Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá kết quả phẫu thuật biến dạng quay sấp cẳng tay và co rút gấp cổ tay – bàn tay ở trẻ bại não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.54 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT BIẾN DẠNG QUAY SẤP CẲNG TAY
VÀ CO RÚT GẤP CỔ TAY – BÀN TAY Ở TRẺ BẠI NÃO
Phan Đức Minh Mẫn*, Ngô Anh Tuấn**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bại não là biểu hiện các biến dạng cơ xương khớp do tổn thương không tiến triển của hệ thống
thần kinh trung ương thường xảy ra trong thời điểm chu sinh ở não. Ở trẻ em bị bại não, tư thế cổ tay cũng như
vận động cổ tay chiếm vai trò quan trọng trong một số hoạt động đơn giản như tập di chuyển, giúp thực hiện một
số động tác trong sinh hoạt và một số động tác phức tạp hơn được dễ dàng hơn. Chúng tôi ghi nhận các biến dạng
ở chi trên bệnh nhân bại não thường gặp là biến dạng co rút gập cổ tay – ngón tay, sấp cẳng tay, khép ngón cái và
các biến dạng này có thể được cải thiện phần nào thông qua các liệu trình điều trị vật lý trị liệu và điều trị phẫu
thuật. Tuy nhiên, việc điều trị chưa có sự kết hợp hệ thống giữa phẫu thuật, vật lý phục hồi, các cơ sở sản xuất các
phương tiện hỗ trợ cho bệnh nhân bại não sau phẫu thuật.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị phối hợp phục hồi chức năng sau mổ trong điều trị biến
dạng quay sấp cẳng tay và co rút gấp cổ tay – bàn tay ở trẻ bại não.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là phương pháp nghiên cứu tiến cứu, mô tả loạt ca không đối chứng với cỡ
mẫu là 50 bệnh nhân. Đối tượng được chọn vào nghiên cứu là các trường hợp bệnh nhân bị bại não có di chứng
biến dạng quay sấp cẳng tay và di chứng co rút gấp cổ tay – bàn tay tại khoa Phẫu Thuật Chỉnh Hình – Bệnh viện
Chỉnh Hình và Phục Hồi Chức Năng Thành Phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến 2013.
Kết quả nghiên cứu: Sau phẫu thuật, kết quả trung bình sau một năm ở 50 bệnh nhân có 2 trường hợp
(4%) vẫn còn biến dạng gấp cổ tay, bàn tay như cũ. 4%(2 bệnh nhân) không cải thiện chức năng bàn tay. Chức
năng bàn tay sau phẫu thuật tăng từ mức 3,13 lên 5,38 (tăng thêm 2,25). Số bệnh nhân còn biến dạng quay sấp
cẳng tay chiếm 69,6%. Tuy nhiên không còn bệnh nhân biến dạng quay sấp nặng, số bệnh nhân hầu hết tập trung
vào loại tốt và khá là 32 bệnh nhân (69,6%), loại trung bình là 10 bệnh nhân (21,7%).
Kết luận: Phương pháp phẫu thuật biến dạng quay sấp cẳng tay và co rút gấp cổ tay-bàn tay ở trẻ bại não là
phương pháp dễ thực hiện. Kéo dài được khối cơ từ những đơn vị sợi cơ mà ít gây ảnh hưởng đến phần khác với
phẫu thuật cắt bao cân mạc cơ. Phương và hướng của lực kéo khi hoạt động hầu như không có sự thay đổi so với


tự nhiên đối với phẫu thuật chuyển gân duỗi cổ tay trụ sang duỗi cổ tay quay. Việc giải phóng điểm bám gân sấp
tròn trong biến dạng quay sấp cẳng tay tạo điều kiện cho sự cân bằng cho nhóm cơ sấp và ngửa.
Từ khóa: biến dạng quay sấp cẳng tay, co rút gấp cổ tay – bàn tay, trẻ bại não.

