân tộc vào Mỹ được đề cập
trong các công trình như:
Công trình “Japanese Immigration Its status in California”
(1915), tác giả Ichihashi Yamato đã đề cập đến quá trình nhập cư
của người Nhật tới Mỹ. Tác giả đã cung cấp hệ thống số liệu
người Nhật di cư trong giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ
Nhất, đặc biệt là nghiên cứu trường hợp tại California.
Trong “Japanese in the United States” (1932), Ichihashi
Yamato đã nghiên cứu và phân chia nước Mỹ thành chín khu vực
địa lý dựa trên sự phân bố của người Nhật Bản với các bản đồ và
số liệu thống kê của năm 1930.
Trong “Tradition and Change across generation of
Japanese American women” (1996), Mary SanabeMao nghiên cứu
sự thay đổi trong các thế hệ người Mỹ gốc Nhật tại vùng Tây bắc,
chủ yếu là ở Oregon. Công trình nghiên cứu đã chỉ ra sự thay đổi
trong giá trị, nguyên tắc của cộng đồng người Mỹ gốc Nhật. Tuy
nhiên, tác giả tập trung tìm hiểu sự thay đổi trong các thế hệ gia
đình “Issei”,“Nisei”,“Sansei”, “Yonsei”, đặc biệt là qua các thế hệ
phụ nữ.
Ủy ban di dời và giam giữ dân thường thời chiến của Mỹ
(The Commission on Wartime Relocation and Internment of
Civilians)với công trình “Personal Justice Denied: Report of the
Commission on Wartime Relocation and Internment of Civilians”
(1997). Đây là công trình nghiên cứu công phu về người Nhật tại
Mỹ. Phần trọng tâm của công trình nghiên cứu là giai đoạn từ sau
khi xảy ra sự kiện Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Tác
phẩm đã cung cấp một khối lượng đồ sộ nguồn tư liệu, tài liệu về
5
vấn đề nhập cư của người Nhật và cuộc sống của cộng đồng
người Mỹ gốc Nhật trong và sau Chiến tranh thế giới thứ Hai.
Công trình “Selective Immigration and Ethnic Economic
Achievement: Japanese Americans before World War II”
(2002)củatác giả Masao Suzuki. Tác giả đã nghiên cứu về vấn đề
nhập cư của người Nhật Bản sang Mỹ, sự thay đổi về trình độ
của dân nhập cư Nhật qua các thế hệ và sự thay đổi về nghề
nghiệp của người Mỹ gốc Nhật Bản thời kì trước Chiến tranh thế
giới thứ hai.
Công trình “Coming to America: A history of Immigration
and Ethnicity in America life” (2002), tác giả Daniels Roger đã
nghiên cứu các dân tộc di cư tới Mỹ qua các giai đoạn lịch sử: thời
kì thuộc địa; thế kỉ di cư (1820 1924) và thời kì hiện đại. Không
chỉ nghiên cứu các chính sách của chính phủ Mỹ, tác giả còn cung
cấp khối lượng tư liệu lớn về họat động nhập cư của các dân tộc
đến từ các khu vực trên thế giới và đời sống văn hóa, kinh tế của
họ tại Mỹ. Trong phần II, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau giữa cộng
đồng người Nhật và cộng đồng người Trung Quốc tại Mỹ về giới
tính, độ tuổi.
Trong “Immigration from Japan to the U.S.A Historical
Trends and Background” (2003), Nitaya Onozawa đã nghiên cứu về
quá trình di cư và nhập cư của người Nhật tới Mỹ từ cuối thế kỉ
XIX đến những năm 70 của thế kỉ XX. Trong đó, Onozawa nhấn
mạnh bối cảnh và xu hướng của cuộc di cư lịch sử, đặc điểm của
giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1924 về: thành phần, nghề nghiệp,
độ tuổi, giới tính, phân bố.
