Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình nhập cư của người Nhật Bản vào Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.49 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN 
VĂN
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

NGUYỄN THỊ HẠNH

QUÁ TRÌNH NHẬP CƯ CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN VÀO 
MỸ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
  Mã số: 60 22 03 11

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Hà Nội ­ 2016


Công trình được hoàn thành tại: Trường đại học Khoa hoc xã hội 
và Nhân văn (ĐHQGHN)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS  Trần Thiện Thanh

Phản biện 1: PGS.TS Hoàng Khắc Nam
Phản biện 2: PGS.TS Phạm Hồng Thái

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp 
tại:   Khoa   Lịch   sử   trường   ĐH   Khoa   học   xã   hội   và   Nhân   văn 
(ĐHQGHN) vào 17h giờ 00 ngày 23 tháng 03 năm 2016

Có thể tìm đọc luận văn tại:


­ Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


PHẦNMỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa với sự phát triển như vũ bão của 
cuộc cách mạng khoa học ­ công nghệ  hiện nay, di dân diễn ra với  
quy mô lớn chưa từng có.Vấn đề di dân đặt ra nhiều thách thức đối  
với sự phát triển của các quốc gia.
Di dân là một hình thức di chuyển trong không gian của 
con người từ một đơn vị địa lý hành chính này đến một đơn vị địa 
lý hành chính khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong 
khoảng thời gian di dân xác định. Di dân quốc tế  là hình thức di 
dân ra khỏi biên giới của một quốc gia tức là di dân từ  nước này  
sang nước khác. Trong đó, có thể bao gồm dòng di chuyển của dân 
tị  nạn, hợp tác và xuất khẩu lao động, di dân thuộc địa. Quá trình 
này diễn ra thường xuyên giữa các quốc gia dưới tác động của 
nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội.Di dân với trình độ khác nhau  
về văn hóa, truyền thống, kinh nghiệm… là một trong những yếu 
tố   ảnh hưởng lớn đến quá trình biến đổi cơ  cấu kinh tế ­ xã hội,  
đồng thời  ảnh hưởng lớn đến cơ  cấu dân số.Ảnh hưởng này tác  
động đến mỗi vùng, mỗi quốc gia, khu vực ở những mức độ, hiệu 
quả khác nhau.
Trong tiến trình lịch sử, Mỹ  là một trong những quốc gia  
có số lượng dân nhập cư lớn của thế giới, được coi là “một quốc 
gia của dân nhập cư”. Ngay từ khi thành lập, Liên bang Mỹ  được 
xây dựng và phát triển bởi các thế  hệ người nhập cư. Sau gần ba  
thế  kỷ, dân tộc Mỹ  vốn đa sắc tộc lại càng trở  nên đa dạng hơn 
nữa.Việc mở rộng lãnh thổ thông qua xâm chiếm, mua bán và sáp  
nhập làm gia tăng sự đa dạng đó, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu là 

dòng người nhập cư khổng lồ tới từ khắp mọi nơi.

1


Trong khi đó, tại Nhật Bản, cuộc Duy tân Minh Trị  cuối 
thế  kỷ  XIX đã đánh dấu quá trình “mở  cửa”, phát triển của quốc 
gia châu Á này. Người Nhật di cư với số lượng đông đảo tới các  
nước, trong đó có vùng đất Hawaii.Năm 1885, trước áp lực của sự 
gia tăng dân số, Chính phủ  Nhật Bản đề  ra chính sách khuyến  
khích người thất nghiệp hoặc nông dân nghèo di cư. Vì vậy, từ 
cuối thế  kỷ  XIX đến năm 1924 là thời kì người Nhật nhập cư 
mạnh vào Mỹ. Tuy nhiên năm 1924, Chính phủ  Mỹ  đã ban hành  
Đạo luật 1924 cấm nhập cư, trong đó có cấm người Nhật Bản.  
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhất là sau sự kiện  
quân đội Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng, Mỹ đã thi hành chính 
sách sơ tán và giam giữ người Nhật (từ 1942 đến 1945).
Trong quá trình lịch sử  nhiều thăng trầm đó, những dòng 
người nhập cư Nhật Bản đến Mỹ đã tác động tới lịch sử phát triển, 
làm phong phú hơn nền văn hóa, cơ cấu xã hội của nước Mỹ. Hiện 
nay, nước Mỹ  vẫn tiếp tục nhận dân nhập cư  nhiều hơn bất cứ 
quốc gia nào trên thế  giới với nhiều truyền thống văn hóa, nguồn 
gốc chủng tộc và các tôn giáo khác nhau. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về 
lịch sử nước Mỹ, nghiên cứu vấn đề  nhập cư  của các dân tộc vào 
Mỹ  là điều không thể  thiếu, trong đó có nhóm người nhập cư  từ 
Nhật Bản.Vậy, nguyên nhân nào thúc đẩy người Nhật di cư  tới 
Mỹ? Quá trình nhập cư và vai trò của người nhập cư Nhật Bản vào 
Mỹ như thế nào?
Việc trả lời những câu hỏi nghiên cứu trên vừa có ý nghĩa 
khoa học vừa có ý nghĩa   thực tiễn.Về  mặt khoa học,  việc tìm 

hiểu về quá trình di cư, nhất là vấn đề di cư từ Nhật Bản sang Mỹ 
là một  chủ đề nghiên cứu tương đối mới mẻ và ít được đề  cập ở 
Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề  này sẽ  góp phần làm rõ 
những biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng di dân trong lịch sử 
nói chung, quá trình di cư từ Nhật Bản sang Mỹ và sự tác động của  
2