ABSTRACT
EVALUATION OF SURGICAL TREATMENT FOR PRONATING DEFORMITIES OF THE FOREARM
AND RETRACK DEFORMITIES OF WRIST AND HAND IN CHILDREN WITH CEREBRAL PALSY
Phan Duc Minh Man, Ngo Anh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 168 - 175
Introduction: Cerebral palsy is the musculoskeletal manifestation of a nonprogressive central nervous
system lesion that usually occurs due to a perinatal insult to the brain. In children with cerebral palsy, wrist
posture and movement play an important role in some simple activities such as practicing movement, help doing
*Bệnh viện CTCH TP. Hô Chí Minh, ** Bệnh Viện Chỉnh Hình và Phục Hồi Chức Năng
Tác giả liên lạc: Ths. BS. Ngô Anh Tuấn
ĐT: 0938636118
Email:

168

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

some routine activities and partially doing a few complex activities more easier. We noted that the retraction of
wrist-hand fold, forearm pronation, and the thumb closing are the common of the upper limbs deformities in
cerebral palsy patients. These deformities can be partially improved by physiotherapist and surgeon. However, the
treatment does not have the harmonious combination among surgeon, and rehabilitation.

Objectives: To evaluate the results of surgical treatment for pronating deformities of the forearm and retrack
deformities of wrist and hand in children with cerebral palsy.
Methods: The prospective study was carried out in 50 cerebral palsy patients who have forearm pronation
deformity and the retraction of wrist-hand fold of Orthopedics and Rehabilitation hospital Ho Chi Minh city from
2011 to 2013.
Results: The average result of 50 patients after one year was2 cases (4%) of unchanged wrist deformity. Four
percents (2 patients) do not improve hand function. Hand function after surgery increased from 3.13 to 5.38
(added 2.25). Sixty nine point six percent mild forearm pronation deformity. However, no severe deformity was
found, and 32 patients (69.6%) and 10 patients (21.7%) were in good and moderate points, respectively.
Conclusion: Surgical treatment for forearm pronation deformity and the retraction of wrist-hand fold in
children with cerebral palsy are not so demanded. Stretching muscular bundles from muscular units affect
minimally other parts less than fasciotomy. Biomechanics seems to unchange when extensor carpi ulnar is
transferred to extensor carpi radialis. This is very important for choosing tendon transfer. The releasing of
pronator teres insertion facilitates the balance between pronator and supinator groups.
Keywords: forearm pronation deformity, the retraction of wrist-hand fold, children with cerebral palsy.
đó gây khó khăn toàn diện trong việc điều trị
ĐẶT VẤN ĐỀ
từ lúc bệnh lý được phát hiện cho đến lúc trẻ
Bại não là biểu hiện các biến dạng cơ
trưởng thành. Tại một số bệnh viện, phẫu
xương khớp do tổn thương không tiến triển
thuật chỉnh hình cũng đã được triển khai để
của hệ thống thần kinh trung ương thường
điều trị bại não nhưng chủ yếu tập trung giải
xảy ra trong thời điểm chu sinh ở não. Ở
quyết các biến dạng ở chi dưới, đối với những
những trẻ em bị bại não, tư thế cổ tay cũng
biến dạng ở chi trên, điều trị phẫu thuật cũng
như vận động cổ tay chiếm vai trò quan trọng
như phục hồi sau phẫu thuật còn thấp.

trong một số hoạt động đơn giản như tập di
Từ những yếu tố đó, chúng tôi lựa chọn đề
chuyển, thực hiện một số động tác trong sinh
tài: “Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật biến
hoạt được dễ dàng hơn như bưng bát (chén)
dạng quay sấp cẳng tay và co rút gấp cổ tay –
ăn, giúp mặc được áo… và một số động tác
bàn tay ở trẻ bại não”.
phức tạp hơn như chải đầu, cầm nắm đồ
Mục tiêu nghiên cứu
vật...(2,4,5). Chúng tôi ghi nhận các biến dạng ở
chi trên bệnh nhân bại não thường gặp là biến
Mô tả đặc điểm lâm sàng đối với biến dạng
dạng co rút gập cổ tay – ngón tay, sấp cẳng
quay sấp cẳng tay và biến dạng co rút gấp cổ tay,
tay, khép ngón cái và biến dạng này có thể
chỉ định phẫu thuật cho những biến dạng này.
được cải thiện phần nào thông qua các liệu
Đánh giá, theo dõi kết quả về phối hợp vận
trình điều trị vật lý trị liệu và điều trị phẫu
động cầm nắm, sấp ngửa và phục hồi chức năng
thuật. Tuy nhiên, việc điều trị chưa có sự kết
sau mổ.
hợp hệ thống giữa phẫu thuật, vật lý phục hồi,
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
các cơ sở sản xuất các phương tiện hỗ trợ cho
bệnh nhân bại não sau phẫu thuật, hơn hết là
Đối tượng nghiên cứu
từ phía kinh phí của gia đình người bệnh. Do
Gồm các trường hợp bệnh nhân bị bại não có


