Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Báo cáo tóm tắt đề tài cấp bộ: Định hướng quy hoạch du lịch sinh thái tự nhiên vùng đồng bằng Sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.24 MB, 149 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

---    ---

BÁO CÁO TÓM TẮT ĐỀ TÀI CẤP BỘ

ĐỀ TÀI:

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
Cộng tác viên :Ths. GVC. Nguyễn Tấn Viện.
Ths. Trần Đức Minh
Ths. Phạm Thò Ngọc

Tp. Hồ Chí Minh , tháng 12 năm 2005


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths.GVC. Trần Văn Thành

LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn:
 Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Đòa, Phòng nghiên cứu khoa học và sau đại học
trường Đại học sư phạm TP.HCM đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho chúng tôi thực hiện đề
tài.
 UBND tỉnh, huyện, Sở Thương mại và Du lòch của 12 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu
Long đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho chúng tôi tham khảo tài liệu, khảo sát thực đòa, chụp ảnh, quay
phim.
 Ông Nguyễn Đức Ngắn, Giám đốc Trung tâm Sinh thái và Tài nguyên lâm nghiệp, Phân
viện điều tra Quy hoạch Rừng II đã tận tình giúp đỡ cung cấp nguồn tài liệu tham khảo đáng tin


cậy.

TP. HCM, ngày 20 tháng 12 năm 2005.
Chủ nhiệm đề tài và các cộng tác viên

Ths.GVC. Trần Văn Thành


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

PHẦN THỨ NHẤT

TỔNG QUAN

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ, MỤC TIÊU, NỘI
DUNG, PHƯƠNG PHÁP LUẬN, GIỚI HẠN PHẠM VI
NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ
TÀI


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ – MỤC
TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP

LUẬN, GIỚI HẠN PHẠM VI
NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1.1. Tổng quan về du lòch sinh thái.

Nhiều báo cáo vể DLST đã khẳng đònh DLST là hình thái du lòch không làm

tổn hại đến các khu vực tự nhiên, nhằm mục đích chiêm ngưỡng và hiểu biết thiên nhiên.

DLST như sự bền vững đã trở thành một thuật ngữ bàn cãi của những năm 1990
như một hình thức của du lòch lựa chọn ở các nước đang trở nên thân thiện với môi
trường và giảm thiểu những tác động có hại cho môi trường của du lòch. Thuật ngữ
Ecotourism (DLST) được viết tắt từ nhóm chữ Ecologically responsible tourism,
nghóa là du lòch ý thức sinh thái.

Cho đến nay, chúng ta đã rất cố gắng để xác đònh khái niệm DLST, nhưng
Eugenio Yunis (2002) cảm thấy những nỗ lực này là không cần thiết và vô ích vì có
nhiều hiểu biết du lòch liên quan đến thiên nhiên cũng được gọi là DLST. Do đó,
nói một cách cụ thể nhất thì chúng ta sẽ đồng ý với khái niệm “DLST là du lòch
được mở rộng hiểu biết về chúng”. Thực chất của khái niệm này là nhu cầu DLST
tác động lên khu vực tham quan một cách tối thiểu nhất. Do đó, sự hữu ích của khái
niệm này theo Liên đoàn Vườn Quốc Gia Châu Âu đã xác đònh du lòch bền vững
trong môi trường tự nhiên là: “Tất cả những loại hoạt động quản lý và phát triển du

lòch để duy trì sự thống nhất về kinh tế, xã hôi, môi trường và sự phát triển ổn đònh của
thiên nhiên để tạo ra nguồn tài nguyên văn hóa vónh cửu”.

Có thể nêu ra vài đònh nghóa về DLST sau đây:
- Hội Du lòch Sinh thái (Ecotourism Society, 1992): DLST là sự du hành có mục

đích tới các khu vực tự nhiên để hiểu biết lòch sử tự nhiên và văn hóa của môi
trường, không làm cải biến tính hoàn chỉnh của HST, đồng thời tạo cơ hội phát


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

triển kinh tế bảo trợ nguồn tài nguyên tự nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng
đòa phương.
- David Western: DLST là sự tạo nên và thỏa thuận sự khao khát thiên nhiên
là sư khai thác tiềm năng du lòch cho bảo tồn và phát triển, sự ngăn chặn các tác
động tiêu cực lên sinh thái văn hóa và thẩm mỹ.
- Theo Geoffrey Lipman, Chủ tòch Hội Du Lòch và Lữ hành Thế giới (WTTC),
DLST thực chất được hiểu theo hai nghóa:
- Nghóa rộng “E”: DLST là sự hướng về tự nhiên và bảo tồn chúng, cùng với
sự nhạy cảm ở nơi đến.
- Nghóa hẹp “e”: được xem như là sự hướng tới tạo cho mỗi nhà lữ hành trở
thành người nhạy cảm sinh thái bằng cách tạo dựng một khuôn khổ môi trường vào
nhiều khía cạnh của sản phẩm du lòch và sự tiêu thụ nó. Ý nghóa này có thể tạo
dựng một sự hỗ trợ tối ưu tới việc cải thiện môi trường, trong khi đó theo nghóa
rộng hàm chỉ những nhà lữ hành nhạy cảm sinh thái, có lẽ với ý nghóa sâu hơn của
du lòch xanh (green tourism).
1.1.2. Lợi ích kinh tế và xu hướng phát triển của du lòch sinh thái.

Tuy ngành DLST chỉ mới ra đời vào những năm 1990, bắt nguồn từ Châu
Phi, DLST đã nhanh chóng tràn qua Châu Mỹ, mở rộng ở Châu Âu và phát triển
mạnh ở Châu Á. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Du lòch Thế giới (WTO),
doanh thu từ DLST chiếm từ 2-10 tỉ đô la Mỹ trong tổng số 55 tỉ đô la Mỹ của thò
trường du lòch dưới các loại hình tại các quốc gia đang phát triển, tức là tại các

nước mà công nghiệp hiện đại chưa xâm chiếm hết đất đai có cảnh quan tự nhiên.
Các chuyên gia DLST ước tính thò trường DLST từ nay sẽ tăng từ 12-15% trong
thập kỉ tới do có bốn nhân tố tác động đến xu hướng phát triển DLST sau đây:
(i)

Tình hình căng thẳng trên thế giới giảm dần, dù có các tranh chấp
khác có tính đòa phương hay chủng tộc.

(ii)

Chi phí du lòch rẻ hơn trước.

(iii)

Xuất hiện nhiều thò trường du lòch đa dạng.

(iv)

Khách du lòch đựơc cung cấp thông tin tốt hơn và chính xác.

Theo nhận đònh của các WTO tại Châu Âu thì các nước phát triển thuộc
vùng nhiệt đới ở Châu Á là một thò trường thuận lợi nhất cho phát triển DLST. Các
nhà khoa học đã đánh giá Châu Á có môi trường sống phong phú nhất hành tinh
hiện nay. Ở đây có những HST rừng nhiệt đới độc đáo, ít có gây chết người hơn so
với các HST rừng ở Châu Phi và Nam Mỹ. Người ta cũng phát hiện ở vùng biển
nhiệt đới Châu Á có những bãi đá ngầm san hô tuyệt đẹp với đầy bí ẩn. Hơn nữa,
các nước Châu Á có một nền văn minh lâu đời hàng ngàn năm đến nay vẫn còn thể
hiện qua kiến trúc cổ xưa, tôn giáo trang nghiêm, một tập quán tôn trọng lễ giáo và
trang phục độc đáo đầy màu sắc, trong khi tại thế giới phương Tây mọi hình thức
trở nên máy móc và đơn điệu. Lãnh thổ Việt Nam là một bộ phận nhỏ bé của môi



Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

trường tự nhiên Châu Á, nhưng lại có một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
và hấp dẫn khách du lòch như các cảnh quan di sản tự nhiên thế giới: quần thể vònh
Hạ Long, động Phong Nha; các cảnh quan sinh thái rừng nhiệt đới cấp quốc gia như
Cúc Phương, Nam Cát Tiên…, và cả những HST rạn san hô nhiệt đới kỳ thú. Ở
vùng ĐBSCL cũng có nhiều tiềm năng tài nguyên du lòch có giá trò khai thác DLST
như các vườn quốc gia Tràm Chim, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Phú Quốc, các
cảnh quan sinh thái hang động Mo So, Hang Tiền, Thạch Động, Đá Dựng…, các
cảnh quan sinh thái đồi núi Cấm, Cô Tô…, các HST rừng ngập mặn (Cà Mau) và
rừng tràm (Vồ Dơi, Lung Ngọc Hoàng, U Minh, Tràm Chim), các cảnh quan sinh
thái đảo và quần đảo (hòn Khoai, hòn Đá Bạc…), các HST sân chim (Vàm Hồ, Gáo
Giồng, Bạc Liêu, Bằng Lăng, Trà Sư…) v…v….
1.1.3. Các điều kiện để phát triển và quản lí du lòch sinh thái bền vững.