quá trình di cư  đó đối với hai chủ  thể  có liên quan nói riêng.Về 
mặt thực tiễn, nghiên cứu đề  tài góp phần bổ  sung kiến thức cho  
bản thân tôi trong công tác giảng  dạy về lịch sử Mỹ, Nhật Bản và  
quan hệ hai nước. Đây chính là lý do giải thích tại sao tôi lựa chọn 
đề  tài: “Quá trình nhập cư  của người Nhật Bản vào Mỹ  từ  cuối  
thế kỷ  XIX đến giữa thế kỷ  XX” làm đề  tài luận văn thạc sĩ của  
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình nhập cư của người Nhật vàoMỹ bắt đầu cuối thế 
kỷ XIX và cho đến hiện nay vẫn còn đang tiếp diễn.Quá trình nhập  
cư này diễn ra tương đối phức tạp, trải qua nhiều thời kì với những  
thăng trầm khác nhau, lúc thuận lợi, lúc căng thẳng. Cho đến thời 
điểm hiện tại, đã có nhiều cuốn sách, bài viết về Mỹ, Nhật Bản và  
quan hệ  Mỹ  ­ Nhật  ở  nhiều khía cạnh khác nhau như  về  kinh tế,  
chính trị, ngoại giao, quân sự….Tuy nhiên, trong phạm vi những 
công trình nghiên cứu mà tôi tiếp cận được chưa có công trình tiếng 
Việt nào nghiên cứu một cách hoàn chỉnh  quá trình nhập cư  của 
người Nhật BảnvàoMỹ  và cuộc sống định cư  của người Mỹ  gốc  
Nhật giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. 
Tài liệu tiếng Việt: 
Một số  công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, kinh tế,  
chính trị, xã hội  Mỹ  và Nhật Bản: Lịch sử Nhật Bản (G Sonsom, 

người dịch Lê Năng An, Nxb Khoa học xã hội, 1989);  Lịch sử  thế  
giới cận đại (Vũ Dương Ninh, Nxb Giáo dục, 1995); Bốn mươi hai  
đời tổng thống Hoa Kì (William A.Degregorio, Nxb Văn hóa thông tin, 
1995);Chính   sách   đóng   cửa   của   Nhật   Bản   thời   kì  Tokugawa   ­ 
Nguyên nhân và hệ  quả  (Nguyễn Văn Kim, Nxb Thế  Giới, 2000);  
Thế  giới những sự  kiện lịch sử  thế  kỷ  XX (1901­1945) , Lê Trung 
Dũng, Nxb Giáo dục, 2002);  Lịch sử  Nhật Bản   (R.H.P Mason & 
3


J.G.Caiger, người dịch Nguyễn Văn Sỹ, Nxb Lao động, 2003); Lịch  
sử thế giới cận đại (Phan Ngọc Liên, Nxb Đại học sư phạm, 2008);  
“Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa” (Lương Văn Kế,Nxb Giáo 
dục Việt Nam, 2011),…Đây là những công trình đề  cập tổng quan  
đến các vấn đề trong lịch sử Mỹ và Nhật Bản.
Các bài viết đề  cập những khía cạnh khác nhau trong lịch  
sử  Mỹ, Nhật và quan hệ  Mỹ­ Nhật: Cuốn“ Đông Nam Á truyền  
thống và hội nhập” do tác giả Vũ Dương Ninh chủ biên, xuất bản  
năm 2002 có công trình nghiên cứu của Thạc sĩ Trần Thiện Thanh 
“Nhật Bản với Trung Quốc,  Đông Nam Á và sự  chuyển hướng  
chính   sách   đối   ngoại   của   Mỹ   từ   trung   lập   sang“không   tham  
chiến” giai đoạn 1937 ­ 1941”. Ngoài ra còn rất nhiều bài đăng 
trên tạp chí như:  Chính sách đối ngoại của Mỹ  giai đoạn 1865­
1904  của tác giả  Trần Thiện Thanh, Tạp chí Châu Mỹ  ngày nay, 
số  4 ­ 2007.  Di cư  châu Mỹ  trong những năm 1900  do Nguyễn 
Khánh Vân tổng hợp (Tạp chí châu Mỹ  ngày nay, số  4 ­ 2007); 
Hoạt động của Nhật Bản  ở  Mãn Châu và nguyên nhân dẫn đến  
mâu thuẫn Mỹ  ­Nhật Bản (1905­1930)    (Trần  Thiện Thanh, Tạp 
chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 ­ 2008). Nhật Bản trong chính sách đối  
ngoại của Mỹ  trước 1905  (Trần Thiện Thanh, Tạp chí châu Mỹ 

ngày nay, số 10 ­ 2009); Quan hệ kinh tế Mỹ­ Nhật Bản 1931­1941 
(Trần Thiện Thanh, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 5­ 2010);  Luận 
văn thạc sỹ các năm trước cũng nghiên cứu một số vấn đề  có liên 
quan đến Mỹ và Nhật như: Lịch sử di dân từ Anh sang Bắc Mỹ thế  
kỷ XVII­ XVIII (Trần Thiện Thanh). Tìm hiểu một số đặc điểm về  
chính sách xâm  lược của  đế  quốc  Mỹ  cuối  XIX   đầu  XX(Phạm 
Công Phin) ….
Tài liệu tiếng Anh:

4


Các công trình nghiên cứu về lịch sử Mỹ và Nhật Bản nói 
chung rất phong phú và đa dạng. Trong đó, nghiên cứu lịch sử di 
dân quốc tế và sự di dân của các dân tộc vào Mỹ được đề cập 
trong các công trình như:
Công trình “Japanese Immigration ­ Its status in California”  
(1915), tác giả  Ichihashi Yamato đã đề  cập đến quá trình nhập cư 
của người Nhật tới Mỹ. Tác giả  đã cung cấp hệ  thống số  liệu 
người Nhật di cư  trong giai đoạn trước Chiến tranh thế  giới thứ 
Nhất, đặc biệt là nghiên cứu trường hợp tại California.
Trong   “Japanese   in   the   United   States”  (1932),   Ichihashi 
Yamato đã  nghiên cứu và phân chia nước Mỹ thành chín khu vực  
địa lý dựa trên sự phân bố của  người Nhật Bản với các bản đồ và 
số liệu thống kê của năm 1930.
Trong   “Tradition   and   Change   across   generation   of  
Japanese American women” (1996), Mary Sanabe­Mao nghiên cứu 
sự thay đổi trong các thế hệ người Mỹ gốc Nhật tại vùng Tây bắc,  
chủ  yếu là  ở  Oregon. Công trình nghiên cứu đã chỉ  ra sự  thay đổi  
trong giá trị, nguyên tắc của cộng đồng người Mỹ  gốc Nhật. Tuy  