Tác giả Carignan Maggie E. đã nghiên cứu về nguyên nhân
sự ra đời, hoạt động của Liên đoàn người Mỹ gốc Nhật JACL
trong công trình “Japanese American Citizens League The Effect of
World War II Relocation Camps” (2009).Qua đó, tác giả cho thấy
6
vai trò của thế hệ người Nhật thứ hai tại Mỹ thông qua hoạt động
của tổ chức này, đặc biệt là trong Chiến tranh thế giới thứ
Hai.Trong công trình nghiên cứu, tác giả đã đề cập đến lịch sử di
cư của người Nhật nhưng chưa chỉ ra các đặc điểm trong mỗi giai
đoạn.
Có thể nói, quá trình di dân từ Nhật sang Mỹ là một vấn đề
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài
nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống và chi tiết về quá trình nhập cư của người Nhật
tới Mỹ từ giữa thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ XX.
Trên cơ sở của những thành tựu nghiên cứu trên, tác giả đi
sâu tìm hiểu về quá trình nhập cư của người Nhật Bản vào Mỹ
trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX giữa thế kỷ XX trên các phương
diện: nguyên nhân di cư, quá trình nhập cư, cuộc sống và một số
đóng góp của người nhập cư Nhật Bản ởMỹ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quá trình nhập cư của người
Nhật Bản vào Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
3.2Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ
XX. Mốc mở đầu là năm 1885 đánh dấu bởi sự kiện chính phủ
Nhật Bản thay đổi chính sách di cư để khuyến khích người thất
nghiệp hoặc nông dân nghèo di cư. Trong khi đó, ở Mỹ sau Nội
chiến, cuộc cách mạng công nghiệp nhanh chóng đưa nước Mỹ lên
vị trí hàng đầu trong hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới.Mốc
kết thúc là năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, mở ra
thời kỳ mới trongchính sách ngoại giao của cả Mỹ và Nhật.
7
Phạm vikhông gian: trên cơ sở đối tượng nghiên cứu là
quá trình nhập cư của người Nhật vào Mỹ nên không gian nghiên
cứu là Nhật Bản và Mỹ.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu
1. Tài liệu gốc: các văn bản đạo luật, Lệnh, Công lệnh
của Chính phủ và các cơ quan chức năng; phát biểu các nhà lãnh
đạo Mỹ, Nhật có liên quan đến chủ đề.
2. Các sách chuyên khảo, tham khảo, bài nghiên cứu về
lịch sử Mỹ, lịch sử Nhật Bản, lịch sử thế giới trong thời kỳ cận,
hiện đại.
3. Các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về vấn đề di
dân quốc tế nói chung, di dân và cuộc sống của người Nhật Bản
tại Mỹ nói riêng.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Đây là đề tài thuộc phạm trù lịch sử nên phương pháp
nghiên cứu chủ yếu mà tôi sử dụng trong luận văn này là phương
pháp lịch sử.Bên cạnh đó để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra cho
việc nghiên cứu một hiện tượng xã hội, tôi kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu xã hôi học.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác:
phương pháp logic, phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu,
tổng hợp, sưu tầm hệ thống hóa tư liệu, xử lý số liệu và thống kê
tài liệu.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: làm rõ quá trình nhập cư của người
Nhật Bản vào Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
Nhiệm vụ:Tập hợp, xử lý và hệ thống hóa tư liệu nhằm
Tìm hiểu nguyên nhânthúc đẩy người Nhật di cư, nguyên nhân thu
8
hút người Nhật Bản nhập cư vào Mỹ, thực trạng nhập cư của
người Nhật BảnvàoMỹ.Rút ra một số nhận xét vềvai trò của
người nhập cư Nhật Bản tạiMỹ.
6. Đóng góp của đề tài.
Đề tài đi sâu tìm hiểu và làm rõ quá trình dicư của người
Nhật Bản sang Mỹ,so sánh với các cộng đồng nhập cư từ các quốc
gia khác, cuộc sống cũng như đóng góp của người nhập cư Nhật
Bản tại Mỹ,qua đó cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về quan hệ
Nhật Mỹ đồng thời đóng góp một nguồn tài liệu tham khảo về lịch
sử Mỹ, Nhật và bổ sung kiến thức cho tác giảluận văn về lịch sử
thế giới nói chung, lịch sử của Mỹ và Nhật nói riêng trong công tác
giảng dạymôn Lịch sử tại trường THPT Đại Mỗ nơi tác giả công
tác.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ
lục, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Tiền đề thúc đẩy người Nhật Bản di cư đến
Mỹtừ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX
Chương 2: Những thăng trầm trong quá trình nhập cư của
người Nhật Bản vào Mỹgiai đoạncuối thế Kỷ XIX đến giữa thế
kỷ XX
Chương 3: Cuộc sống và vai trò của người Nhật Bản
nhập cư ở Mỹ.