Sự bền vững của quản lí và phát triển DLST là ưu tiên hàng đầu đối với các
chính phủ, các nhà chức trách ở đòa phương hay vùng trung tâm, các hãng du lòch
và các hiệp hội doanh nghiệp của họ. Chúng ta hãy giành lấy cơ hội để khẳng đònh
rõ ràng quan niệm du lòch bền vững không thể không gắn liền với DLST.
WTO cho rằng tất cả mọi hoạt động du lòch đều phải được điều chỉnh về mặt
lễ hội, thương mại, hội nghò và hội thảo về an toàn sức khỏe và sự mạo hiểm của
bản thân DLST để nó phải đạt tính bền vững. Điều này có nghóa là kế hoạch và sự
phát triển của cơ sở hạ tầng, hoạt động và việc tiếp thò nó phải tập trung vào các
mục tiêu về khả năng bền vững trong kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Do
đó phải đảm bảo rằng không có môi trường tự nhiên thì cũng không có kết cấu văn
hóa - xã hội của các chủ đầu tư sẽ bò giảm đi do sự lui tới của du khách du lòch;

ngược lại những người làm du lòch ở đòa phương sẽ thu lợi từ du lòch, cả về kinh tế
lẫn văn hóa.
Sự bền vững nghóa là các hãng du lòch cũng như là cộng đồng đòa phương nơi
hoạt động sẽ thu được lợi về một mặt nào đó. Đối với DLST, sự bền vững là cấp
bách hơn cả so với những loại hình du lòch khác. Tuy nhiên, như chúng ta thấy từ
bất cứ loại hình du lòch nào khác, DLST không bền vững đã xảy ra ở nhiều vùng,
miền, quốc gia, gây nguy hiểm cho sự tồn tại của môi trường tự nhiên, nền tảng
của kinh doanh DLST sẽ bò giảm đi và nghiêm trọng hơn là làm cho hoạt động du
lòch mất giá trò.
Những nhân tố hay đặc điểm phẩm chất nào mà DLST cần có thể phát triển
bền vững trong thời gian dài? Những đặc điểm và điều kiện được xem là cơ bản
nhất có thể kể ra như sau (Eugenio Yunis (2002):


DLST phải tăng cường bảo tồn khu vực tự nhiên và phát triển bền vững của khu
vực xung quanh và cộng đồng.



DLST đòi hỏi phải có những chiến lược đặc thù, nguyên tắc và chính sách cho
mỗi quốc gia, vùng, khu vực. Nó không thể phát triển một cách vô tổ chức, vô kỉ
luật nếu muốn tồn tại bền vững trong thời gian dài.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành




DLST cần sư phối hợp tổ chức có hiệu quả và thực dụng giữa những đối tựơng
liên quan đến du lòch như sau: chính quyền đòa phương, hãng du lòch, cá nhân và
nhân dân đòa phương.



Qui hoạch DLST phải bao gồm các chỉ tiêu nhất đònh cho vùng lãnh thổ, gồm khu
bảo tồn và những vùng tác động vừa và nhẹ.



Qui hoạch tự nhiên và thiết kế các phương tiện, các khách sạn đặc trưng và
những phương tiện chuyển tin khác, nhà hàng và các trung tâm thông tin du lòch ở
các vườn quốc gia nên được nghiên cứu theo cách giảm thiểu những tác động
tiêu cực mà du khách có thể gây ra đối với môi trường tự nhiên và văn hóa, các
vật liệu xây dựng, kiểu kiến trúc nội thất và trang từ những nguồn năng lượng ít
gây ô nhiễm tại chỗ.



Tương tự, các phương tiện giao thông vận tải và thông tin liên lạc do du khách và
cả các công ty cung cấp dòch du lòch trong vùng DLST cũng phải ít gây tác động,
kể cả những trò chơi thể thao ồn ào hay những phương tiện gây ô nhiễm tại chỗ.



Hành động DLST trong các vườn quốc gia và những khu bảo tồn khác (như khu
khảo cổ hay nơi hành hương) phải tuyệt đối tuân thủ các qui đònh quản lí nghiêm
ngặt ở khu vực này.




Cơ chế tổ chức hợp pháp nên được thiết lập ở cấp quốc gia và đòa phương để
thuận tiện và tăng hiệu quả của sự tham gia của cộng đồng đòa phương trong tiến
trình qui hoạch, phát triển, quản lí và điều chỉnh DLST.



Phù hợp với những điều kiện trên, cơ chế tổ chức nên được thiết lập để có thể
cân đối thu nhập từ lượng khách DLST nhằm chia xẻ đối với cộng đồng đòa
phương và vùng cư trú tạm thời trong vườn quốc gia để bảo tồn di sản tự nhiên.



Tuy nhiên, phải khẳng đònh rằng DLST là một ngành kinh doanh tốt, nó có thể sẽ
đảm bảo cho sự bền vững về kinh tế. Nói cách khác, nếu DLST không đem lại
lợi nhuận cho hãng du lòch thì hẳn nó sẽ không được đầu tư phát triển và cũng
không sinh lợi cho các chủ đầu tư. Như vậy, DLST sẽ là lónh vực văn hóa - sinh
thái nhạy cảm rất cao.



Tất cả những gì liên quan tới kinh doanh DLST, bao gồm bản thân các chủ đầu
tư, chính quyền đòa phương và dó nhiên là có các doanh nhân phải ý thức về giá
trò của sự giảm nhẹ những tác động tiêu cực của hoạt động DLST. Những ảnh
hưởng này và cái giá của việc ngăn chặn chúng cần được đánh giá trước và bao
gồm cả những kết quả phân tích lợi nhuận của bất kỳ dự án DLST nào.




Việc tuân thủ những nguyên tắc du lòch nên được tăng cường và nghiêm hơn đối
với DLST điển hình, bao gồm giám sát và điều chỉnh bằng cuộc vận động nâng
cao ý thức, thông tin đầy đủ hơn cho khách DLST và đào tạo những nhà cung cấp
dòch vụ. Những hệ thống nguyên tắc này cần được khích lệ và kiểm tra thích
đáng.



Cần xem xét triển vọng của việc thiết lập một hệ thống chứng nhận cho hoạt
động và các tiện nghi theo phong cách DLST, ít nhất là ở cấp khu vực và cũng có
thể mở rộng trên qui mô toàn cầu để đảm bảo rằng chúng có đúng chuẩn với
những nguyên tắc và qui chế DLST.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành



Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết để hoạt động DLST bền vững. Hội đồng
quản trò và giám đốc các công ty cũng như nhân viên và nhân dân đòa phương cần
được đào tạo tổng quát và chuyên về các lónh vực DLST phù hợp với từng nhu cầu.
Ngoài ra, DLST cũng cần một đội ngũ hướng dẫn viên DLST có trình độ cao và
có thể sử dụng dân đòa phương.



Khách DLST cần những thông tin chi tiết và chuyên sâu ngay cả trước và trong
chuyến du lòch của họ, việc cung cấp thông tin đầy đủ, tốt là một trong số những

nhân tố khác biệt về thực tiễn giữa DLST với du lòch truyền thống. Những loại
hình khác được dùng để cung cấp thông tin bao gồm giới thiệu sách hay bản đồ,
trung tâm khách hàng hay bảo tàng sinh thái (dùng kiến trúc và vật liệu truyền
thống, tại chỗ), các bảng chỉ dẫn bằng vật liệu thiên nhiên hay các chương trình
tiếp thò và dó nhiên là cả hướng dẫn viên.



Danh mục các mặt hàng, sách giới thiệu, hướng dẫn về DLST nên có thông tin
về kinh nghiệm cho du khách; nội dung về hoa cỏ, thực vật, đòa chất, quặng mỏ,
và hệ sinh vật để được tham quan là cơ sở cho quảng cáo về DLST, thông tin
chính xác về các phương tiện của nơi lưu trú.



Giới thiệu những việc có thể làm và không được làm ở các điểm đến. Tất cả sẽ
được du khách chú ý và có thể họ cũng sẽ phân biệt được giữa người làm DLST
chính thống và những người làm du lòch khác để chọn lấy ưu thế của loại hình du
lòch này.



Cả những kênh tiếp thò và các phương tiện tăng cường các sản phẩm DLST cần
phù hợp với loại hình du lòch mà khách yêu cầu và các loại khách DLST. Về mặt
này, thực hiện kinh doanh phù hợp hơn với số đông khách như tất cả các tour trọn
gói, phần trả thêm quá nhiều cho một phòng một người và ngày không phù hợp
và giờ bay không hợp lí là không thỏa mãn.