nhiên, tác giả  tập trung tìm hiểu sự  thay đổi trong các thế  hệ  gia  
đình “Issei”,“Nisei”,“Sansei”, “Yonsei”, đặc biệt là qua các thế  hệ 
phụ nữ.
Ủy ban di dời và giam giữ dân thường thời chiến của Mỹ 
(The   Commission   on   Wartime   Relocation   and   Internment   of 
Civilians)với   công   trình   “Personal   Justice   Denied:   Report   of   the  
Commission   on   Wartime   Relocation   and   Internment   of   Civilians” 
(1997). Đây là công trình nghiên cứu công phu về  người Nhật tại 
Mỹ. Phần trọng tâm của công trình nghiên cứu là giai đoạn từ sau 
khi xảy ra sự kiện Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Tác  
phẩm đã cung cấp một khối lượng đồ sộ nguồn tư liệu, tài liệu về 
5


vấn đề  nhập cư  của người Nhật và cuộc sống của cộng  đồng  
người Mỹ gốc Nhật trong và sau Chiến tranh thế giới thứ Hai.
Công   trình   “Selective   Immigration   and   Ethnic   Economic  
Achievement:   Japanese   Americans   before   World   War   II”  
(2002)củatác giả  Masao Suzuki. Tác giả đã nghiên cứu về vấn đề 
nhập cư  của người Nhật Bản sang Mỹ, sự  thay đổi về  trình độ 
của dân nhập cư  Nhật qua các thế  hệ  và sự  thay đổi về  nghề 
nghiệp của người Mỹ gốc Nhật Bản thời kì trước Chiến tranh thế 
giới thứ hai.
Công trình “Coming to America: A history of Immigration  
and   Ethnicity   in   America   life”   (2002),   tác   giả   Daniels   Roger   đã 
nghiên cứu các dân tộc di cư tới Mỹ qua các giai đoạn lịch sử: thời  
kì thuộc địa; thế kỉ di cư (1820 ­ 1924) và thời kì hiện đại. Không  
chỉ nghiên cứu các chính sách của chính phủ Mỹ, tác giả còn cung  
cấp khối lượng tư liệu lớn về họat động nhập cư của các dân tộc 
đến từ các khu vực trên thế giới và đời sống văn hóa, kinh tế  của  

họ tại Mỹ. Trong phần II, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau giữa cộng  
đồng người Nhật và cộng đồng người Trung Quốc tại Mỹ về giới  
tính, độ tuổi. 
Trong   “Immigration   from   Japan   to   the   U.S.A   Historical  
Trends and Background” (2003), Nitaya Onozawa đã nghiên cứu về 
quá trình di cư và nhập cư của người Nhật tới Mỹ từ cuối thế kỉ 
XIX đến những năm 70 của thế  kỉ  XX. Trong đó, Onozawa nhấn  
mạnh bối cảnh và xu hướng của cuộc di cư lịch sử, đặc điểm của  
giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1924 về: thành phần, nghề nghiệp, 
độ tuổi, giới tính, phân bố. 
Tác giả  Carignan Maggie E. đã nghiên cứu về nguyên nhân 
sự  ra đời,  hoạt động của  Liên đoàn người Mỹ  gốc Nhật JACL 
trong công trình “Japanese American Citizens League The Effect of  
World War II Relocation Camps” (2009).Qua đó, tác giả  cho thấy 
6


vai trò của thế hệ người Nhật thứ hai tại Mỹ thông qua hoạt động 
của   tổ   chức   này,   đặc   biệt   là   trong   Chiến   tranh   thế   giới   thứ 
Hai.Trong công trình nghiên cứu, tác giả  đã đề  cập đến lịch sử  di  
cư của người Nhật nhưng chưa chỉ ra các đặc điểm trong mỗi giai 
đoạn.
 Có thể nói, quá trình di dân từ Nhật sang Mỹ là một vấn đề 
thu hút sự  quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả  trong và ngoài  
nước. Tuy nhiên,  ở  Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu 
một cách hệ thống và chi tiết về quá trình nhập cư của người Nhật  
tới Mỹ từ giữa thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ XX.
Trên cơ sở của những thành tựu nghiên cứu trên, tác giả đi 
sâu tìm hiểu về  quá trình nhập cư  của người Nhật Bản vào Mỹ 
trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX giữa thế kỷ XX trên các phương  

diện: nguyên nhân di cư, quá trình nhập cư, cuộc sống và một số 
đóng góp của người nhập cư Nhật Bản ởMỹ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối   tượng   nghiên   cứu   là   quá   trình   nhập   cư   của   người  
Nhật Bản vào Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
3.2Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Từ  cuối thế  kỷ  XIX đến giữa thế  kỷ 
XX. Mốc mở  đầu là năm 1885 đánh dấu bởi sự  kiện chính phủ 
Nhật Bản thay đổi chính sách di cư  để  khuyến khích người thất  
nghiệp hoặc nông dân nghèo di cư. Trong khi đó,  ở  Mỹ  sau Nội  
chiến, cuộc cách mạng công nghiệp nhanh chóng đưa nước Mỹ lên 
vị trí hàng đầu trong hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới.Mốc 
kết thúc là năm 1945, Chiến tranh thế  giới thứ II kết thúc, mở  ra  
thời kỳ mới trongchính sách ngoại giao của cả Mỹ và Nhật.