9
PHẦNNỘIDUNG
Chương 1: TIỀN ĐỀ THÚC ĐẨY NGƯỜI NHẬT BẢN DI CƯ
ĐẾN MỸ TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỈ
XX
1.1 Nguyên nhân thúc đẩy người Nhật Bản di cư
Những vấn đề chính trị, kinh tế xã hội và chính sách
khuyến khích người lao động xuất cư của Chính phủ Nhật
Bản
Đến giữa thế kỷ XIX về đối ngoại, Nhật Bản vẫn thực
hiện chính sách đóng cửa với các nước. Trong khi đó, sự phát triển
của CNTB với nhu cầu cao về thị trường, nguyên nhiên liệu và
nhân công đã đặt ra yêu cầu mở cửa giao thương đối với Nhật
Bản.Trong nước tình hình chính trị căng thẳng.
Từ năm 1868 Thiên Hoàng Minh Trị đã thực hiện cuộc cải
cách toàn diện theo mô hình của các nước phương Tây.
10
Tuy nhiên do sự gia tăng về dân sốChính phủ đã có chính
sách khuyến khích người lao động xuất cư ra nước ngoài. Xuất cư
trở thành một biện pháp khả thi cho việc tháo gỡ các vấn đề chính
trị, xã hội và kinh tế.Như vậy, nguyên nhân chính của hoạt động di
cư từ cuối thế kỉ XIX là nhu cầu về kinh tế trong bối cảnh dân số
Nhật tăng nhanh chóng.
Ngoài ra, người Nhật di cư còn xuất phát từ một số yếu tố
như: tìm kiếm môi trường giáo dục tốt, nghiên cứu khoa học, đoàn
tụ gia đình, tị nạn chính trị,…
Về giáo dục, với tư tưởng “Học tập phương Tây, đuổi kịp
phương Tây, đi vượt phương Tây”. Cho dù tài chính còn eo hẹp
nhưng chính phủ đã xây dựng nhiều trường học, cử người ra nước
ngoài học tập.Điều này cho thấy, nhu cầu về giáo dục chính là
một trong những nguyên nhân thúc đẩy người Nhật di chuyển ra
bên ngoài, đặc biệt là đến nước Mỹ.
Sự phát triển của các công ti vận tải hàng hải: sự phát
triển của ngành giao thông hàng hải. Sự xuất hiện và phát triển
của các công ti vận tải hàng hảigắn liền với sự phát triển của quá
trình xuất cư của người Nhật.
Có thể nói, nguyên nhân khiến người Nhật Bản rời quê
hương có rất nhiều: áp lực về chính trị, cơ hội kinh tế giảm, bùng
nổ dân số, nạn đói, hạn hán, …Dù nguyên nhân thúc đẩy họ là gì đi
chăng nữa thì động cơ lôi kéo họ đến Mỹ chính là sự hứa hẹn về
một khởi đầu tốt đẹp.
Về phía chính phủ Minh Trị cũng xác định việc thúc đẩy
xuất cư không chỉ là biện pháp giải quyết nạn đói mà còn là một
cách thu hút ngoại tệ thông qua con đường kiều hối để làm giàu và
tăng cường sức mạnh quân sự. Chính phủ cũng trông đợi những
người trở về từ các nơi trên thế giới sẽ mang theo kiến thức mới
11
về kinh tế, khoa học kĩ thuật để thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại
hóa đất nước [63,tr. 22].
1.2. Nguyên nhân thu hút người Nhật Bản nhập cư vào Mỹ
Sau cuộc cải cách Minh Trị, trong khi Nhật Bản là nước
dư thừa lao động thì nhu cầu lao động ở châu Mỹ nói chung và
nước Mỹ nói riêng lại tăng cao cùng với tốc độ phát triển kinh tế.