Thêm vào đó, chúng ta sẽ cung cấp một số hướng dẫn cơ bản để đảm bảo du
lòch ở các VQG và các khu BTTN được bảo vệ và không tạo ra các tác động tiêu

cực.
Để phát triển và quản lí DLST bền vững, Eugenio Yunis (2002) nêu ra 7
điểm cơ bản sau đây:
1. Phân vùng: đây là cơ sở để xác đònh, trong tất cả những khu bảo tồn thiên
nhiên, các vùng có chức năng và mức sử dụng khác nhau. Du khách không được tự do đi
lại khắp nơi trong khu bảo tồn hay ít nhất là không phải tất cả du khách đều vào cùng một
lúc hay cùng một lượng như nhau.
2. Quản lí nhu cầu du lòch: Du lòch toàn cầu đòi hỏi vùng tự nhiên phải được quản
lí để tạo sự liên kết giữa các bộ phận khác nhau :
(i)

Xác đònh tổng số khách tối đa có thể vào khu vực này mỗi ngày.

(ii) Có chính sách đònh giá phù hợp với đại đa số du khách.
(iii) Xác đònh chính sách tiếp thò, phân phối và tăng trưởng song song với chính
sách đònh giá và với số đông nhu cầu.
3. Thiết kế quản lí du lòch: thiết kế chương trình quản lí cơ sở hạ tầng cũng như
tiện nghi du lòch trong vùng, sử dụng những vật liệu có sẵn ở đòa phương (thiết kế sinh
thái) trong tất cả các tòa nhà trong khu, hợp nhất tất cả các ứng dụng kỹ thuật như năng


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

lượng mặt trời, gió và sự chiếu sáng, vật liệu tái chế, rác hữu cơ… tạo lối đi bộ và khu vực
sử dụng thường xuyên chòu tác động mạnh. Lập một hệ thống quản lí chất thải toàn diện.
4. Quản lí khách du lòch: thiết kế những tuyến du lòch trong khu để quản lí sự đi
lại của du khách, thiết kế thời gian và các chương trình kế tiếp nhau và thực hiện chúng
với những thông tin đặc biệt và bảng chỉ đường, thực hiện các qui tắc liên quan đến việc

sử dụng các phương tiện trong khu vực; tạo các lối vào và điểm dừng với thời gian biểu và
các hoạt động kế tiếp.
5. Giám sát thường xuyên các tác động: Lập bảng kiểm tra toàn diện với mục
đích kép:
(i)

Chọn các loài có thể thu hút sự quan tâm của du khách nhất.

(ii)

Cho phép kiểm kê theo giai đoạn số lượng loài. Theo qui tắc kiểm tra sinh
thái để đo những tác động từ du lòch, thiết lập hệ thống các tín hiệu và hệ
thống thu nhập thông tin tương tự.

6. Quản lí hành vi: thiết lập, phổ biến và đưa ra những qui tắc bắt buộc về hành
vi cho du khách. Lập mã hoạt đôïng cho những người thực hiện tour tiếp thò khu vực và cho
cả du khách. Giáo dục cộng đồng xung quanh, nhân viên khu bảo tồn và du khách về tầm
quan trọng của việc bảo tồn thiên nhiên nói chung và những loài bò đe doạ tuyệt chủng
nói riêng. Cung cấp thông tin phong phú cho du khách trước và trong khi họ đến tham
quan khu bảo tồn, bao gồm cả thông tin mô tả khu vực, nơi cư trú, những nguy hiểm và rủi
ro, những loài đang bò đe dọa tuyệt chủng, “những điều nên làm và cấm làm” trong khu
vực,….
7. Chia lợi nhuận cho việc bảo tồn và cải thiện đòa phương: Thiết lập cơ cấu tổ
chức để đảm bảo một phần lợi nhuận từ hoạt động du lòch trong khu bảo tồn được sử dụng
để tài đầu tư cho chính khu đó.

1.1.4. Tổng quan về nghiên cứu du lòch sinh thái.
Để xác đònh rõ vấn đề và phạm vi nghiên cứu của đề tài, dưới đây điểm qua
tình hình nghiên cứu về DLST.
1.1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.


Ở nước ngoài. Các chương trình nghiên cứu về DLST trên thế giới rất phổ
biến như các nước Châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á. Từ những năm 1990
trở lại đây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu loại hình DLST của Hội DLST
(1992, 1993); Chương trình môi trường Liên hiệp Quốc (1979); Tổ chức Du lòch
Thế Giới (1994) đặc biệt là các công trình nghiên cứu về DLST của Burns; Holden
(1995); PATA (1993); Cater (1993); Glaser (1996); Wright (1993). Đáng chú ý là
công trình nghiên cứu “DLST hướng dẫn cho các nhà lập kế hoạch và quản lí” của
Kreg Lindberg (1999) và các chuyên gia của Hội DLST quốc tế. Những đề tài
nghiên cứu trên đã tạo cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu DLST ở Việt Nam.
1.1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

Ở Việt Nam, ngành du lòch hết sức mới mẻ chủ yếu phát triển hơn 30 năm
nay, nhưng thật sự quan tâm chỉ trong những năm gần đây. Năm 1990, năm du lòch
Việt Nam vì thế lónh vực nghiên cứu phục vụ mục đích du lòch vẫn còn hạn chế.
 Trong nhiều năm qua, các công trình nghiên cứu như “Đánh giá tài
nguyên du lòch Việt Nam” do Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lòch chủ trì đã phác
hoạ đựơc bức tranh chung về tiềm năng, hiện trạng và một số xu hướng phát triển
du lòch Việt Nam.
 Năm 1992, công trình nghiên cứu luận án PTS khoa học của Đặng
Duy Lợi về “Đánh giá và khai thác các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
huyện Ba Vì (Hà Tây) phục vụ mục đích du lòch” đã xây dựng cơ sở khoa học cho việc
đánh giá và khai thác các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên phục vụ
mục đích du lòch tại một đòa bàn cụ thể.
 Công trình “Những đònh hướng lớn về phát triển du lòch Việt Nam theo

các vùng lãnh thổ” của Tổng cục Du lòch Việt Nam (1993) là một dự án quy hoạch
tổng thể phát triển du lòch vùng tam giác phía bắc Hà Nội – Hải Phòng – Quảng
Ninh, vùng tam giác phía Nam TP.HCM – Biên Hòa – Vũng Tàu và trục Huế – Đà
Nẵng.
 Công trình “Thiết kế các tuyến điểm du lòch trong và ngoài TP. Hồ Chí
Minh đến năm 2010” của công ty Du lòch Sàigon Tourist (1995) đã đánh giá
TNDLTN và TNDLNV, hiện trạng các tuyến điểm du lòch đang khai thác trong và
ngoài TP. Hồ Chí Minh trong phạm vi bán kính 150 km và các tuyến du lòch nước
ngoài (outbound) tương đối đầy đủ trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Công trình đã
thiết kế các điểm, tuyến, cụm du lòch và đề xuất các điểm du lòch cần đầu tư đưa
vào khai thác, trong đó có các điểm du lòch vùng ĐBSCL.
 Năm 1995, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lòch đã thực hiện đề tài

nhánh về “Hiện trạng và những đònh hướng cho công tác qui hoạch phát triển du lòch
vùng ĐBSCL (1996 – 2010)” với mục tiêu xác lập cơ sở khoa học cho qui hoạch phát
triển du lòch và đề xuất phương hứơng phát triển du lòch vùng ĐBSCL cùng các
phương án phát triển cụ thể. Nghiên cứu này căn cứ vào tiềm năng du lòch đã đề
xuất các loại hình du lòch vùng ĐBSCL như DLST, du lòch sông nước, tham quan,
vui chơi giải trí và du lòch biển, nhưng chưa nghiên cứu sâu về loại hình DLST cụ
thể.
 Cho đến năm 1998 đã có công trình nghiên cứu của Phan Huy Xu và
Trần Văn Thành về “Đánh giá TNDLTN và đònh hướng khai thác DLST vùng ĐBSCL”.
Công trình nghiên cứu này đã xây dựng cơ sở khoa học cho việc thiết kế các điểm,
tuyến, cụm DLST ở vùng ĐBSCL. Các tác giả đã kiểm kê, đánh giá xếp loại 34
điểm TNDLTN và phác thảo các ý tưởng đònh hướng tạo các sản phẩm DLST đa
dạng nhằm phát triển du lòch bền vững ở vùng ĐBSCL
 Năm 2000, bài báo cáo khoa học về “Đònh hướng qui hoạch DLSTTN
vùng ĐBSCL” của Trần Văn Thành và Phạm Thò Ngọc đã điều tra bổ sung 8 điểm
DLSTTN, thiết kế 13 tuyến, 5 cụm DLSTTN vùng ĐBSCL.



Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

 Gần đây, Phân viện Điều tra qui hoạch rừng II đã xây dựng nhiều dự
án đầu tư phát triển VQG, các khu BTTN nhằm bảo tồn giá trò đa dạng sinh học và
khai thác DLST ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL, trong đó có các
VQG Tràm Chim (1999), Phú Quốc (2001), U Minh Thượng (2001), khu BTTN Lung
Ngọc Hoàng (2002). Các dự án này đã phác thảo các sản phẩm DLST cần được đưa
vào khai thác DLST.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên chưa kiểm kê đánh giá đầy đủ, chưa đi sâu
vào đònh hướng thiết kế qui hoạch khai thác các điểm, tuyến, cụm, trung tâm
DLSTTN cũng như việc đònh hướng khai thác tổng hợp DLSTTN lẫn nhân văn
vùng ĐBSCL theo hướng phát triển bền vững.

1.2. ĐẶT VẤN ĐỀ – LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC TIÊU, NỘI DUNG
NGHIÊN CỨU.
1.2.1. Lí do chọn đề tài.
Như trên đã trình bày, vấn đề khai thác những điều kiện tự nhiên, nhân văn
của một vùng lãnh thổ cho mục đích du lòch đã được chú ý trong nước và trên thế
giới. Vùng ĐBSCL, với đòa hình vùng sông nước khá đa dạng về mặt sinh thái,
sông rạch, đất vườn, biển, đảo… cũng đã được nhiều tác giả đề cập với nhiều góc
độ khác nhau : nghiên cứu về kinh tế – xã hội môi trường vùng lũ, khai thác những
điều kiện tự nhiên phục vụ DLST (Phan Huy Xu, Trần Văn Thành; 1998). Tuy
nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra các đònh hướng chung cho qui hoạch phát triển,
sống chung với lũ, chưa đưa ra các cơ sở khoa học cho việc khai thác DLST theo
hướng bền vững.
Để khai thác DLST cùng ĐBSCL một cách có hiệu quả và bền vững, cần
thiết phải đònh hứơng thiết kế cụ thể, khai thác tổng hợp điều kiện tự nhiên và

nhân văn của vùng. Vì vậy, để bổ sung vào sự chưa hoàn thiện của các công trình
nghiên cứu trước đây, việc nghiên cứu “Góp phần đònh hướng qui hoạch DLST
vùng đồng bằng sông Cửu Long” đặt ra 2 vấn đề:
(i) Xây dựng hệ thống chỉ tiêu hợp lí đánh giá tài nguyên DLST, cung cấp những cơ sở khoa
học cho việc qui hoạch DLST vùng ĐBSCL.
(ii) Đề xuất các đònh hướng qui hoạch DLST thông qua việc xác đònh các điểm, tuyến, cụm,
trung tâm DLST của vùng.

Những kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho các cơ quan chức năng quản lí những
cơ sở khoa học để phát triển DLST bền vững.
1.2.2.. Mục tiêu nghiên cứu.

Đề tài đặt ra 2 mục tiêu cơ bản :
(i) Đánh giá tiềm năng tài nguyên DLST của vùng thông qua việc xây dựng hệ
thống chỉ tiêu hợp lí, có căn cứ khoa học.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

(ii) Thu nhập và bổ sung các tư liệu tiềm năng tự nhiên, nhân văn của vùng nhằm
đề xuất các đònh hướng qui hoạch DLST của vùng ĐBSCL theo hướng bền
vững.

Những kết quả nghiên cứu của đề tài không nhằm xây dựng một đề án qui
hoạch. Đề tài hướng tới 2 mục tiêu chung là:
(i) Cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng các dự án phát triển DLST vùng
ĐBSCL.


(ii) Bổ sung tài liệu giảng dạy cho các môn học về đòa sinh thái cảnh quan ứng
dụng, đòa lí DLST.
1.2.3. Nội dung nghiên cứu.

Để đạt đựơc những mục tiêu đặt ra trong đề tài thực hiện các nội dung cơ
bản sau đây :
(i) Đánh giá tình hình khai thác TNDLST,ø hiện trạng phát triển du lòch và khai
thác DLST hiện nay của vùng ĐBSCL được trình bày khái quát trên cơ sở các tài liệu sưu
tầm và khảo sát thực tế. Phần này nêu ra các đánh giá theo cách tiếp cận quản lí du lòch
toàn diện, bao gồm cả nhu cầu hiện trạng quản lí, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thống kê số
lượng khách du lòch quốc tế đến ĐBSCL thời kỳ 1995 – 2001. Các kết quả nghiên cứu
trình bày trong chương 2
(ii) Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá và thực hiện việc đánh
giá tiềm năng DLST. Các kết quả đánh giá sẽ tạo cơ sở khoa học cho các đề xuất đònh
hướng thiết kế và qui hoạch lãnh thổ DLST theo hướng bền vững. Bên cạnh đó, Các kết
quả và đánh giá tài nguyên DLST trình bày trong chương 2.
(iii) Những kết quả trình bày trong chương3 là các đề xuất của tác giả trong việc
cung cấp những cơ sở khoa học cho việc thiết kế và qui hoạch các tuyến, cụm, điểm DLST
trong vùng ĐBSCL theo hướng bền vững.

Trong phần phụ lục mô tả các điểm tài nguyên DLST có ý nghóa quốc tế và quốc

gia ở vùng ĐBSCL.

1.3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN, GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ
PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
Để làm rõ những kết quả nghiên cứu mức độ giới hạn và những đóng góp về
cơ sở khoa học của đề tài, trong nội dung này sẽ trình bày hai vấn đề :
(i) Cơ sở phương pháp luận của qui hoạch DLST và phạm vi nghiên cứu của đề
tài.

(ii) Những phương pháp nghiên cứu liên quan đến các nội dung nghiên cứu về
phân vùng đòa lí tự nhiên (chương 3), đánh giá tài nguyên DLST (chương 4) và
các đề xuất đònh hướng qui hoạch DLST (chương 3).
1.3.1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

Những vấn đề đặt ra trong đề tài được dựa vào các phương pháp luận sau
đây:
1.3.1.1. Phương pháp luận 1: Xem xét lãnh thổ du lòch theo phương pháp
luận hệ thống.

Trong hoạt động khai thác và qui hoạch du lòch muốân đạt hiệu quả lâu bền
nhất thiết phải xem xét đến khía cạnh không gian (lãnh thổ) của du lòch, tức tổ
chức lãnh thổ du lòch (TCLTDL). TCLTDL được coi là một dạng của tổ chức lãnh
thổ xã hội. Với sự phát triển của xã hội, nhu cầu nghỉ ngơi và giải trí xuất hiện
thông qua các hình thức tổ chức lãnh thổ du lòch. Các chuyên gia du lòch đã phân
biệt 3 hình thức của tổ chức lãnh thổ du lòch: hệ thống lãnh thổ du lòch, thể tổng hợp
du lòch và vùng du lòch.
(i). Hệ thống lãnh thổ du lòch.

Theo Leiper, hệ thống du lòch bao gồm vùng xuất phát du lòch và vùng đón
nhận khách du lòch trong môi trường tự nhiên, kỹ thuật, xã hội, văn hóa, kinh tế, chính
trò (hình 1.1). Đó là môi trường du khách ra đi và trở về sau một thời gian nghỉ ngơi,

giải trí. Các phân hệ trong môi trường du lòch liên hệ mật thiết với nhau từ nguồn
chỉ dẫn thông tin du lòch đến nguồn khách du lòch, giao thông vận tải, tài nguyên du

lòch, dòch vụ du lòch…
Theo Bưchơvarốp (1975), hệ thống lãnh thổ du lòch bao gồm 4 phân hệ: phân

hệ khách du lòch, phân hệ cán bộ phục vụ, phân hệ công trình kỹ thuật và phân hệ tài
nguyên du lòch có mối quan hệ tương tác với nhau (hình 1.2).

Hình 1.1. Hệ thống du lòch

(Theo Leiper, được chỉnh lại bởi Stephen F.Witt, Luiz Moutinho)
Môi trường tự nhiên, kỷ thuật, xã hội,
văn hóa, kinh tế, chính trò

VÙNG XUẤT PHÁT
DU LỊCH

VÙNG ĐÓN NHẬN
DU KHÁCH
Những dòch
vụ giải trí

Du khách ra đi

Dòch vụ bán vé
Điều hành du lòch.
Đại lý
Quảng cáo và tiếp thò

Kênh giao thông vận tải

Công nghiệp nhà hàng.

Công nghiệp giải trí.
Mua sắm.
Dòch vụ du lòch.