7


Phạm vikhông gian: trên cơ  sở  đối tượng nghiên cứu là 
quá trình nhập cư của người Nhật vào Mỹ nên không gian nghiên 
cứu là Nhật Bản và Mỹ.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu
1. Tài liệu gốc: các văn bản đạo luật, Lệnh, Công lệnh 
của Chính phủ  và các cơ  quan chức năng; phát biểu các nhà lãnh  
đạo Mỹ, Nhật có liên quan đến chủ đề.
2. Các sách chuyên khảo, tham khảo, bài nghiên cứu về 
lịch sử  Mỹ, lịch sử  Nhật Bản, lịch sử thế giới trong thời kỳ cận,  
hiện đại.

3. Các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về vấn đề di  
dân quốc tế  nói chung, di dân và cuộc sống của người Nhật Bản  
tại Mỹ nói riêng.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Đây   là   đề   tài   thuộc   phạm   trù  lịch   sử   nên   phương   pháp 
nghiên cứu chủ yếu mà tôi sử dụng trong luận văn này là phương  
pháp lịch sử.Bên cạnh đó để  giải quyết các nhiệm vụ  đặt ra cho  
việc nghiên cứu một hiện tượng xã hội, tôi kết hợp sử  dụng các  
phương pháp nghiên cứu xã hôi học.
Ngoài   ra,   tác   giả   còn   sử   dụng   các   phương   pháp   khác: 
phương   pháp  logic,   phương   pháp  phân  tích,   so  sánh,   đối   chiếu, 
tổng hợp, sưu tầm hệ thống hóa tư liệu, xử lý số liệu và thống kê 
tài liệu.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
­ Mục đích nghiên cứu: làm rõ quá trình nhập cư của người 
Nhật Bản vào Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
­ Nhiệm vụ:Tập hợp, xử lý và hệ  thống hóa tư liệu nhằm 
Tìm hiểu nguyên nhânthúc đẩy người Nhật di cư, nguyên nhân thu  
8


hút người Nhật Bản nhập cư  vào Mỹ, thực trạng nhập cư  của  
người   Nhật   BảnvàoMỹ.Rút   ra   một   số   nhận   xét   vềvai   trò   của 
người nhập cư Nhật Bản tạiMỹ.
6. Đóng góp của đề tài.
Đề  tài đi sâu tìm hiểu và làm rõ quá trình dicư  của người  
Nhật Bản sang Mỹ,so sánh với các cộng đồng nhập cư từ các quốc  
gia khác, cuộc sống cũng như  đóng góp của người nhập cư  Nhật 
Bản tại Mỹ,qua đó cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về quan hệ 
Nhật­ Mỹ đồng thời đóng góp một nguồn tài liệu tham khảo về lịch  

sử  Mỹ, Nhật và bổ  sung kiến thức cho tác giảluận văn về  lịch sử 
thế giới nói chung, lịch sử của Mỹ và Nhật nói riêng trong công tác 
giảng dạymôn Lịch sử  tại trường THPT Đại Mỗ  nơi tác giả  công 
tác.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ 
lục, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Tiền đề  thúc đẩy người Nhật Bản di cư  đến  
Mỹtừ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX
Chương 2: Những thăng trầm trong quá trình nhập cư của  
người Nhật Bản vào Mỹgiai đoạncuối thế  Kỷ  XIX đến giữa thế  
kỷ XX
Chương   3:   Cuộc   sống   và   vai   trò   của   người   Nhật   Bản  
nhập cư ở Mỹ.

9


PHẦNNỘIDUNG
Chương 1: TIỀN ĐỀ THÚC ĐẨY NGƯỜI NHẬT BẢN DI CƯ
ĐẾN MỸ TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỈ 
XX
1.1 Nguyên nhân thúc đẩy người Nhật Bản di cư
Những vấn đề  chính trị, kinh tế­ xã hội và chính sách  
khuyến khích người lao  động xuất  cư  của Chính phủ  Nhật  
Bản
Đến giữa thế  kỷ  XIX về  đối ngoại, Nhật Bản vẫn thực 
hiện chính sách  đóng cửa với các nước. Trong khi đó, sự phát triển  
của CNTB với nhu cầu cao về  thị  trường, nguyên nhiên liệu và 
nhân công đã đặt ra yêu cầu mở  cửa giao thương đối với Nhật  

Bản.Trong nước tình hình chính trị căng thẳng.
Từ năm 1868 Thiên Hoàng Minh Trị đã thực hiện cuộc cải  
cách toàn diện theo mô hình của các nước phương Tây. 
10


Tuy nhiên do sự  gia tăng về  dân sốChính phủ  đã có chính 
sách khuyến khích người lao động xuất cư ra nước ngoài. Xuất cư 
trở thành một biện pháp khả thi cho việc tháo gỡ các vấn đề chính 
trị, xã hội và kinh tế.Như vậy, nguyên nhân chính của hoạt động di 
cư từ cuối thế kỉ XIX là nhu cầu về kinh tế trong bối cảnh dân số 
Nhật tăng nhanh chóng.
Ngoài ra, người Nhật di cư còn xuất phát từ một số yếu tố 
như: tìm kiếm môi trường giáo dục tốt, nghiên cứu khoa học, đoàn 
tụ gia đình, tị nạn chính trị,…
Về  giáo dục, với tư tưởng “Học tập phương Tây, đuổi kịp 
phương Tây, đi vượt phương Tây”. Cho dù tài chính còn eo hẹp 
nhưng chính phủ đã xây dựng nhiều trường học, cử người ra nước  
ngoài học tập.Điều này cho thấy, nhu cầu về  giáo dục chính là 
một trong những nguyên nhân thúc đẩy người Nhật di chuyển ra 
bên ngoài, đặc biệt là đến nước Mỹ.
Sự  phát triển của các công ti vận tải hàng hải: sự  phát 
triển của ngành giao thông hàng hải. Sự  xuất hiện và phát triển 
của các công ti vận tải  hàng hảigắn liền với sự phát triển của quá 
trình xuất cư của người Nhật. 
Có thể  nói, nguyên nhân khiến người Nhật Bản rời quê 
hương có rất nhiều: áp lực về chính trị, cơ hội kinh tế giảm, bùng  
nổ dân số, nạn đói, hạn hán, …Dù nguyên nhân thúc đẩy họ là gì đi  
chăng nữa thì động cơ lôi kéo họ đến Mỹ chính là sự hứa hẹn về 
một khởi đầu tốt đẹp.