Nền kinh tế phát triển đòi hỏi nguồn lao động lớn. Đó là lí
do vì sao, nước Mỹ trở thành “điểm đến” của nhiều nhóm lao
động đến từ châu Âu, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh.
Nhu cầu về nguồn lao động ở Hawaii
Từ những năm 60 của thế kỉ XIX, sự chuyển đổi kinh tế
đã diễn ra tại Hawaii với sự phát triển của ngành trồng mía, sản
xuất đường.Trong khi đó, tỉ lệ dân bản địa tại đây có xu hướng giảm
mạnh từ cuối thế kỉ XIX. Sự suy giảm tỉ lệ dân bản địa và người di
cư từ các nước châu Âu đã đẩy nền kinh tế vào tình trạng khó khăn
do thiếu lao động. Các chủ đồn điền ở Hawaii tin rằng: người Nhật
sẽ dễ đồng hóa với người bản địa [53, tr.78].Năm 1898, quần đảo
Hawaii sáp nhập vào lãnh thổ nước Mỹ. Sự kiện này đã tác động
đến những người lao động nhập cư.
Nhu cầu về nguồn lao động, sức hấp dẫn của môi
trường học tập và nghiên cứu ở các bang lục địa nước Mỹ
Chính phủ Mỹ có chính sách thu hút nguồn lao động di cư
từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Trong cùng thời kì lịch sử, không có quốc gia nào có chính
sách nhập cư tương tự như Đạo luật 1802 của Mỹ. Vậy, nguyên
nhân của sự “cởi mở” trong chính sách đối với người nhập cư của
chính phủ Mỹ là gì?
Năm 1848, “cơn sốt vàng” ở đây đã kích thích làn sóng di
cư mạnh mẽ từ bên ngoài,vùng bờ biển phía Tây nước Mỹ phát
12
triển nhanh chóng. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nguồn
nhân lực, các nhà công nghiệp và các chủ đồn điền đã sử dụng lao
động Trung Quốc.
Tuy nhiên, việc tăng nhanh số lượng lao động Trung Quốc
dẫn đến xu thế bài trừ người Trung Quốc một cách bạo lực, trong
khi nhu cầu về lao động vẫn tăng nên các nhà công nghiệp và chủ
trang trại đã tìm kiếm để thay thế cho những người nhập cư Trung
Quốc và đây là một yếu tố tạo điều kiện cho người Nhật Bản
nhập cư vào Mỹ.
Đầu thế kỉ XX, đặc biệt là sau sự kiện Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (19141918), Mỹ vươn lên đứng đầu thế giới .Dù
trải qua thời kì khủng hoảng, suy thoái trầm trọng trong những
năm 1929 1933 song nền kinh tế Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất
thế giới.
Như vậy, lý do cơ bản nhất chính là nhu cầu phát triển của
đất nước. Mỹ là quốc gia rộng lớn, dân số ít, mật độ dân số thấp.
Muốn khai thác diện tích đất đai và khai thác các nguồn lực tự
nhiên khác, chính phủ cần tăng nguồn lao động.
Vì vậy, lượng người di cư tới đây sẽ giúp lấp đầy những
“khoảng trống” đó.Kỹ năng, nguồn vốn của họ sẽ góp phần khai
thác các tiềm lực sẵn có. Ngược lại, nền kinh tế lớn và năng động
sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Không những vậy, Mỹ còn là một quốc gia có nền giáo
dục phát triển, có chính sách thu hút bộ phận trí thức có trình độ
cao, khoa học kĩ thuật phát triển. Bên cạnh hai lực hút cơ bản nói
trên, mối quan hệ thương mại, ngoại giao giữa hai nước Mỹ Nhật
Bản có sự phát triểnđã tạo những điều kiện thuận lợi nhất định
cho quá trình di cư từ Nhật sang Mỹ.
13
Chương 2. NHỮNG THĂNG TRẦM TRONG QUÁ TRÌNH
NHẬP CƯ CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN VÀO MỸ
TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XX
2.1. Giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1907
Từ 1868 đến 1884: Hoạt động di cư bị chính phủ hạn chế.