Ngoại Tổng Quát

169


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

di chứng biến dạng quay sấp cẳng tay và di
chứng co rút gấp cổ tay – bàn tay tại khoa Phẫu
Thuật Chỉnh Hình – Bệnh viện Chỉnh Hình và
Phục Hồi Chức Năng Thành Phố Hồ Chí Minh
từ năm 2011 đến 2013.

Tiêu chí loại trừ
- Bệnh nhân có mức độ co cứng cơ từ 3 theo
thang điểm của Ashworth cải tiến.
- Bệnh nhân có mức độ đánh giá hệ thống
phân loại chức năng vận động tổng (GMFCS)
mức V.
- Tâm thần và tinh thần người bệnh không
ổn định.
- Người nhà và bệnh nhân không hợp tác
điều trị.

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu
Cỡ mẫu nghiên cứu: Cỡ mẫu 35 bệnh nhân

được tính theo công thức

KẾT QUẢ
Từ tháng 4/2011 đến tháng 11/2013, tại khoa
Phẫu thuật chỉnh hình bệnh viện Chỉnh Hình và
Phục Hồi Chức Năng thành phố Hồ Chí Minh,
chúng tôi đã thực hiện phẫu thuật cho 52 trường
hợp và khám theo dõi đầy đủ được 50 bệnh
nhân có biến dạng co rút gập cổ tay và biến dạng
quay sấp, hai trường hợp không trở lại tái khám
sau phẫu thuật. kết quả thu thập các thông số
thống kê như sau:

Đánh giá biến dạng gấp cổ tay theo phân
loại của Zancolli
Trong 52 trường hợp phẫu thuật có:
Loại IIA: 6 trường hợp (11,5%)
Loại IIB: 46 trường hợp (88,5%)
Nhận xét: Qua đó có thể thấy được tình
trạng yếu liệt của cơ cổ tay khá phổ biến đối
với biến dạng co rút gấp cổ tay – bàn tay ở trẻ
bại não.

Đánh giá tình trạng vận động chủ động của
bàn tay:
Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để nhập dữ
kiện và xử lý toán thống kê.
Phân loại được sử dụng trong nghiên cứu
Phân loại được sử dụng trong nghiên cứu

là phân loại biến dạng co rút gấp cổ tay theo
Zancolli E.A., phân loại biến dạng quay sấp
của Gschwind và Tonkin, phân loại chức năng
bàn tay của House J.H.

Bảng 1: Khả năng nắm và mở bàn tay chủ động
(n = 52).
Loại
Động tác
Nắm bàn Hoàn toàn
tay Không hoàn
(n = 52)
toàn
Mở bàn Hoàn toàn
tay Không hoàn
(n = 52)
toàn

IIA

IIB

Tổng
cộng

Tỷ lệ (%)

6

25


31

59,62

0

21

21

40,38

5

24

29

55,77

1

22

23

44,23

Nhận xét: tình trạng co cứng các cơ gấp cổ

tay và yếu liệt khá phổ biến trong các biến dạng
co rút gấp cổ tay và bàn tay loại II theo Zancolli.

Đánh giá tình trạng co cứng các cơ gấp cổ tay và cơ sấp theo thang điểm Ashworth
Bảng 2: Mức độ co cứng các cơ gấp cổ tay và cơ sấp tròn.