Về  phía chính phủ  Minh Trị  cũng xác định việc thúc đẩy 
xuất cư không chỉ  là biện pháp giải quyết nạn đói mà còn là một  
cách thu hút ngoại tệ thông qua con đường kiều hối để làm giàu và  
tăng cường sức mạnh quân sự. Chính phủ  cũng trông đợi những  
người trở về từ các nơi trên thế  giới sẽ  mang theo kiến thức mới  
11


về kinh tế, khoa học kĩ thuật để thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại 
hóa đất nước [63,tr. 22].
1.2. Nguyên nhân thu hút người Nhật Bản nhập cư vào Mỹ
Sau cuộc cải cách Minh Trị, trong khi Nhật Bản là nước 
dư  thừa lao động thì nhu cầu lao động  ở  châu Mỹ  nói chung và 
nước Mỹ nói riêng lại tăng cao cùng với tốc độ phát triển kinh tế.
Nền kinh tế phát triển đòi hỏi nguồn lao động lớn. Đó là lí 
do vì sao, nước Mỹ  trở  thành “điểm đến” của nhiều nhóm lao  
động đến từ châu Âu, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh.
Nhu cầu về nguồn lao động ở Hawaii
Từ  những năm 60 của thế  kỉ  XIX, sự  chuyển đổi kinh tế 
đã diễn ra tại Hawaii với sự  phát triển của ngành trồng mía, sản  
xuất đường.Trong khi đó, tỉ lệ dân bản địa tại đây có xu hướng giảm 
mạnh từ cuối thế kỉ XIX. Sự suy giảm tỉ lệ dân bản địa và người di 
cư từ các nước châu Âu đã đẩy nền kinh tế vào tình trạng khó khăn 
do thiếu lao động. Các chủ đồn điền ở Hawaii tin rằng: người Nhật  
sẽ dễ đồng hóa với người bản địa [53, tr.7­8].Năm 1898, quần đảo 
Hawaii sáp nhập vào lãnh thổ  nước Mỹ. Sự  kiện này đã tác động 
đến những người lao động nhập cư. 
Nhu   cầu   về   nguồn   lao   động,   sức   hấp   dẫn   của   môi  
trường học tập và nghiên cứu ở các bang lục địa nước Mỹ
Chính phủ Mỹ có chính sách thu hút nguồn lao động di cư 

từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. 
Trong cùng thời kì lịch sử, không có quốc gia nào có chính 
sách nhập cư  tương tự  như Đạo luật 1802 của Mỹ. Vậy, nguyên  
nhân của sự “cởi mở” trong chính sách đối với người nhập cư của 
chính phủ Mỹ là gì? 
Năm 1848, “cơn sốt vàng”  ở  đây đã kích thích làn sóng di 
cư  mạnh mẽ  từ  bên ngoài,vùng bờ  biển phía Tây nước Mỹ  phát 
12


triển nhanh chóng. Để  đáp  ứng nhu cầu ngày càng tăng về  nguồn 
nhân lực, các nhà công nghiệp và các chủ đồn điền đã sử dụng lao  
động Trung Quốc. 
Tuy nhiên, việc tăng nhanh số lượng lao động Trung Quốc  
dẫn đến xu thế bài trừ người Trung Quốc một cách bạo lực, trong 
khi nhu cầu về lao động vẫn tăng nên các nhà công nghiệp và chủ 
trang trại đã tìm kiếm để thay thế cho những người nhập cư Trung  
Quốc và đây là một yếu tố  tạo điều kiện cho người Nhật Bản  
nhập cư vào Mỹ.
Đầu thế  kỉ  XX, đặc biệt là sau sự  kiện Chiến tranh thế 
giới lần thứ nhất (1914­1918), Mỹ vươn lên đứng đầu thế giới .Dù 
trải qua thời kì khủng hoảng, suy thoái trầm trọng trong những  
năm 1929 ­ 1933 song nền kinh tế Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất  
thế giới.
Như vậy, lý do cơ bản nhất chính là nhu cầu phát triển của 
đất nước. Mỹ là quốc gia rộng lớn, dân số ít, mật độ dân số thấp.  
Muốn khai thác diện tích đất đai và khai thác các nguồn lực tự 
nhiên khác, chính phủ cần tăng nguồn lao động.
Vì vậy, lượng người di cư tới đây sẽ  giúp lấp đầy những 
“khoảng trống” đó.Kỹ  năng, nguồn vốn của họ  sẽ  góp phần khai 

thác các tiềm lực sẵn có. Ngược lại, nền kinh tế lớn và năng động 
sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Không những vậy, Mỹ  còn là một quốc gia có nền giáo 
dục phát triển, có chính sách thu hút bộ  phận trí thức có trình độ 
cao, khoa học kĩ thuật phát triển. Bên cạnh hai lực hút cơ bản nói 
trên, mối quan hệ thương mại, ngoại giao giữa hai nước Mỹ­ Nhật  
Bản có sự  phát triểnđã tạo những điều kiện thuận lợi nhất định 
cho quá trình di cư từ Nhật sang Mỹ.