Từ 1884 đến 1907: Chính phủ khuyến khích và tạo cơ sở
pháp lí cho hoạt động di cư nên số lượng di cư tăng nhanh.
14
Đặc điểm: nam giới, thể chất tốt, lao động tay chân, đến từ
phía tây nam Nhật Bản, làm trong nông nghiệp, cư trú tạm thời tại
Mỹ.
Người Nhật phải đối mặt với vấn đề “ phân biệt chủng
tộc”: bài trừ, tẩy chay người gốc Nhật. Vì vậy, Hiệp ước
Gentlement 1907 kí kết giữa Chính phủ Mỹ và Nhật. Nội dung cơ
bản của hiệp ước này là: chấm dứt sự nhập cư của người lao
động Nhật đến Mỹ bằng cách hạn chế cấp hộ chiếu cho người
dân. Đối tượng cấp hộ chiếu bị giới hạn gồm: những người lao
động quay trở lại Mỹ hoặc cha mẹ, vợ của những người đang sinh
sống và cư trú tại Mỹ.
2.2. Giai đoạn từ năm 1908 đến năm 1941
Hiệp ước Gentlement 1907, Luật nhập cư 1924 đã tác
động sâu sắc đến hoạt động di cư và cộng đồng người gốc
Nhật:Số lượng di cư: không nhiều; Chủ yếu là nữ giới (“Cô dâu
qua ảnh”); Tỉ lệ nữ và trẻ em tăng trong cộng đồng; Nhận thức:
xác định định cư lâu dài; Cấu trúc tuổi và vai trò của thế hệ Isei,
Nisei thay đổi; Nghề nghiệp có trình độ cao hơn; Xu hướng rời
nước Mỹ tăng.
2.3. Giai đoạn từ năm 1942 đến năm 1945
Xuất phát từ sự kiện Trân Châu 1941; nghi ngờ lòng trung
thành của người gốc Nhật; người gốc Nhật tập trung đông ở bờ
Tây; các cuộc bạo động chống người gốc Nhật tăng. Vì vậy,chính
sách của chính phủ Mỹ đối với cộng đồng người Mỹ gốc Nhật:
chương trình di tảnvà đưa vào trong các trung tâm “tái định cư” ở
các bang bờ Tây nước Mỹ.Ngày 19.02.1942, Tổng thống ban hành
Lệnh 9066, chính thức thực hiện di tản.
Việc thực hiện di tản tự nguyện khỏi khu vực hạn chế
không đạt được nhiều kết quả. Đó là lí do phía Bộ Chiến tranh và Tư
15
lệnh quốc phòng ở phía tây đã đề xuất chương trình di tản bắt buộc.
Từ ngày 29 tháng 3, di tản bắt buộc bắt đầu được thực hiện, 99
khu vực di tản được thành lập ở khu quân sự số 1 và sau đó có
thêm 9 khu vực đặc biệt [29, tr. 107]. Tháng 6, California là khu
vực cấm tại khu quân sự số 2. Từ Công lệnh thứ nhất đến Công
lệnh thứ 4 trong năm 1942, chương trình di tản đã chuyển từ “tự
nguyện” sang bắt buộc. Với chính sách này, có thể nói cộng đồng
người Mỹ gốc Nhật đã bị cô lập khỏi các cộng đồng khác ở Mỹ
thông qua quá trình di tản và sống trong các trung tâm tái định cư.
Chương 3: CUỘC SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI
NHẬT BẢN NHẬP CƯ TẠI MỸ TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX
ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XX
16
3.1. Cuộc sống của người Nhật Bản tại Mỹ từ cuối thế kỷ
XIX đến giữa thế kỷ XX.
Vềđịa bàn phân bố của người Nhật tại Mỹ
Cùng với cộng đồng người Trung Quốc và Philippines,
người Nhật là một trong những cộng đồng lớn gốc châu Á tại Mỹ.
Năm 1868, nhóm người Nhật di cư đầu tiên đến Hawaii và một
năm sau đó họ bắt đầu tới lục địa của nước Mỹ. Năm 1900, số
người Nhật trên toàn bộ lãnh thổ nước Mỹ là 85.437 người [60, tr.