Vò trí công nghiệp du lòch


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

Hệ thống này cũng có mối quan hệ tương tác với môi trường các điều kiện
phát sinh (nhu cầu du lòch) thông qua kênh phương tiện giao thông vận tải và các
hệ thống lãnh thổ du lòch khác.
Hướng tiếp cận qui hoạch theo hệ thống lãnh thổ du lòch sẽ giúp ích cho việc
quản lí và phát triển du lòch bền vững.
(ii) . Thể tổng hợp lãnh thổ du lòch (TTHLTDL).
TTHLTDL là sự kết hợp giữa các cơ sở du lòch với các xí nghiệp thuộc hạ tầng cơ
sở được liên với nhau bằng các mối liên hệ kinh tế, sản xuất và cùng sử dụng chung vò trí
đòa lí, các nguồn TNTN và kinh tế của lãnh thổ (E.A. Kotliarov, 1978). Mỗi

TTHLTDL có lòch sử hình thành riêng và ở mỗi giai đoạn có cấu trúc và tổ chức
lãnh thổ tương ứng. Động lực chủ yếu của nó là nhu cầu du lòch của xã hội. Đề tài
coi ĐBSCL là một TTHLTDL đang ở giai đoạn hình thành và phát triển nhanh
trong giai đoạn 2000 – 2010. Đây là giai đoạn mà đề tài đònh hướng cấu trúc lãnh
thổ của TTHLTDL vùng ĐBSCL.
Hình 1.2. Hệ thống lãnh thổ du lòch (M.Bưchơvarốp, 1975)

4


I

1

2

3

II
Chú giải:
I. Môi trường với các điều kiện phát sinh (nhu cầu du lòch)
II. Hệ thống lãnh thổ du lòch.
1. Phương itện giao thông vận tải.
2. Phân hệ khách du lòch.
3. Phân hệ cán bộ phục vụ.
4. Phân hệ tài nguyên du lòch.
5. Phân hệ công trình kỹ thuật.

5


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
Luồng khách du lòch.
Các mối liên hệ bên trong hệ thống.
Các mối liên hệ với các hệ thống khác.
Các mối liên hệ thông tin giữa I và II.

(iii) . Vùng du lòch.


Khái niệm vùng du lòch được nhiều chuyên gia du lòch đề cập đến như E.A.
Kotliarov (1978), K.X. Mironeko – I.T. Tirodokholebok (1981), I.I. Pirojnik (1985). Ở
Việt Nam, Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông (1991) chấp nhận quan niệm vùng du lòch của
I.I. Pirojnik bởi tính chất đầy đủ và hợp lí của nó. Theo quan niệm hệ thống, vùng
du lòch được coi như một tập hợp hệ thống lãnh thổ du lòch và không gian kinh tế xã hội
xung quanh nhằm đảm bảo cho cả hệ thống hoạt động có hiệu quả, trong đó, hệ thống
lãnh thổ du lòch là hạt nhân tạo nên vùng du lòch. ĐBSCL với nguồn tài nguyên du

lòch, cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật tương đối đáp ứng nhu cầu phục vụ du lòch
đã trở thành hạt nhân của vùng du lòch Nam Bộ.
1.3.1.2. Phương pháp luận 2: Mối quan hệ giữa cảnh quan và DLST.

Mối quan hệ giữa cảnh quan và DLST được thể hiện ở mối tương đồng quan
niệm về các đối tượng con người: con người - tự nhiên, không gian môi trường và
kinh tế thông qua hoạt động kinh tế xã hội. Mỗi một đơn vò cảnh quan hàm chứa
những đặc thù về tiềm năng DLST, do đó là cơ sở để khai thác, tổ chức và quản lí
hệ thống của đơn vò cảnh quan có thể được so sánh qua (bảng 1.1). Ta nhận thấy:
- Do đây là “dạng đặc biệt của đòa hệ” mà nhiều cấu trúc đơn vò cảnh quan
sinh thái vừa là nơi diễn ra quá trình du lòch, vừa là tài nguyên, đối tượng cho
thưởng ngoạn. Tính tương đối ở đây bắt nguồn từ qui luật hình thành nên lãnh thổ
đòa lí.
- Trên nhóm chỉ tiêu tài nguyên và tổ hợp thì hầu như khái niệm tài nguyên du
lòch và cấu trúc cảnh quan có mối tương đồng với nhau.
- Đến nhóm chỉ tiêu nhân văn, dân tộc thì các tài nguyên du lòch vừa là sản
phẩm trong sự tác động tương tác giữa con người với tổng thể cảnh quan thiên
nhiên hoặc ở nhiều cấu trúc cảnh quan sinh thái.
Như vậy, mối quan hệ nội dung cảnh quan sinh thái với tài nguyên của du
lòch nói chung và DLST nói riêng đã đề cập ở trên có thể tóm lại bởi sự tương đồng
như sau :

 Con người như một hợp phần cấu trúc, như lực lượng tổ chức, quản lí, lực
lượng lao động với sự liên kết nền văn minh – văn hóa cộng đồng.

 Thiên nhiên như một nhân tố, đối tượng, chất liệu và là công cụ tạo ra sản
phẩm kinh tế và du lòch.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

Không gian môi trường như điều kiện để tổ chức hoạt động, cũng là sản
phẩm của chính sự hoạt động kinh tế và du lòch đó.
1.3.2. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU.

Như hình 1.2, một hệ thống lãnh thổ du lòch phải hoạt động trong môi trường
xã hội có 4 thành tố: khách du lòch, cán bộ phục vụ, tài nguyên du lòch, công trình hạ
tầng kỹ thuật.

Trong pham vi nghiên cứu, đề tài chỉ giới hạn trong thành tố tài nguyên du lòch
tự nhiên, chưa có điều kiện đề cập đến tài nguyên du lòch nhân văn, mặc dù trong
quá trình khai thác DLST thường kết hợp cả hai loại tài nguyên đó. Trong đó sẽ
làm rõ 2 vấn đề đặt ra nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho qui hoạch DLST vùng
ĐBSCL là:
(i) Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá tài nguyên DLST tự nhiên của vùng ĐBSCL.
(ii) Đề xuất các đònh hướng qui hoạch điểm, cụm, tuyến, trung tâm DLST cho vùng
ĐBSCL.
Đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi tài nguyên DLST tự nhiên, nhưng đề cập đến

khách du lòch, cán bộ phục vụ hay công trình hạ tầng kỹ thuật như trong một dự án

qui hoạch DLST hoàn chỉnh.
1.3.3. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU.
1.3.3.1. Phương pháp đánh giá tài nguyên DLST vùng ĐBSCL.

Để xây dựng hệ thống chỉ tiêu và đánh giá tài nguyên DLST ở chương 4, các
phương pháp của Đặng Duy Lợi (1992) và Nguyễn Minh Tuệ (1993) đã được áp
dụng. Đề tài xây dựng thang đánh giá theo 4 chỉ tiêu thu hút khách DLST (tính hấp
dẫn, tính đa dạng sinh học, tính an toàn, tính tiện nghi) và 4 chỉ tiêu quản lí khai thác (sức
chứa, tính thời vụ, tính liên kết và tính bền vững). Chỉ tiêu giá tiền không được đề cập
vì phí tham quan hiện nay chiếm một tỉ lệ rất thấp trong cơ cấu giá của sản phẩm
du lòch (chủ yếu do giá vận chuyển và giá khách sạn chi phối). Các chỉ tiêu được
đánh giá theo 4 bậc, tương ứng với các mức độ thuận lợi, áp dụng đánh giá cho các
TNDLSTTN.
1.3.3.2. Phương pháp qui hoạch các tuyến, cụm, điểm du lòch sinh thái.
(i). Xác đònh các đơn vò du lòch sinh thái.

Việc xác đònh các đơn vò du lòch phụ thuộc vào kích thước của TTHLTDL và
quan điểm của chuyên gia du lòch. Ở cấp lãnh thổ quốc gia Việt Nam, Vũ Tuấn
Cảnh và nnk (1991) đã xây dựng hệ thống phân vò từ nhỏ đến lớn như sau: điểâm du
lòch, trung tâm du lòch, tiểu vùng du lòch, á vùng du lòch và vùng du lòch. Mỗi cấp
đơn vò du lòch, sức hấp dẫn, chất lượng môi trường, hiện trạng cơ sở hạ tầng và vật
chất kỹ thuật phục vụ du lòch, sự đón nhận du khách, tính bền vững của thắng cảnh,


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

công trình văn hóa. Ở ĐBSCL, chúng tôi chọn các đơn vò DLST sau đây: điểm du
lòch, cụm du lòch, tuyến du lòch, trung tâm du lòch.