13


Chương 2. NHỮNG THĂNG TRẦM TRONG QUÁ TRÌNH 
NHẬP CƯ CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN VÀO MỸ 
TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XX
2.1. Giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1907
Từ 1868 đến 1884: Hoạt động di cư bị chính phủ hạn chế.
Từ  1884 đến 1907: Chính phủ  khuyến khích và tạo cơ  sở 
pháp lí cho hoạt động di cư nên số lượng di cư tăng nhanh.
14


Đặc điểm: nam giới, thể chất tốt, lao động tay chân, đến từ 
phía tây nam Nhật Bản, làm trong nông nghiệp, cư trú tạm thời tại 
Mỹ.
Người Nhật phải đối mặt với vấn đề  “ phân biệt chủng 
tộc”:   bài   trừ,   tẩy   chay   người   gốc   Nhật.   Vì   vậy,   Hiệp   ước  
Gentlement 1907 kí kết giữa Chính phủ Mỹ và Nhật. Nội dung cơ 
bản của hiệp  ước này là: chấm dứt sự  nhập cư  của người lao  
động Nhật đến Mỹ  bằng cách hạn chế  cấp hộ  chiếu cho người  

dân. Đối tượng cấp hộ  chiếu bị  giới hạn gồm: những người lao  
động quay trở lại Mỹ hoặc cha mẹ, vợ của những người đang sinh  
sống và cư trú tại Mỹ.
2.2. Giai đoạn từ năm 1908 đến năm 1941
Hiệp   ước   Gentlement   1907,   Luật   nhập   cư   1924   đã   tác 
động   sâu   sắc   đến   hoạt   động   di   cư   và   cộng   đồng   người   gốc 
Nhật:Số  lượng di cư: không nhiều; Chủ  yếu là nữ  giới (“Cô dâu 
qua  ảnh”); Tỉ  lệ  nữ  và trẻ  em tăng trong cộng đồng; Nhận thức: 
xác định định cư  lâu dài; Cấu trúc tuổi và vai trò của thế  hệ  Isei,  
Nisei thay đổi; Nghề  nghiệp có trình độ  cao hơn; Xu hướng rời 
nước Mỹ tăng.
2.3. Giai đoạn từ năm 1942 đến năm 1945
Xuất phát từ  sự kiện Trân Châu 1941; nghi ngờ lòng trung  
thành của người gốc Nhật; người gốc Nhật tập trung đông  ở  bờ 
Tây; các cuộc bạo động chống người gốc Nhật tăng. Vì vậy,chính  
sách của chính phủ  Mỹ  đối với cộng đồng người Mỹ  gốc Nhật:  
chương trình di tảnvà đưa vào trong các trung tâm “tái định cư” ở 
các bang bờ Tây nước Mỹ.Ngày 19.02.1942, Tổng thống ban hành 
Lệnh 9066, chính thức thực hiện di tản.
Việc thực  hiện  di   tản tự   nguyện khỏi   khu vực  hạn  chế 
không đạt được nhiều kết quả. Đó là lí do phía Bộ Chiến tranh và Tư 
15


lệnh quốc phòng ở phía tây đã đề xuất chương trình di tản bắt buộc. 
Từ  ngày 29 tháng 3, di tản bắt buộc bắt đầu được thực hiện, 99  
khu vực di tản được thành lập  ở  khu quân sự  số  1 và sau đó có 
thêm 9 khu vực đặc biệt [29, tr. 107]. Tháng 6, California là khu 
vực cấm tại khu quân sự  số  2. Từ  Công lệnh thứ  nhất đến Công 
lệnh thứ  4 trong năm 1942, chương trình di tản đã chuyển từ  “tự 

nguyện” sang bắt buộc. Với chính sách này, có thể  nói cộng đồng 
người Mỹ  gốc Nhật đã bị  cô lập khỏi các cộng đồng khác  ở  Mỹ 
thông qua quá trình di tản và sống trong các trung tâm tái định cư.

Chương 3: CUỘC SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI 
NHẬT BẢN NHẬP CƯ TẠI MỸ TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX 
ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XX
16


3.1. Cuộc sống của người Nhật Bản tại Mỹ  từ  cuối thế  kỷ 
XIX đến giữa thế kỷ XX.
Vềđịa bàn phân bố của người Nhật tại Mỹ
Cùng   với   cộng   đồng   người   Trung   Quốc   và   Philippines, 
người Nhật là một trong những cộng đồng lớn gốc châu Á tại Mỹ. 
Năm 1868, nhóm người Nhật di cư  đầu tiên đến Hawaii và một 
năm sau đó họ  bắt đầu tới lục địa của nước Mỹ. Năm 1900, số 
người Nhật trên toàn bộ lãnh thổ nước Mỹ là 85.437 người [60, tr.  
265]. Khu vực tập trung đông người Nhật nhất là Hawaii.
Trên lục địa nước Mỹ, năm 1900, số người Nhật là 24.326  
người [76, tr. 400]. Cũng tại thời điểm này, số người Trung Quốc  
tại Mỹ là 89.863 người [34, tr.240]. Có thể thấy sự chênh lệch lớn  
về số  lượng của hai cộng đồng người Nhật và Trung Quốc trong  
giai đoạn cuối thế  kỉ  XIX­đầu thế  kỉ  XX. Tuy nhiên, số  lượng 
người  Nhật di cư   đã  tăng lên nhanh chóng so với  người  Trung  
Quốc. 
Đến năm 1940, có 120.927 (chi ếm 96%) ng ười Nh ật c ư 
trú tại các bang phía Tây nướ c Mỹ; Trongđó, riêng bốn bang là:  
California,   Washington,   Oregon   và   Arizona   có   số   ngườ i   Nhật  
định cư  là 113.035 người (chi ếm 89,7 %) [80, tr. 5]. Ngoài khu 

vực các bang miền Tây thì người Nhật còn sinh sống tại các tiểu 
bang khác của Mỹ. 
Trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, người Nhật sống trong  
mười “trung tâm tái định cư” được Chính phủMỹ thành lập tại các  
bang miền Tây.
Như   vậy,   ngay   từ   những   năm   đầu  của   quá   trình   di   cư, 
người Nhật đã đến và định cư tại vùng bờ Tây của nước Mỹ, nhất  
là  ở  bang California. Đây cũng là khu vực có đông người nhập cư 
tới từ các nước châu Á như Trung Quốc, Philippines,...
17