265]. Khu vực tập trung đông người Nhật nhất là Hawaii.
Trên lục địa nước Mỹ, năm 1900, số người Nhật là 24.326
người [76, tr. 400]. Cũng tại thời điểm này, số người Trung Quốc
tại Mỹ là 89.863 người [34, tr.240]. Có thể thấy sự chênh lệch lớn
về số lượng của hai cộng đồng người Nhật và Trung Quốc trong
giai đoạn cuối thế kỉ XIXđầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, số lượng
người Nhật di cư đã tăng lên nhanh chóng so với người Trung
Quốc.
Đến năm 1940, có 120.927 (chi ếm 96%) ng ười Nh ật c ư
trú tại các bang phía Tây nướ c Mỹ; Trongđó, riêng bốn bang là:
California, Washington, Oregon và Arizona có số ngườ i Nhật
định cư là 113.035 người (chi ếm 89,7 %) [80, tr. 5]. Ngoài khu
vực các bang miền Tây thì người Nhật còn sinh sống tại các tiểu
bang khác của Mỹ.
Trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, người Nhật sống trong
mười “trung tâm tái định cư” được Chính phủMỹ thành lập tại các
bang miền Tây.
Như vậy, ngay từ những năm đầu của quá trình di cư,
người Nhật đã đến và định cư tại vùng bờ Tây của nước Mỹ, nhất
là ở bang California. Đây cũng là khu vực có đông người nhập cư
tới từ các nước châu Á như Trung Quốc, Philippines,...
17
Sự tập trung người Mỹ gốc Nhật tại các bang miền Tây là
do các nguyên nhân sau:
Nguyên nhân thứ nhất, California có cảng biển San
Francisco – đây là “lối vào” chủ yếu của người nhập cư. Bên cạnh
đó còn có hai cảng biển tiếp nhận là Seattle và Porland song không
thường xuyên từ năm 1890 đến 1895. Vùng bờ Tây cũng là nơi
“cơn sốt vàng” xuất hiện năm 1848 và là lí do thu hút người lao
động Nhật, Trung Quốc.
Nguyên nhân thứ hai là do sự hạn chế kiến thức của người
nhập cư về đất nước mà họ di cư tới.
Nguyên nhân thứ ba là do số lượng người da trắng ở đây
tương đối ít.
Nguyên nhân thứ tư là do việc sáp nhập Hawaii và lịch sử
phát triển của ngành đường sắt đã tác động không nhỏ đến sự
phân bố dân cư.
Về nghề nghiệp của người Nhật tại Mỹ
Giống như bộ phận người lao động Trung Quốc, những người
Nhật nhập cư đầu tiên tới Hawaii làm việc trong các đồn điền
trang trại trồng mía.
Ngoài ra,người Nhật còn làm một số công việc như: kỹ sư,
thợ mộc, thợ cơ khí, bán hàng rong, đầu bếp,... Một số người cung
cấp các loại hình dịch vụ. Những người di cư tới lục địa Mỹ làm
các công việc nặng nhọc. Từ đầu thế kỉ XX, họ tập trung vào sản
xuất nông nghiệp.Như vậy, sản xuất nông nghiệp là hoạt động
kinh tế chính của người lao động gốc Nhật.
Bên cạnh đó, người lao động Nhật cũng làm việc trong
nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là ngành đường sắt.
Trong suốt những năm 20 của thế kỉ XX, người Nhật nhập
cư cố gắng cải thiện tình trạng nghề nghiệp, tăng tỉ lệ lao động có
trình độ cao và giảm tỉ lệ lao động phổ thông. Năm 1920, có
18
khoảng 21% số người Nhật trong lục địa Mỹ là chủ nông trại,
thương nhân, hoặc thợ chuyên nghiệp. Đến năm 1940, tỉ lệ người
Nhật di cư làm việc trong lĩnh vực có trình độ cao hơn chiếm 36 %
và tỉ lệ lao động không có kĩ năng giảm còn 39% [71, tr. 257].