Điểm du lòch sinh thái: là một đơn vò lãnh thổ DLST, nơi tập trung một
loại tài nguyên tự nhiên hoặc nhân văn, với kích thước lãnh thổ nhỏ, sức hấp dẫn
chỉ lưu lại khách du lòch trong thời gian ngăn không quá 1 – 2 ngày (trừ điểm du
lòch có chức năng chữa bệnh, an dưỡng, nghiên cứu khoa học). Tiện nghi du lòch
của điểm DLST khá đầy đủ (khách sạn, phưong tiện thông tin, ăn uống, mua
sắm…). Môi trường tự nhiên trong lành, môi trường xã hội an toàn, không bò quấy
rối bởi tệ nạn xã hội, bạo lực.
 Cụm du lòch sinh thái: là đơn vò DLST kết hợp lãnh thổ của các điểm
DLST cùng hoặc khác chức năng DLST, thuận tiện đi lại cho du khách, có sức hấp
dẫn đa dạng hơn điểm DLST, thời gian lưu lại của du khách lâu hơn (2 – 3 ngày).
Thí dụ: cụm DLST Hà Tiên – Tri Tôn. Cụm DLST tương đối đa dạng về loại hình
du lòch, đảm bảo về an toàn du lòch.
 Tuyến du lòch sinh thái: là đơn vò DLST được nối với nhau bởi nhiều
điểm DLST khác nhau về chức năng, đa dạng về loại hình DLST, thuận tiện về
giao thông đường ô tô, đường thủy, đường hàng không. Phạm vi lãnh thổ của tuyến
DLST trên và dưới 150 km (tuyến du lòch nội vùng và ngoại vùng). Đối với tuyến
DLST quốc tế, khoảng cách phụ thuộc vào nhu cầu của khách du lòch và khả năng
tổ chức đưa đón khách của các doanh nghiệp du lòch. Đặc trưng cơ bản của tuyến
DLST phải có sức hấp dẫn cao để có thể lưu lại khách du lòch trong thờigian lâu
hơn (ít nhất từ hai ngày trở lên), thỏa mãn nhiều nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức và
mua sắm của khách.
 Trung tâm du lòch sinh thái: là đơn vò hạt nhân DLST của vùng DLST thu
hút nguồn khách du lòch quốc tế và các vùng khác trong cả nước nhằm cung ứng
cho các điểm, tuyến, cụm của vùng, đảm bảo phương tiện vận chuyển, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật du lòch và dòch vụ du lòch, thu hút các cụm DLST và hình thành các
tuyến DLST nối với các điểm và cụm DLST.
(ii). Phương pháp xác đònh ranh giới các đơn vò DLST.


Xác đònh ranh giới các đơn vò du lòch có thể dựa trên sự phân hóa nguồn tài
nguyên du lòch, cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật phục vụ du lòch và giới hạn nhất
đònh của môi trường sung quanh. Để tiện cho việc quản lí, khai thác các đơn vò du
lòch, có thể vạch ranh giới theo đơn vò hành chính huyện, tỉnh, thành phố.
(iii). Các phương pháp nghiên cứu qui hoạch DLST.

Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài vận dụng phương pháp luận qui
hoạch du lòch theo quan điểm hệ thống và sinh thái phát triển, và sử dụng một số
phương pháp chủ yếu sau: phương pháp điều tra thực đòa, phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp chuyên gia ( trao đổi với các chuyên gia am hiểu sâu sắc
vấn đề nghiên cứu của đề tài). Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp sơ đồ, bản
đồ và sự trợ giúp của máy vi tính.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

Nói chung, việc qui hoạch DLST một lãnh thổ có tiềm năng DLST và sức thu
hút khách du lòch từ môi trừơng xung quanh như ĐBSCL là một công việc khá phức
tạp, đòi hỏi có nhiều thời gian, sự hợp tác của nhiều ngành, nhiều chuyên gia và
kinh phí.
1.3.4. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1.3.4.1. Phương pháp đánh giá tổng hợp so sánh.

Khi đánh giá tiềm năng của các điểm TNDLST tự nhiên, tôi đã sử dụng các
chỉ tiêu đánh giá của Đặng Duy Lợi (1992) và các chỉ tiêu của Phan Huy Xu và
Trần Văn Thành (1998) để đánh giá các điểm TNDLST tự nhiên đối với sự thu hút
khách DLST và đầu tư, quản lí, khai thác. Đối với tài nguyên DLST tự nhiên thuộc
loại hình hệ sinh thái, khu BTTN, VQG chúng tôi sử dụng thêm chỉ tiêu đa dạng sinh

học (Trần Văn Thành, Phạm Thò Ngọc, 2000).
1.3.4.2. Phương pháp bản đồ.

Đây là phương pháp nghiên cứu truyền thống của đòa lí học. Chúng tôi đã sử
dụng các bản đồ cùng tỉ lệ 1/250.000 và 1/500.000 để thống kê, xác đònh vò trí của
các điểm TNDLST và thể hiện trên bản đồ các nội dung qui hoạch các điểm
DLST, các tuyến DLST, các cụm DLST vùng ĐBSCL.
1.3.4.3. Phương pháp phiếu.

Trong quá trình thực hiện đề tài, để tiện cho việc phân loại các điểm
TNDLST tự nhiên, tôi đã tiến hành lập phiếu. Mỗi điểm TNDLST tự nhiên được
ghi vào một phiếu riêng. Ngoài ra trên phiếu có vò trí của điểm TNDLST tự nhiên,
mô tả ngắn gọn về đặc trung sinh thái và hướng khai thác điểm TNDLST tự nhiên.
1.3.4.4. Phương pháp khảo sát thực đòa.

Đây là một phương pháp cần thiết cho một nghiên cứu về DLST ở một vùng
cụ thể. Nhưng do hạn chế về kinh phí, thời gian, phương tiện, nên tôi chỉ đến được
một số điểm TNDLST tự nhiên tiêu biểu để tiến hành khảo sát, chưa tổ chức được
phiếu thăm dò du khách, chính quyền và cộng đồng đòa phương, nên đây cũng là
một hạn chế đáng tiếc trong quá trình thực hiện đề tài.
1.3.5. CÁC BƯỚC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.

Việc thực hiện đề tài của luận văn đã trải qua các bước sau :
- Bước 1: Soạn thảo đề cương sơ lược. Tiến hành sưu tầm tài liệu ở các thư

viện và trên mạng internet, lập thư mục tham khảo, sao chép các tài liệu, thu thập
những hình ảnh liên quan đến đề tài và lập đề cương chi tiết.
- Bước 2: Khảo sát thực đòa tất cả các điểm tài nguyên DLST tự nhiên đã

thống kê được ở vùng ĐBSCL: ghi chép mô tả, chụp hình, quay phim, mạn đàm,

điều tra phiếu.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành

- Bước 3: Xử lí tài liệu thô và viết nháp.
- Bước 4: Viết thật hoàn chỉnh báo cáo cùng với việc lập biểu bảng, scan hình,

vẽ sơ đồ, in ấn. Đây là giai đoạn sau cùng của quá trình thực hiện đề tài.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths .GVC. Trần Văn Thành

PHẦN THỨ HAI

KẾT QUẢ NGHIÊN
CỨU
CHƯƠNG 2 : ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG KHAI THÁC
DLST, ĐỀ XUẤT HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ ĐÁNH
GIÁ TÀI NGUYÊN DLST TỰ NHIÊN VÙNG ĐBSCL

CHƯƠNG 3 : ĐỀ XUẤT ĐỊNH HƯỚNG QUI HOẠCH
DLST TỰ NHIÊN VÙNG ĐBSCL


Báo cáo khoa học


Chủ nhiệm đề tài: Ths .GVC. Trần Văn Thành

CHƯƠNG 2

HIỆN TRẠNG KHAI THÁC DLST,
ĐỀ XUẤT HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ ĐÁNH GIÁ
TÀI NGUYÊN DU LỊCH SINH THÁI TỰ NHIÊN
VÙNG ĐBSCL
Như đã trình bày trong phần tổng quan, phương pháp luận, bên cạnh yếu tố đòa lí tự nhiên,
muốn làm rõ cơ sở khoa học và nhận dạng các tài nguyên DLST của vùng ĐBSCL cần phải xem xét
thêm các yếu tố:
(i)

Tính hấp dẫn và tính đa dạng sinh học đối với du khách liên quan đến cảnh quan tự nhiên hoặc
yếu tố văn hóa.

(ii)

Tính an toàn và tình trạng hạ tầng, cơ sở vật chất.

Như đã giới hạn phạm vi nghiên cứu, đề tài không đi sâu trực tiếp vào xây dựng đề án qui
hoạch DLST cho vùng mà chỉ nghiên cứu đưa ra các cơ sở khoa học. Vì vậy, chương này tác giả đề
xuất hệ thống chỉ tiêu và đưa ra kết quả đánh giá tài nguyên DLST tự nhiên vùng ĐBSCL. Trước khi trình
bày hệ thống các chỉ tiêu và kết quả đánh giá, căn cứ vào tài liệu thu thập được về hiện trạng và nhu
cầu phát triển DLST ở ĐBSCL, phần đầu của chương 2 sẽ trình bày khái quát hiện trạng khai thác
TNDLST của vùng.