170

Mức độ co cứng Không tăng trương lực cơ rõ
IIA
IIB
N
4
7
Cơ sấp tròn
%
7,7%
13,5%
N
4
12
Cơ gấp cổ tay trụ
%
7,7%
23,1%
N
6
27
Cơ gấp cổ tay quay

%
11,5%
51,9%

Tăng trương lực cơ rõ
IIA
IIB
2
39
3,8%
75,0%
2
36
3,8%
69,2%
0
19
0%
36,5%

Tổng cộng
52
100%
52
100%
52
100%

Chuyên Đề Ngoại Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Mức độ co cứng Không tăng trương lực cơ rõ
IIA
IIB
N
6
25
Cơ gan tay dài
%
11,5%
48,1%
N
5
39
Cơ gấp chung các ngón nông
%
9,6%
75%
N
5
37
Cơ gấp chung các ngón sâu
%
9,6%
71,2%


Tăng trương lực cơ rõ
IIA
IIB
0
21
0%
40,4%
1
7
1,9%
13,5%
1
9
1,9%
17,3%



Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi
nhận thấy sự co cứng chủ yếu ở nhóm cơ gấp,
và hầu hết bệnh nhân có biến dạng quay sấp
cẳng tay có sự co cứng cơ sấp tròn. Chúng tôi
nhận thấy biến dạng co rút gập cổ tay ở trẻ bại
não có liên quan đến sự co cứng của nhóm cơ
gập cổ tay.

Đánh giá tình trạng các biến dạng phối hợp
chi trên
Chúng tôi nhận thấy biến dạng quay sấp
cẳng tay xuất hiện ở hầu hết bệnh nhân bị bại

não. Biến dạng quay sấp cẳng tay có liên quan
và làm nặng thêm tình trạng biến dạng co rút
gập cổ tay (p = 0,011 < 0,05) với phép kiểm Chi
bình phương.

Tổng cộng
52
100%
52
100%
52
100%

Bảng 3: Tỷ lệ biến dạng sấp cẳng tay theo phân loại
Gschwind CR JH (n =52).
Gấp cổ tay
Loại IIA Loại IIB
Sấp cẳng tay
Có biến
Loại 1
dạng
Loại 2
Loại 3
Loại 4
Không biến dạng
Tổng cộng

2
1
0

0
3
6

13
13
17
0
3
46

Tổng
Tỷ lệ (%)
cộng

46

88,5%

6
52

11,5%
100%

Đánh giá chức năng bàn tay trước phẫu
thuật
Qua đó chúng tôi nhận thấy chức năng bàn
tay của bệnh nhân trước mổ chỉ dừng lại ở mức
giữ được vật nhẹ trong lòng bàn tay.


Bảng 4: Đánh giá chức năng bàn tay trước phẫu thuật theo phân loại của House (n = 52).
Phân loại
Loại IIA
Loại IIB
Tổng số
Tỷ lệ (%)

0
0
0
0
0

1
0
1
1
1,9%

2
0
16
16
30,8%

3
1
20
21

40,4%

4
1
4
5
9,6%

5
3
4
7
13,5%

6
1
1
2
3,8%

7
0
0
0
0

8
0
0
0

0

Tổng số
6
46
52
100%

_

x

= 3,13 (SD = 1,17)

Kết quả điều trị
Kết quả sau 3 tháng
Kết quả điều trị biến dạng quay sấp cẳng tay

nhận thấy sự thay đổi về tình trạng sấp ngửa so
với trước mổkhông có ý nghĩa thống kê (p =
0,47> 0,05 theo phép kiểm Chi bình phương) ở
thời điểm khảo sát sau 3 tháng.

Trong số 46 bệnh nhân có biến dạng quay
sấp cẳng tay, sau phẫu thuật 3 tháng,chúng tôi
Bảng 5: Kết quả phục hồi biến dạng quay sấp cẳng tay sau 3 tháng theo phân loại của Gschwind C.R và Tonkin.
Gấp cổ tay
Loại IIA

Loại IIB


2(4,3%)
0
0
0
1(2,2%)
3

14(30,4%)
19(41,3%)
1(2,2%)
0
9(19,6%)
43

Tổng cộng

Tỷ lệ (%)

36

78,26%

10
46

21,74%
100%

Sấp cẳng tay

Loại 1
Loại 2
Có biến dạng
Loại 3
Loại 4
Không biến dạng
Tổng cộng

Ngoại Tổng Quát

171


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Đánh giá chức năng bàn tay theo phân loại của House
sau 3 tháng

sấp tròn (p = 0,017 < 0,05 theo phép kiểm Chi

Trung bình mức chức năng bàn tay ở thời
điểm này đã đạt được 3,98 (SD = 1,04). Bằng
phép kiểm T – test so sánh trung bình chức năng
bàn tay của 50 bệnh nhân đạt được ở thời điểm
này và thời điểm trước mổ, chúng tôi nhận thấy
sự gia tăng về chức năng bàn tay của bệnh nhân
là 0,8 (SD = 0,833, p < 0,01) có ý nghĩa thống kê.