Đời sống của người Nhật tại Mỹ trước khi xảy ra sự
kiện Trân Châu cảng năm 1941
Người Nhật phải đối mặt với nhiều khó khăn về vấn đề
nhập quốc tịch, sở hữu tài sản đất đai,...Năm 1913, chính quyền
bang California thông qua Luật đất đai Allien cấm người không đủ
điều kiện trở thành công dân sở hữu đất đai hoặc tài sản. Các Issei
đã tìm cách phá vỡ luật về cấm sở hữu hoặc thuê đất đai của
Chính phủ. Họ thuê lại đất của công dân Mỹ hay đăng kí sở hữu
đất đai dưới tên của con mình – những người sinh ra và là công dân
Mỹ.
Vượt lên những khó khăn, người Nhật đã xây dựng cộng
đồng và cuộc sống ở nước Mỹ
Tại Hawaii, cộng đồng người Nhật chiếm tỉ lệ đông trong
dân số. Năm 1892, trường học đầu tiên sử dụng tiếng Nhật được
thành lập tại Honolulu. năm 1895, thành lập ở Maui. Các trường
này dùng chương trình giáo dục của các vùng nông thôn Nhật Bản
Về mặt tôn giáo, người Nhật tại Hawaii xây dựng nhiều
ngôi chùa Phật giáo, đền thờ Shinto. Trường học và đền, chùa
không chỉ là nơi dạy cho trẻ em mà còn là nơi diễn ra các hoạt
động cộng đồng để thúc đẩy sự đoàn kết dân tộc [39, tr. 37].
Trung tâm tiếng Nhật ở Hilo trở thành bảo tàng văn hóa Nhật tại
Hawaii.
Cũng như ở Hawaii, người Nhật đến lục địa nước Mỹ vẫn
duy trì, phát triển nền văn hóa truyền thống: năm mới, các gia đình
tới thăm nhau, ăn các món ăn truyền thống, tổ chức lễ hội,... và
19
tiếp thu những giá trị văn hóa của phương Tây để hòa nhập vào
cộng đồng đa sắc tộc.
Trong khi các cộng đồng người châu Á khác ở Mỹ hạn chế
hoặc không phát triển giáo dục thì người Nhật rất quan tâm đến
hoạt động này, như khuyến khích học tiếng Anh, nâng cao trình độ
học vấn để thay đổi nghề nghiệp. Năm 1930, tỉ lệ học sinh người
Nhật trong độ tuổi từ 18 đến 20 cao hơn so với người Trung Quốc
(44,4 %) và những người da trắng (24,4%) tại Mỹ. [44, tr.3].
Thế hệ người Nhật thứ hai tại Mỹ có xu hướng theo Kito
giáo nhiều hơn, các nhà thờ Kito giáo của họ đã được xây dựng ở
nhiều thành phố tại bang California, Tacoma, Washington.
Rõ ràng, cộng đồng người Mỹ gốc Nhật đã duy trì và phát
triển nền văn hóa truyền thống trong khuôn khổ của xã hội Mỹ.
Đó là sự cần thiết để hòa nhập vào cộng đồng có nhiều sắc tộc,
tôn giáo như nước Mỹ.
Đời sống của người Nhật tại Mỹ trong các trung tâm di
dời từ năm 1942 đến năm 1945
Cuộc sống trong các trại di tản này đã tác động sâu sắc
đến cuộc sống của người Mỹ gốc Nhật, người Mỹ gốc Nhật còn
phải từ bỏ tất cả tài sản của họ. Các kĩ sư, doanh nhân, bác sĩ, nha sĩ
bị mất nhà cửa, sự nghiệp. Còn những người làm công ăn lương thì bị
hạn chế về hành động và mất cơ hội thăng tiến trong công việc [29,
tr. 129].
Trong các trại tập trung, họ phải đối mặt với sự đàn áp về
chủng tộc phía sau những hàng rào dây thép gai. Những người Nhật
sống trong các khu nhà ở chật hẹp, ăn ngủ theo giờ quy định, sử
dụng những loại thực phẩm không đảm bảo chất lượng.
Tuy nhiên, đối với các gia đình người Nhật, giáo dục là
mối quan tâm hàng đầu. Các lớp học được tổ chức vào ban ngày
20
hoặc ban đêm phù hợp với lịch trình của các trại. Giáo dục đã trở
thành trung tâm quan trọng nhất trong cuộc sống ở các trại tập
trung.