Sự tập trung người Mỹ gốc Nhật tại các bang miền Tây là  
do các nguyên nhân sau:
Nguyên   nhân   thứ   nhất,   California   có   cảng   biển   San  
Francisco – đây là “lối vào” chủ yếu của người nhập cư. Bên cạnh 
đó còn có hai cảng biển tiếp nhận là Seattle và Porland song không 
thường xuyên từ  năm 1890   đến 1895. Vùng bờ  Tây cũng là nơi 
“cơn sốt vàng” xuất hiện năm 1848 và là lí do thu hút người lao  
động Nhật, Trung Quốc.
Nguyên nhân thứ hai là do sự hạn chế kiến thức của người 
nhập cư về đất nước mà họ di cư tới.
Nguyên nhân thứ  ba là do số  lượng người da trắng  ở  đây 
tương đối ít.
Nguyên nhân thứ tư là do việc sáp nhập Hawaii và lịch sử 
phát triển của ngành đường sắt đã tác động không nhỏ  đến sự 
phân bố dân cư. 
Về nghề nghiệp của người Nhật tại Mỹ
Giống như  bộ  phận người  lao  động Trung Quốc, những người  
Nhật nhập cư  đầu tiên tới Hawaii làm việc trong các đồn điền 

trang trại trồng mía. 
Ngoài ra,người Nhật còn làm một số công việc như: kỹ sư,  
thợ mộc, thợ cơ khí, bán hàng rong, đầu bếp,... Một số người cung 
cấp các loại hình dịch vụ. Những người di cư tới lục địa Mỹ  làm  
các công việc nặng nhọc. Từ đầu thế kỉ XX, họ tập trung vào sản 
xuất nông nghiệp.Như  vậy, sản xuất nông nghiệp là hoạt động 
kinh tế chính của người lao động gốc Nhật. 
Bên cạnh đó, người lao động Nhật cũng làm việc trong 
nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là ngành đường sắt. 
Trong suốt những năm 20 của thế kỉ XX, người Nhật nhập 
cư cố gắng cải thiện tình trạng nghề nghiệp, tăng tỉ lệ lao động có 
trình   độ   cao   và   giảm   tỉ   lệ   lao   động   phổ   thông.   Năm   1920,   có 
18


khoảng 21% số  người Nhật trong lục  địa Mỹ  là chủ  nông trại, 
thương nhân, hoặc thợ chuyên nghiệp. Đến năm 1940, tỉ lệ  người 
Nhật di cư làm việc trong lĩnh vực có trình độ cao hơn chiếm 36 % 
và tỉ lệ lao động không có kĩ năng giảm còn 39% [71, tr. 257].
Đời sống của người Nhật tại Mỹ trước khi xảy ra sự  
kiện Trân Châu cảng năm 1941
Người Nhật phải đối mặt với nhiều khó khăn về  vấn đề 
nhập quốc tịch, sở  hữu tài sản đất đai,...Năm 1913, chính quyền  
bang California thông qua Luật đất đai Allien cấm người không đủ 
điều kiện trở thành công dân sở hữu đất đai hoặc tài sản. Các Issei 
đã tìm cách   phá vỡ  luật về  cấm sở  hữu hoặc thuê đất đai của 
Chính phủ. Họ  thuê lại đất của công dân Mỹ  hay đăng kí sở  hữu  
đất đai dưới tên của con mình – những người sinh ra và là công dân  
Mỹ. 
Vượt lên những khó khăn, người Nhật đã xây dựng cộng 

đồng và cuộc sống ở nước Mỹ
Tại Hawaii, cộng đồng người Nhật chiếm tỉ lệ đông trong  
dân số. Năm 1892, trường học đầu tiên sử  dụng tiếng Nhật được  
thành lập tại Honolulu. năm 1895, thành lập  ở  Maui. Các trường 
này dùng chương trình giáo dục của các vùng nông thôn Nhật Bản
Về  mặt tôn giáo, người Nhật tại Hawaii xây dựng nhiều 
ngôi  chùa  Phật  giáo,  đền thờ  Shinto.  Trường  học  và  đền,  chùa  
không chỉ  là nơi dạy cho trẻ  em mà còn là nơi diễn ra các hoạt  
động cộng đồng để    thúc đẩy sự  đoàn kết dân tộc [39, tr. 37].  
Trung tâm tiếng Nhật  ở  Hilo trở thành bảo tàng văn hóa Nhật tại 
Hawaii. 
Cũng như ở Hawaii, người Nhật đến lục địa nước Mỹ vẫn 
duy trì, phát triển nền văn hóa truyền thống: năm mới, các gia đình  
tới thăm nhau, ăn các món ăn truyền thống, tổ  chức lễ  hội,... và 
19


tiếp thu những giá trị  văn hóa của phương Tây để  hòa nhập vào 
cộng đồng đa sắc tộc. 
Trong khi các cộng đồng người châu Á khác ở Mỹ hạn chế 
hoặc không phát triển giáo dục thì người Nhật rất quan tâm đến 
hoạt động này, như khuyến khích học tiếng Anh, nâng cao trình độ 
học vấn để thay đổi nghề nghiệp. Năm 1930, tỉ lệ học sinh người 
Nhật trong độ tuổi từ 18 đến 20 cao hơn so với người Trung Quốc  
(44,4 %) và những người da trắng (24,4%) tại Mỹ. [44, tr.3]. 
Thế hệ người Nhật thứ hai tại Mỹ có xu hướng theo Kito 
giáo nhiều hơn, các nhà thờ Kito giáo của họ đã được xây dựng ở 
nhiều thành phố tại bang California, Tacoma, Washington.
Rõ ràng, cộng đồng người Mỹ gốc Nhật đã duy trì và phát  
triển nền văn hóa truyền thống trong khuôn khổ  của xã hội Mỹ.  