Đánh giá chức năng bàn tay theo phân loại của House
sau 6 tháng

Bảng 6: Đánh giá chức năng bàn tay theo phân loại
của House sau 3 tháng (n = 50).
Phân
loại
Loại IIA
Loại IIB
Tổng số
Tỷ lệ
(%)

0

1

2

3

4

5

6

7

8


0
0
0

0
0
0

0
3
3

0
13
13

1
19
20

3
8
11

1
1
2

1

0
1

0
0
0

0

0

6% 26% 40% 22% 4% 2% 0

Tổng
số
6
44
50
100

_

x = 3,98 (SD = 1,04)
Kết quả sau 6 tháng
Trong 52 bệnh nhân, sau 6 tháng chúng tôi

bình phương).

Trung bình mức chức năng bàn tay ở thời
điểm này đã đạt 4,76 (SD = 1,18). Bằng phép

kiểm T – test so sánh trung bình chức năng
bàn tay của 50 bệnh nhân đạt được ở thời
điểm này và thời điểm 3 tháng sau mổ (bảng
6), chúng tôi nhận thấy sự gia tăng về chức
năng bàn tay của bệnh nhân là 0,78 (SD =
0,789, p < 0,01) có ý nghĩa thống kê.
Bảng 8: Đánh giá chức năng bàn tay theo phân loại
của House sau 6 tháng (n = 50).
Phân
loại
Loại IIA
Loại IIB
Tổng
số
Tỷ lệ
(%)

0

1

2

3

4

5

6


7

0
0

0
0

0
2

0
4

0
15

2
13

2
9

2
1

Tổng
số
0

6
0
44

0

0

2

4

15

15

11

3

0

50

0

0 4% 8% 30% 30% 22% 6%

0


100

_

chỉ tái khám được 50 bệnh nhân (96,15%) gồm:
loại IIA là 6 bệnh nhân (12%) và loại IIB là 44
bệnh nhân (88%).
Kết quả phục hồi biến dạng quay sấp cẳng tay sau 6
tháng:
Bảng 7: Kết quả phục hồi biến dạng quay sấp cẳng
tay sau mổ 6 tháng theo phân loại của Gschwind C.R
và Tonkin (n = 46).
Gấp cổ tay
Tổng
Loại IIA Loại IIB
Tỷ lệ (%)
cộng
Sấp cẳng tay
Loại 1
0
23 (50%)
Loại
2
0
10
(21,74%)
Có biến
33 71,74%
dạng
Loại 3

0
0
Loại 4
0
0
Không biến dạng 3 (6,52%) 10 (21,74%) 13 28,26%
Tổng cộng
3
43
46
100%

Nhận xét: Trong số 46 bệnh nhân có biến
dạng quay sấp cẳng tay, sau phẫu thuật 6
thángkhông còn bệnh nhân biến dạng nặng.
Chúng tôi nhận thấy sự thay đổi về tình trạng
sấp ngửa (biến dạng quay sấp cẳng tay) có liên
quan đến phẫu thuật giải phóng điểm bám cơ

172

8

x = 4.76 (SD = 1.18)
Kết quả xa
Kết quả điều trị biến dạng quay sấp cẳng tay
Bảng 9: Kết quả xa phục hồi biến dạng quay sấp cẳng
tay theo phân loại của Gschwind C.R JH (n = 46).
Gấp cổ tay
Loại IIA Loại IIB

Sấp cẳng tay
Loại 1
0
22(47,8%)
0
10(27,1%)
Có biến Loại 2
dạng
Loại 3
0
0
Loại 4
0
0
Không biến dạng 3(6,5%) 11(23,9%)
Tổng cộng
3
43

Tổng
cộng

Tỷ lệ
(%)