Cuộc sống trong các trại di tản này còn tác động đến tâm lí
của cộng đồng người gốc Nhật. Ngày 2 tháng 7 năm 1948 , Quốc
hội đã thông qua Đạo luật khiếu nại của người Mỹ gốc Nhật. Đạo
luật cho pho phép họ khiếu nại những tổn thất và thiệt hại về tài
sản do quá trình di tản.
Phong trào đấu tranh chống phân biệt đối xử
Đầu thế kỉ XX, các tổ chức bài trừ, chống người Nhật
ngày càng tăng. Sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất, các tổ chức này
đã thông qua năm nội dung trong chương trình hoạt động: Hủy bỏ
“Hiệp ước Quý ông”; Ngăn chặn “Cô dâu ảnh”; Ngăn cấm hoạt
động di cư từ các vùng xa xôi của nước Nhật; Có chính sách xác
thực đối với những người châu Á được cấp quyền công dân; Sửa
đổi quy định để chỉ có những trẻ em được sinh ra tại Mỹ có quyền
công dân khi có cả bố và mẹ có đầy đủ tư cách là công dân [29, tr.
35].
Tuy nhiên, với sự tăng lên của số lượng Nisei ở độ tuổi
trưởng thành, các vấn đề về quyền của người Mỹ gốc Nhật được
quan tâm nhiều hơn.
3.2. Một số nhận xét về vai trò người nhập cư Nhật Bản tại
Mỹ
* Đối với nước Mỹ:
Cộng đồng người Nhật tại Mỹ tuy chiếm một tỉ lệ nhỏ so
với nhiều cộng đồng di cư khác song họ đã có những đóng góp cho
sự phát triển của nước Mỹ. Họ đã có đóng góp trên nhiều lĩnh vực
như kinh tế nông nghiệp, khoa học, nghệ thuật,…
Trong lĩnh vực kinh tế:
21
Tại Hawaii, người Nhật Bản trở thành lực lượng lao động
chính trong các trang trại trồng mía vàchịu trách nhiệm cung cấp
phần lớn sản lượng cà phê tại Hawaii. Họ đã giới thiệu phương
pháp tưới tiêu phức tạp có thể cho phép trồng các loại trái cây, rau
và hoa trên các vùng đất trước đây không trồng được.Quan trọng
nhất họ biến nông nghiệp trở thành một ngành mang tính thương
mại.
Bên cạnh ngành nông nghiệp, người Nhật còn hoạt động
trong nhiều ngành kinh tế khác.Một trong những ngành mà bộ
phận người Nhật chiếm số đông là đánh bắt cá.
Trong lĩnh vực Chính trị Quân sự:
Trong cộng đồng người Mỹ gốc Nhật xuất hiện một số
nhân vật có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này.John Fujio Aiso
(19091987) là giám đốc tình báo quân sự.Clarence Takeya Arai
(19011964) là một luật sư ở Seattle, tham gia hoạt động chính trị
của Đảng Cộng hòa ở bang Washington trong năm 1930…
Những công dân Mỹ gốc Nhật cũng có những đóng góp
trong lĩnh vực chính trị quân sự, đặc biệt là trong Chiến tranh thế
giới thứ Hai.Ngay tại thời điểm đó, 1.200 Nisei tại các trung tâm di
dời đã tình nguyện tham gia quân đội [86, tr.46].Có khoảng 100 phụ
nữ tham gia Quân đoàn Phụ nữ [86, tr. 48].
Trong lĩnh vực văn hóa:
Tại Hawaii, cộng đồng người Nhật chiếm đa số và có ảnh hưởng
văn hóa mạnh nhất.Trung tâm tiếng Nhật tại Hilo trở thành bảo
tàng văn hóa của người Nhật.
Việc lưu giữ và phát triển văn hóa truyền thống vừa làm
phong phú, đa dạng nền văn hóa của nước Mỹ nhưng đồng thời
cũng là một trong những nguyên nhân khiến người Nhật khó hòa
nhập vào xã hội Mỹ.
22