Đó là sự  cần thiết để  hòa nhập vào cộng đồng có nhiều sắc tộc, 
tôn giáo như nước Mỹ.
Đời sống của người Nhật tại Mỹ trong các trung tâm di  
dời từ năm 1942 đến năm 1945
Cuộc sống trong các trại di tản này đã tác động sâu sắc  
đến cuộc  sống của người Mỹ  gốc Nhật, người Mỹ  gốc Nhật còn 
phải từ bỏ tất cả tài sản của họ. Các kĩ sư, doanh nhân, bác sĩ, nha sĩ  
bị mất nhà cửa, sự nghiệp. Còn những người làm công ăn lương thì bị 
hạn chế về hành động và mất cơ hội thăng tiến trong công việc [29, 
tr. 129]. 
Trong các trại tập trung, họ phải đối mặt với sự đàn áp về 
chủng tộc phía sau những hàng rào dây thép gai. Những người Nhật  
sống trong các khu nhà  ở  chật hẹp, ăn ngủ  theo giờ  quy định, sử 
dụng những loại thực phẩm không đảm bảo chất lượng. 
Tuy nhiên, đối với các gia đình người Nhật, giáo dục là 
mối quan tâm hàng đầu. Các lớp học được tổ  chức vào ban ngày  
20


hoặc ban đêm phù hợp với lịch trình của các trại. Giáo dục đã trở 
thành trung tâm quan trọng nhất trong cuộc sống  ở  các trại tập  
trung. 
Cuộc sống trong các trại di tản này còn tác động đến tâm lí 
của cộng đồng người gốc Nhật.  Ngày 2 tháng 7 năm 1948 , Quốc  
hội đã thông qua Đạo luật khiếu nại của người Mỹ gốc Nhật. Đạo 
luật cho pho phép họ khiếu nại những tổn thất và thiệt hại về  tài  
sản do quá trình di tản.
Phong trào đấu tranh chống phân biệt đối xử 
Đầu thế  kỉ  XX, các tổ  chức bài trừ, chống người Nhật 
ngày càng tăng. Sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất, các tổ chức này 

đã thông qua năm nội dung trong chương trình hoạt động: Hủy bỏ 
“Hiệp  ước Quý ông”; Ngăn chặn “Cô dâu  ảnh”; Ngăn cấm hoạt  
động di cư  từ các vùng xa xôi của nước Nhật; Có chính sách xác  
thực đối với những người châu Á được cấp quyền công dân; Sửa 
đổi quy định để chỉ có những trẻ em được sinh ra tại Mỹ có quyền 
công dân khi có cả bố và mẹ có đầy đủ tư cách là công dân [29, tr. 
35].
Tuy nhiên, với sự  tăng lên của số  lượng Nisei  ở  độ  tuổi  
trưởng thành, các vấn đề về quyền của người Mỹ gốc Nhật được 
quan tâm nhiều hơn. 
3.2. Một số  nhận xét về  vai trò người nhập cư  Nhật Bản tại  
Mỹ
* Đối với nước Mỹ:
 Cộng đồng người Nhật tại Mỹ tuy chiếm một tỉ lệ nhỏ so  
với nhiều cộng đồng di cư khác song họ đã có những đóng góp cho  
sự phát triển của nước Mỹ. Họ đã có đóng góp trên nhiều lĩnh vực  
như kinh tế nông nghiệp, khoa học, nghệ thuật,…
­ Trong lĩnh vực kinh tế:
21


Tại Hawaii, người Nhật Bản trở thành lực lượng lao động 
chính trong các trang trại trồng mía vàchịu trách nhiệm cung cấp 
phần lớn sản lượng cà phê tại Hawaii. Họ  đã giới thiệu phương  
pháp tưới tiêu phức tạp có thể cho phép trồng các loại trái cây, rau  
và hoa trên các vùng đất trước đây không trồng được.Quan trọng 
nhất họ  biến nông nghiệp trở  thành một ngành mang tính thương  
mại.
Bên cạnh ngành nông nghiệp, người Nhật còn hoạt động  
trong   nhiều   ngành   kinh   tế   khác.Một   trong   những   ngành   mà   bộ 

phận người Nhật chiếm số đông là đánh bắt cá.
­ Trong lĩnh vực Chính trị ­ Quân sự:
Trong cộng đồng người Mỹ  gốc Nhật xuất hiện một số 
nhân vật có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này.John Fujio Aiso  
(1909­1987)   là   giám  đốc  tình  báo  quân sự.Clarence   Takeya   Arai  
(1901­1964) là một luật sư  ở Seattle, tham gia hoạt động chính trị 
của Đảng Cộng hòa ở bang Washington trong năm 1930…
Những công dân Mỹ  gốc Nhật cũng có những đóng góp 
trong lĩnh vực chính trị ­ quân sự, đặc biệt là trong Chiến tranh thế 
giới thứ Hai.Ngay tại thời điểm đó, 1.200 Nisei tại các trung tâm di 
dời đã tình nguyện tham gia quân đội [86, tr.46].Có khoảng 100 phụ 
nữ tham gia Quân đoàn Phụ nữ [86, tr. 48].
­ Trong lĩnh vực văn hóa:
Tại Hawaii, cộng đồng người Nhật chiếm đa số và có ảnh hưởng  
văn hóa mạnh nhất.Trung tâm tiếng Nhật tại Hilo trở  thành bảo  
tàng văn hóa của người Nhật.
Việc lưu giữ  và phát triển văn hóa truyền thống vừa làm  
phong phú, đa dạng nền văn hóa của nước Mỹ  nhưng đồng thời 
cũng là một trong những nguyên nhân khiến người Nhật khó hòa  
nhập vào xã hội Mỹ.
22


×