32

69,6%

14

46

30,4%
100%

Nhận xét: Ở thời điểm này mức ngửa cẳng
_

tay trung bình của bệnh nhân là  x = 45,980 (SD =
38,39), so sánh với tình trạng ngửa cẳng tay trước
mổ là hầu hết bệnh nhân không ngửa được cẳng
_

tay về vị trí trung tính ( x = -23,690, SD= 52,34).
Bằng phép kiểm T – test, chúng tôi nhận thấy sự
thay đổi về tình trạng ngửa cẳng tay sau phẫu
thuật giải phóng điểm bám gân sấp tròn liên

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

quan đến biến dạng quay sấp cẳng tay ở trẻ bại
não có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).

thể hiểu và hợp tác tốt khi tập phục hồi chức


Bảng 10: Đánh giá chức năng bàn tay theo phân loại
của House sau 1 năm.

Chúng tôi có 49/50 trường hợp có sự thay đổi
về tư thế cổ tay sau phẫu thuật. Tuy nhiên trong
đó có 23 trường hợp tư thế cổ tay chưa đạt được
về vị trí trung tính. Vấn đề này cũng được tác giả
Van Heest A.E nhắc đến khi sử dụng gân duỗi
cổ tay tay trụ chuyển sang duỗi cổ tay quay.
Trong nghiên cứu của tác giả này có 42/137
trường hợp được thực hiện dùng gân duỗi cổ tay
trụ chuyển sang duỗi cổ tay quay, kết quả theo
dõi trong lô bệnh này có 41/42 bệnh nhân có sự
thay đổi tư thế, trong đó có 20 trường hợp cổ tay
xấp xỉ mức trung tính(8). Nguyên nhân được các
tác giả đưa ra là: khâu gân không đạt được độ
căng cần thiết(8). Vị trí khâu gân chuyển đến tăng
cường còn quá cao và chùng nên không tạo được
trục thẳng theo cơ liệt, không đủ lực kéo để giữ
tư thế cổ tay, kỹ thuật trong khâu đính gân chưa
được tốt. Mặt khác, lực gây co rút chưa được giải
phóng thoả đáng là nguyên nhân gây tái phát
biến dạng(3,7,8,9).

Phân
loại
Loại IIA
Loại IIB
Tổng số
Tỷ lệ

(%)

0

1

2

3

4

5

6

7

8

0
0
0

0
0
0

0
1

1

0
1
1

0
9
9

1
14
15

0
15
15

3
2
5

2
2
4

0

0


2% 2% 18% 30% 30% 10% 8%

Tổng
số
6
44
50
100

_

x = 5,46 (SD= 1,29)
Nhận xét: Sự gia tăng của chức năng bàn tay
của trẻ bại não theo nghiên cứu của chúng tôi có
liên quan đến phẫu thuật và có ý nghĩa thống kê
với p = 0,023 < 0,05 theo phép kiểm Chi bình
phương. Bằng phép kiểm T – test so sánh trung
bình chức năng bàn tay của 50 bệnh nhân đạt
được ở thời điểm này ( x = 5,46 (SD= 1,29)) và
_
thời điểm 3 tháng sau mổ ( x = 3,98 (SD = 1,04)),
chúng tôi nhận thấy kết quả xa về sự gia tăng về
chức năng bàn tay của bệnh nhân so với kết quả
gần là 1,48 (SD = 0,838, p < 0,01), so với trước mổ
là 2,28 (SD = 1,031, p < 0,01).
_

BÀN LUẬN
Tuổi trung bình trong lô nghiên cứu của
chúng tôi là 10,54 tuổi lớn nhất là 16 tuổi và nhỏ

nhất là 4 tuổi, tỉ lệ nam/nữ là 1,36/1, không có sự
khác biệt tuổi trung bình ở hai nhóm giới tính (p
= 0,94). Lứa tuổi hay gặp nhất trong lô nghiên
cứu chúng tôi là hơn 8 tuổi chiếm 69,2% các
trường hợp, lứa tuổi dưới 4 tuổi suất độ ít.
So với báo cáo của tác giả Lê Nghi Thành
Nhân(5), tuổi trung bình là 10,57, lứa tuổi hay
gặp trong lô nghiên cứu của tác giả này là hơn
8 tuổi (61,22%).
Các báo cáo của Keat S, Miller GA, Van
Heest EA, Skoff H.(1,4,,8,6) đều cho rằng lứa tuổi
thích hợp nhất để phẫu thuật đối với chi trên
thay đổi trong khoảng từ 4 – 8 tuổi, khi sự mất
cân bằng giữa cơ, biến dạng khớp và những biến
dạng khác chưa quá nặng và ở độ tuổi này trẻ có

Ngoại Tổng Quát

năng sau phẫu thuật.