Hình 2.1. Các đơn vò đòa lí hành chánh vùng
ĐBSCL



Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths .GVC. Trần Văn Thành

2.1. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC TNDLST VÙNG ĐBSCL.

2.1.1. Vò trí đòa lí và ý nghóa du lòch đối với sự phát triển ĐBSCL.
ĐBSCL là đồng bằng châu thổ của hạ lưu sông Mêkông, một trong những châu thổ rộng lớn và
phì nhiều nhất khu vực Đông Nam Á và thế giới. Thuộc lãnh thổ Việt Nam, châu thổ này rộng 39.568
km2, chiếm đến 12% diện tích tự nhiên cả nước, bao gồm 12 tỉnh và 01 thành phố: Long An, Đồng
Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vónh Long, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, An
Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau (hình 2.1). ĐBSCL tiếp giáp với Biển Đông và vònh Thái Lan,
tiếp giáp với nước Campuchia đã tạo nên vò trí thuận lợi cho các hoạt động du lòch và giao lưu quốc tế
với các nước Đông Nam Á.
Về khía cạnh du lòch, ĐBSCL nằm trong vùng du lòch Nam Trung Bộ và Nam Bộ, với trung tâm
du lòch là TP. Hồ Chí Minh – hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ đã tạo cho ĐBSCL có vò
trí đặc biệt trong chiến lược phát triển du lòch của Việt Nam và được xác đònh là một trọng điểm với
sản phẩm, du lòch đặc trưng là DLST và sông nước trong qui hoạch tổng thể phát triển du lòch Việt Nam
thời kỳ 1995 – 2010. Hơn nữa, cầu Mỹ Thuận được nối liền hai bờ sông Tiền – sông Hậu, thành phố
Cần Thơ được nâng cấp là thành phố trung ương và trở thành trung tâm DLST của vùng ĐBSCL, tạo
thuận lợi cho vùng khai thác các nguồn khách du lòch quốc tế và quốc nội từ Đông Nam Bộ và cả
nước.

2.1.2. Đặc điểm môi trường vùng ĐBSCL.
2.1.2.1. Môi trường tự nhiên và tài nguyên DLSTTN.
(i) Về quá trình hình thành: ĐBSCL là sản phẩm bồi tụ phù sa nằm ở cửa sông Mêkông, có
lòch sử hình thành phức tạp theo phương thức tam giác châu với đỉnh châu thổ ở Phnôm-Pênh và hiện
nay vẫn tiếp tục phát triển lấn biển, mở rộng hạ châu thổ ở mũi Cà Mau.

(ii) Về cấu trúc đòa hình: ĐBSCL là cấu trúc của châu thổ gồm phần thượng châu thổ – nơi có
những vùng trũng rộng lớn Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và những gờ sông, cồn sông và
phần hạ châu thổ – nơi mà sông Tiền và sông Hậu phân nhánh với các cồn cát duyên hải cao đến 5m,
thường xuyên chòu tác động của thủy triều và sóng biển. Tuy nhiên, bề mặt của ĐBSCL lại nổi lên
những đồi núi sót hoa cương (granit) Thất Sơn với đỉnh núi cấm (984m) có suối Thanh Long lượn
quanh chân núi, với đồi Tức Dụp và núi Cô Tô rất có giá trò khai thác DLST. Đặc biệt, khu vực Hà
Tiên có nhiều đồi đá vôi với những hang động karst độc đáo và hàng trăm đảo, quần đảo, trong đó lớn
nhất là đảo Phú Quốc đã tạo nên một vònh Hạ Long thu nhỏ có sức hấp dẫn du khách.
(iii) Về thủy văn: ĐBSCL vừa chòu tác động của chế độ triều Biển Đông và vònh Thái Lan, vừa
chòu ảnh hưởng của chế độ thủy văn thượng nguồn sông Mêkông. Mạng lưới sông rạch, kinh đào khá
dày đặc tạo môi trường sông nước thuận lợi việc khai thác du lòch đường sông với loại hình DLST sông
nước. Tình trạng ngập lụt vùng ĐBSCL thường bắt đầu tháng VII, VIII và kết thúc vào tháng XI, XII.
Tác dụng tích cực của ngập lụt là bồi đắp phù sa, gia tăng sản lượng tôm cá, đẩy mặn, rửa chua, đồng
thời cho phép khai thác loại hình DLST vào mùa nước nổi ở Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long
Xuyên. Nguồn nước ngầm ở tầng Pleitoxen có sản lượng khai thác ở mức một triệu m3/ngày đêm đáp
ứng nhu cầu cấp nước sinh hoạt nông thôn và đô thò, phục vụ hoạt động khai thác du lòch.


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths .GVC. Trần Văn Thành

(iv) Về khí hậu: ĐBSCL có kiểu khí hậu cận xích đạo biển và có sự đồng nhất về nền nhiệt độ
cao quanh năm, trung bình khoảng 26,90C, tháng thấp nhất không dưới 250C, tháng cao nhất cũng
không vượt quá 300C. Mùa mưa từ tháng V đến tháng XI, tương phản với mùa khô từ tháng XII đến
tháng IV tạo nên nhòp điệu mùa trong hoạt động du lòch. Tài nguyên khí hậu vùng ĐBSCL tương đối
thuận lợi cho việc khai thác du lòch nhờ ít chòu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và của bão.
(v) Về hệ sinh thái (HST) và hệ động vật: ĐBSCL là một trong những vùng có HST phong phú
nhất của lưu vực sông Mêkông, là vùng sinh sản quan trọng của nhiều loại thủy sinh, nơi cư trú của
các loài động vật hoang dã.

- HST rừng ngập mặn rộng khoảng 300.000 ha, xếp thứ ba trên thế giới sau Philippines và
Brasil, tập trung nhiều nhất ở bán đảo Cà Mau, rất có giá trò về khai thác DLST.
- HST đầm nội đòa chủ yếu là HST rừng tràm, rộng 121.000 ha, trong đó có ý nghóa khai thác
DLST là HST rừng tràm Vồ Dơi, Xẻo Quýt, Tràm Chim, Lung Ngọc Hoàng, U Minh Thượng…
- HST cửa sông rất nhạy cảm với tác động khai phá của con người, tạo cảnh quan có giá trò khai
thác DLST.
- Hệ động vật ĐBSCL rất phong phú và đa dạng gồm 23 loài có vú, 386 loài và bộ chim, 35 loài
bò sát, 6 loài lưỡng cư và 260 loài cá. Một số loài đã bò tuyệt chủng (cọp, vượn), một số loài bò đe dọa
tuyệt chủng (rùa nước ngọt, cá sấu, lợn biển…). Đặc biệt trong các HST rừng ĐBSCL đã hình thành
nhiều HST sân chim có giá trò khai thác DLST. Ngoài ra ở Việt Nam duy nhất có VQG Tràm Chim,
nơi sinh sống của loài sếu cổ trụi q hiếm ở Đông Nam Á và thế giới, một tài nguyên DLSTTN rất có
giá trò khai thác DLST.
Hệ thống đảo và quần đảo thuộc vùng ĐBSCL có giá trò khai thác DLST, lớn nhất là đảo Phú
Quốc. Cảnh quan thiên nhiên ở đây rất đa dạng, hấp dẫn du khách với núi Hàm Ninh (605m), sông
Dương Đông (15 km), bãi biển Dương Đông, thác Tranh. v,v,,, Hơn nữa VQG Phú Quốc rất có giá trò
về đa dạng sinh học với 1.078 loài thực vật bậc cao, 140 loài động vật, trong đó có 28 loài thú, 67 loài
chim, 31 loài bò sát, đặc biệt có loài đặc hữu vượn tay trắng.
2.1.2.1. Môi trường nhân văn và tài nguyên DLST nhân văn.
(i) Về quá trình khai thác: ĐBSCL chỉ mới được khai thác trong vòng 300 năm trở lại đây, trễ
hơn rất nhiều so với đồng bằng sông Hồng, nhưng ngày nay đã trở thành vùng lương thực, thực phẩm
lớn nhất nước.
(ii) Về dân cư: ĐBSCL là một châu thổ quy tụ dân cư khắp nơi trong nước, có nhiều dân tộc ít
người (Khmer, Hoa, Chăm) sống chung với người Việt, có nhiều cộng đồng tôn giáo khác nhau cùng
tồn tại (Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo). Dân số hiện nay là 15.850.000
người, chiếm 21,86% dân số cả nước, mật độ dân số trung bình là 401 người/km2. Theo quá trình lòch
sử, lúc đầu người dân đến đònh cư trên giồng cát cao, sau đó đònh cư trên các gờ đất cao ven sông,
rạch, kinh đào đã tạo nên dạng phân bố dân cư đặc trưng của HST nhân văn sông nước vùng ĐBSCL.
(ii) Về đời sống kinh tế – văn hóa – xã hội: từ năm 1986 đến nay, kinh tế ĐBSCL tăng trưởng
nhanh nhưng không đều, tình trạng thiếu việc làm đang gia tăng. Sự phát triển nông nghiệp có hiệu
quả cao, đảm bảo an toàn lương thực và dư thừa để xuất khẩu chính là kết quả của một quá trình lâu



Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths .GVC. Trần Văn Thành

dài khắc phục các trở ngại của thiên nhiên và huy động được tính năng động của người dân. Mức sống
của người dân được cải thiện dần: GDP/người đạt 210 – 240 USD (1993), cao hơn mức bình quân cả
nước từ 10 – 20%. Đô thò hóa vùng ĐBSCL chưa cao, chỉ đạt tỷ lệ 16% so với 22% trên qui mô cả
nước. Việc cung cấp nùc sinh hoạt vẫn còn là vấn đề tồn tại và kéo dài, hầu hết dân cư dùng nước
sông, rạch, kinh mương để tắm giặt và rửa thực phẩm đã dẫn đến tỉ lệ mắc bệnh lây lan đường ruột
cao, một đe dọa chính đối với sức khoẻ. Đa số hệ thống cấp nước ở các đô thò hiện nay đều lấy từ
nguồn nước mặt. Việc tiêu thụ năng lượng chủ yếu là năng lượng truyền thống từ củi, rơm rạ, trấu đến
78%, dầu mỏ 18%, điện 2%, than đá 2%. Mức tiêu thụ điện vẫn còn thấp chỉ đạt 38 kwh/người. Tình
trạng suy dinh dưỡng, mức sống thấp, làm trầm trọng thêm tình trạng sức khỏe của người dân trong
vùng. Tỉ lệ mù chữ cao (28%), trình độ dân trí thấp trong giới nữ đã cản trở cho công tác giáo dục sức
khỏe ban đầu và kế hoạch hóa gia đình.
(iii) Về tài nguyên DLST nhân văn: vùng ĐBSCL cũng tương đối phong phú và đa dạng với
mật độ di tích lòch sử – văn hóa trên 100 km2, như đình, chùa, lăng mộ, pháo đài, di tích lòch sử, làng
nghề; đặc biệt là lễ hội, phong tục tập quán và chùa Khmer, tập trung nhiều nhất ở tỉnh An Giang,
Kiên Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu. Tuy nhiên, đa số tài
nguyên DLSTNV chỉ có ý nghóa vùng và đòa phương, ngoại trừ các TNDLNV có ý nghóa quốc gia như
lăng cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, khu lưu niệm Bác Tôn, khu di tích núi Sam và quần thể di tích
lăng mộ họ Mạc ở Hà Tiên.
Nhìn chung, môi trường tự nhiên và tài nguyên DLSTTN vùng ĐBSCL rất phong phú và đa dạng, tạo

cơ sở cho việc khai thác các loại hình DLST hang động – đồi núi, sinh thái sông nước, sinh thái rừng – sân
chim; cùng với môi trường nhân văn và TNDLNV tạo thuận lợi cho việc thiết kế các điểm, tuyến và cụm
DLST tự nhiên và nhân văn. Bên cạnh những thuận lợi trên, vùng ĐBSCL có một số hạn chế trong hoạt


động khai thác DLST như tình trạng ngập lụt, lốc xoáy, nước sạch, đường sá và phương tiện di chuyển,
giảm sút về đa dạng sinh học.

2.1.3. Hiện trạng phát triển du lòch.
2.1.3.1. Số lượng khách du lòch.
nước.

ĐBSCL là một trong những vùng có số lượng khách du lòch đến tham quan thấp nhất trong cả

(i) Khách du lòch quốc tế: Năm 1992, chỉ có 27.342 khách du lòch quốc tế và 721.563 khách du
lòch nội đòa, đến năm 1995 khách du lòch quốc tế tăng lên 5,2 lần (143.580 người), và đến năm 2000
lượng khách du lòch quốc tế đạt 345.222 người tức tăng 2,3 lần năm 1995 (bảng 1, hình 2).
Số khách quốc tế lưu trú ở ĐBSCL tăng từ 41.110 người năm 1995 tăng lên 129.963 người vào
năm 2000, tức tăng hơn 2,7 lần (bảng 1, hình 3).
Số ngày lưu trú của khách quốc tế ở ĐBSCL không ổn đònh nhưng năm 2000 cũng tăng 1,6 lần so
với năm 1995 (bảng 1. hình 5)


Báo cáo khoa học

Chủ nhiệm đề tài: Ths .GVC. Trần Văn Thành

Tỉnh có lượng khách quốc tế đến đông nhất là Tiền Giang, năm 2000 đạt 139.830 người, tăng 2,1
lần so với năm 1995, kế đến là tỉnh Cần Thơ (62.010 ngưới), Bến Tre (57.060 người) (bảng 2.1, hình
2.2).
(ii) Khách du lòch nội đòa: có xu thế tăng hàng năm. Số lượng khách du lòch nội đòa đông nhất ở
các tỉnh Kiên Giang, Cần Thơ, An Giang, Bến Tre. Năm 2000, khách du lòch nội đòa đến tỉnh Kiên
Giang đạt 127.357 người, tăng gần 1,8 lần so với năm 1996. Tỉnh Cần Thơ năm 2000 có lượng khách
du lòch nội đòa là 126.925 người, tỉnh An Giang là 118.686 người (bảng2.2).


Đáng chú ý là tỉnh Cà Mau có sức hấp dẫn khách du lòch nội đòa khá nhanh. Lượng khách đến
tỉnh Cà Mau năm 2000 là 100.000 lượt người, tăng bình quân hàng năm giai đoạn 1991-2000 là
20,05%. Trong đó, số lượng khách quốc tế 4.000 lượt người tăng gấp 18,14 lần so với 1991.
- Tổng số ngày khách năm 2000 là 147.766 ngày, tăng gấp 8,3 lần so với 1991. Ngày khách trung
bình là 1,48 ngày.
- Số ngày khách trung bình của khách nội đòa có xu hướng tăng dần: năm 1991 là 0,95 ngày; năm
2000 là 1,49 ngày; số ngày trung bình của khách quốc tế có xu hướng giảm: năm 1991 là 1,88 ngày;
năm 2000 là 1,49 ngày.
- Khách du lòch đến tỉnh Cà Mau chủ yếu là khách DLST, công vụ thăm hỏi, và du lòch bình dân.
Hình thức du lòch chủ yếu theo đoàn, theo gia đình và cá nhân.
Kết quả điều tra tại các điểm du lòch Cồn Ông Trang, Bãi Khai Long, Mũi Cà Mau thì hầu như
ngày nào cũng có các đoàn khách đến tham quan. Đặc biệt, đoàn khách nào của trung ương, của tỉnh
bạn đến công tác tại tỉnh đều có yêu cầu đến Đất Mũi.
2.1.3.2. Doanh thu du lòch.
Tăng trung bình hàng năm là 52%, nguồn thu chủ yếu từ dòch vụ khách sạn và ăn uống. Doanh
thu từ khách du lòch quốc tế năm 1994 tăng gấp hơn 4 lần năm 1992, doanh thu từ khách du lòch nội
đòa chỉ tăng gần gấp đôi. Tỉnh Cần Thơ củ, năm 1995 đạt 42 tỷ 233 triệu đồng, nộp ngân sách nhà
nước 12 tỷ 680 triệu đồng. Tỉnh Tiền Giang, doanh thu du lòch tăng bình quân năm 62%. Tỉnh Đồng
Tháp năm 1994 doanh thu du lòch đạt 9 tỷ 530 triệu đồng.
2.1.3.3. Lao động du lòch.
Tốc độ về số lao động tăng khá cao, 1993 tăng 762 người, năm 1994 tăng thêm 1090 người.
Số lao động làm việc năm 1994 trong các khách sạn, Công ty lữ hành là 3.310 người, nhưng chất
lượng đội ngũ lao động du lòch còn quá thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển du lòch vùng
ĐBSCL .
2.1.3.4. Đầu tư phát triển du lòch.
Cho đến nay ở các tỉnh ĐBSCL chưa thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư quốc tế
và quốc nội, một nguyên nhân cản trở sự phát triển của du lòch vùng ĐBSCL.
Bảng 2.1. Tình hình khách du lòch quốc tế đến vùng ĐBSCL từ 1995-2000



×