3/6 bệnh nhân nhóm IIA có biến dạng quay
sấp cẳng tay, sau phẫu thuật và điều trị các bệnh
nhân đã hết biến dạng quay sấp cẳng tay. Theo
ghi nhận trong nghiên cứu, các bệnh nhân này
có sự tập luyện vật lý trị liệu liên tục sau mổ. Tuy
nhiên chúng tôi còn bị hạn chế trong việc theo
dõi cường độ, mức độ và thói quen tập luyện của
bệnh nhân sau mổ.
Còn đối với các bệnh nhân loại IIB, so với
trước phẫu thuật thì chúng tôi ghi nhận trong lô

nghiên cứu các bệnh nhân vẫn còn biến dạng
quay sấp cẳng tay (32/46 bệnh nhân) nhưng rơi
vào các biến dạng loại 1 và loại 2 (69,6%), trong
đó loại 1 chiếm đa số (12/32 bệnh nhân) đạt
39,1%. Mức bệnh nhân đạt kết quả khá và tốt
chiếm 78,2%. Số bệnh nhân đạt kết quả trung
bình chiếm 30,4%, không có bệnh nhân nào có
kết quả kém. So với kết quả của một số nghiên
cứu trong và ngoài nước Lê Nghi Thành Nhân(5)
là loại 1 và loại 2 chiếm 73,2%, của Goran C. tỉ lệ
tốt và khá chiếm 80%.

173


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

So sánh kết quả trước mổ với mức chức năng
trung bình là 3,13 (SD = 1,17) bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi đạt được 5,46 (SD =
1,29) mức sau phẫu thuật. So sánh với kết quả tác
giả Lê Nghi Thành Nhân(5) thì chức năng bàn tay
trung bình sau mổ đạt được là 5,2 (SD = 1,44). So
sánh với kết quả của nước ngoài thì chúng tôi
nhận thấy kết quả của mình còn thấp hơn các tác
giả khác với lý do như sau: chưa có đủ kinh
nghiệm trong việc đánh giá biến dạng trước mổ
trong thời gian đầu của nghiên cứu dẫn đến sai

lầm trong việc lựa chọn phương pháp điều trị;
chưa có kinh nghiệm trong việc điều chỉnh lực
căng của các cơ khi chuyển gân nên kết quả còn
hạn chế; một vài bệnh nhân không có sự hỗ trợ
lâu dài của gia đình trong việc tập luyện phục
hồi chức năng trước và sau phẫu thuật.

KẾT LUẬN
Kết quả trung bình sau một năm ở 50 (bệnh
nhân) có 2 trường hợp (4%) vẫn còn biến dạng
gấp cổ tay, bàn tay như cũ. 4%(2 bệnh nhân)
không cải thiện chức năng bàn tay. Chức năng
bàn tay sau phẫu thuật tăng từ mức 3,13 lên 5,38
(tăng thêm 2,25).
50 trường hợp (96,1%) cải thiện động tác
duỗi cổ tay khi duỗi các ngón tay. Trung bình
biên độ duỗi cổ tay khi duỗi ngón là 130 (loại IIA:
280, loại IIB: 110). Trung bình động tác gấp cổ tay
khi duỗi ngón là 270 (loại IIA: 370, loại IIB: 250). Tỷ
lệ sấp ngửa cẳng tay loại 1 và loại 2 là 32 bệnh
nhân (69,6%)
Sau phẫu thuật, số bệnh nhân còn biến
dạng quay sấp cẳng tay chiếm 69,6%. Tuy
nhiên không còn bệnh nhân biến dạng quay
sấp nặng, số bệnh nhân hầu hết rơi vào loại tốt
và khá là 32 bệnh nhân (69,6%), loại trung
bình là 10 bệnh nhân (21,7%).

Dùng gân duỗi cổ tay trụ chuyển sang
duỗi cổ tay quay, đây là gân có chức năng

duỗi cổ tay nên người bệnh sẽ sớm thích nghi
với sự có mặt của gân mới. Phương và hướng
của lực kéo khi hoạt động hầu như không có
sự thay đổi so với tự nhiên, đây là điều quan
trọng trong việc lựa chọn gân chuyển. Hơn
nữa sẽ không gây yếu cho hoạt động gấp cổ
tay như dùng gân gấp cổ tay trụ.
Việc giải phóng điểm bám gân sấp tròn trong
biến dạng quay sấp cẳng tay tạo điều kiện cho sự
cân bằng cho nhóm cơ sấp và ngửa(4).

Nhược điểm:
Đối với phẫu thuật cắt bao cân mạc cơ, sau
khi kéo dài sợi cơ thì tạo thành những khoang
xung quanh vị trí cắt, dễ gây tụ máu sung nề.
Đối với kỹ thuật chuyển gân dùng gân gấp
cổ tay trụ chuyển sang duỗi cổ tay quay: bản
thân trong các trường hợp biến dạng co rút gấp
cổ tay – bàn tay bại não hệ thống gân duỗi
thường bị yếu hoặc liệt, hơn hết gân sau khi
chuyển sức cơ sẽ giảm một bậc, do vậy sau khi
chuyển gân duỗi cổ tay trụ sang duỗi cổ tay quay
chỉ đơn thuần duy trì tư thế cổ tay, còn hoạt
động duỗi cổ tay sẽ không tăng thêm so với các
phương pháp chuyển gân gấp cổ tay trụ lên duỗi
cổ tay quay.
Đối với phương pháp phẫu thuật giải phóng
điểm bám gân sấp tròn: đây là gân chiếm vai trò
quan trọng trong việc sấp cẳng tay. Việc giải
phóng điểm bám sẽ phần nào ảnh hưởng đến

hoạt động sấp cẳng tay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

Ưu điểm:
Là phương pháp dễ thực hiện.
Kéo dài được khối cơ từ những đơn vị sợi cơ
mà ít gây ảnh hương đến phần khác với phẫu
thuật cắt bao cân mạc cơ(9).

174

3.

Baratz Mark E (2006). Tendon Transfer for Wrist Extension. In:
Baratz Mark E,Wrist Surgery: Tricks of the Trade, 1st Edition,
pp.178 – 180, Thieme, New York.
Bùi Văn Đức (2010), Biến dạng cơ xương khớp – Dị tật bẩm
sinh. In: Bùi Văn Đức,Chấn thương chỉnh hình - Chi trên, ấn bản
lần 1, tr. 381- 385, tr. 484 – 508. NXB Thể dục thể thao, TP.
HCM
Čobeljić G, Rajković S, Atkinson HD (2015), “The results of
surgicaltreatment for pronation deformities of the forearm in
cerebral palsy after a mean followup of 17.5 years”. J Orthop
Surg Res.10(1): p.106.

Chuyên Đề Ngoại Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
4.

5.

6.
7.

Gschwind C, Tonkin M (1992).Surgery for cerebral palsy - Part
1: Classification and operative procedures for pronation
deformity. J Hand Surg Br.;17:391–395.
Lê Nghi Thành Nhân (2008), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng
và đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị biến dạng vùng cẳng
tay và bàn tay do di chứng bại não”.Tạp chí y học thực hành, số
620-621, tr.320-325.
Miller F (2005). In: Miller F, Cerebral palsy, 1st ed, pp 114-140,
Springer, Berlin.
Ozkan T, Tuncer S (2012). “Upper extremity surgery in spastic
cerebral palsy”. Journal of Acedemic Research In Medicine, 2:
pp. 43 – 54.

Ngoại Tổng Quát

8.
9.

Nghiên cứu Y học


Van Heest EA (1999). Upper extremity surgical treatment of
cerebral. J Hand Surg Am. 24(2): 323 - 330.
Zancolli E (1979). Children with cerebral palsy. In: Zancolli E,
Structural and dynamic bases of hand surgery; 2nd Edition, pp. 263–
83. Lippincott, Philadelphia.

Ngày nhận bài báo:

18/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

19/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017

175



×