Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Tiểu luận: Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên tại trường THPT trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.17 KB, 36 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thế  giới đã xẩy ra biết bao nhiêu những biến 
động to lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới  ở  Việt 
Nam vẫn giành được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm 
phục. Trong xu thế  toàn cầu hóa hiện nay, sự  nghiệp đổi mới của nước ta  
đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh 
táo, phán đoán xử lý kịp thời mới giữ vững  ổn định chính trị  và tiếp tục phát  
triển kinh tế.
Để đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu 
tiên và cấp thiết nhất đối với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ 
vừa “hồng” vừa "chuyên" từ Trung  ương đến cơ sở. Bởi vì như  Lênin người  
thầy của giai cấp vô sản đã từng nói: “Trong lịch sử  chưa có giai cấp nào 
giành được quyền thống trị, nếu có đào tạo được trong hàng ngũ của mình 
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và 
lãnh đạo phong trào”. Chủ  tịch Hồ  Chí Minh cũng đã khẳng định: Cán bộ  là  
gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại cũng do đội ngũ  
cán bộ tốt hay kém, có cán bộ  tốt việc gì cũng xong. Vì thế  hơn lúc nào hết,  
chúng ta phải trở  lại nghiên cứu một cách thấu đáo Tư  tưởng Hồ  Chí Minh 
về cán bộ để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng hiện nay.
Đó cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng 
mới thời kỳ “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Cán bộ  là khâu quyết định sự 
thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và 
chế  độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ  tịch Hồ  Chí 
Minh và Đảng ta đã dầy công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được đội ngũ 
cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn  
cách mạng.
Để  lãnh đạo thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vận 
dụng tư tưởng Hồ Chí minh về cán bộ và công tác cán bộ, nâng cao năng lực  
lãnh đạo là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa rất căn bản và lâu dài. 
Trong ngành giáo dục ­ được coi là quốc sách hàng đầu ­ thì đ ội ngũ cán 


bộ, giáo viên là lực lượng cốt cán của sự  nghiệp phát triển giáo dục và đào  
tạo, là nhân tố quan trọng nhất quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục,  
biến mục tiêu phát triển giáo dục của Đảng thành hiện thực. Do vậy, muốn 
phát triển  giáo dục đào tạo  điều quan trọng trước tiên là phải chăm lo xây 
dựng và phát triển đội ngũ  cán bộ,  giáo viên.  Trong nhà trường phổ  thông, 
1


việc phát triển đội ngũ cán bộ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,  
chất lượng ngày càng cao phải được coi là một giải pháp quan trọng hàng đầu  
để nâng cao chất lượng giáo dục.
Với lý do đó, tôi chọn đề  tài "Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về  
cán bộ  và công tác cán bộ  để  nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ  giáo  
viên tại trường THPT trong giai đoạn hiện nay" làm đề  tài tiểu luận cuối 
khóa.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về 
cán bộ và công tác cán bộ  cùng với đó là quá trình khảo sát thực tiễn tại trường  
THPT Đông Tiền Hải,  tiểu luận đề  xuất một số  giải pháp nhằm nâng cao  
hiệu quả, chất lượng đội ngũ cán bộ  giáo viên tại nhà trường trong giai đoạn 
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
­ Trình bày những quan điểm cơ  bản trong tư  tưởng Hồ  Chí Minh về 
cán bộ và công tác cán bộ.
­ Đánh giá đúng thực trạng chất lượng, hiệu quả của cán bộ  giáo viên  
và công tác cán bộ   ở  Trường THPT …, tìm ra những nguyên nhân của thực  
trạng ấy.
­ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 
giáo viên và công tác cán bộ tại trường THPT ... trong giai đoạn hiện nay.

3. phương pháp nghiên cứu
­ Dùng phương pháp chung của triết học Mác ­ Lênin, phương pháp duy 
vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu dùng phương 
pháp logic và lịch sử.
 
­ Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này giúp bản 
thân tôi nắm vững cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu…
­ Phương pháp quan sát, trao đổi, trò chuyện, phân tích, tổng hợp dữ 
liệu, số liệu so sánh, đánh giá nhằm phục vụ đề tài.
4. Giới hạn nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về 
cán bộ và công tác cán bộ tại trường THPT …
4.2. Phạm vi nghiên cứu
2


Phạm vi nghiên cứu của đề  tài là chất lượng cán bộ  giáo viên và công  
tác cán bộ  giáo viên của trường THPT … ­ huyện … ­ tỉnh … từ  năm 2015 
đến nay và phương hướng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của cán bộ giáo 
viên đến năm 2020.
4.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu luận trong một năm từ tháng 5 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018.
II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
 CƠ SỞ LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG 
TÁC CÁN BỘ.
1.1. Một số vấn đề chung về tư tưởng Hồ Chí Minh
Trải qua quá trình bôn ba, hoạt động cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh 
được hình thành và phát triển, cùng với chủ  nghĩa Mác ­Lênin đã trở  thành 

nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Khái niệm tư  tưởng Hồ  Chí Minh được nêu lên trong Đại hội IX năm 
2001 của Đảng sau được khái quát lại trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước 
trong thời kì quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội" (Bổ sung và phát triển năm 2011):  
"Tư  tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về 
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và 
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác ­ Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,  
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh  
hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng  
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự  nghiệp cách mạng của nhân dân ta 
giành thắng lợi"
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luậnvà định hướng cho Đảng ta  
xây dựng đường lối đúng đắn dẫn dắt nhân dân ta đi từ  thắng lợi này đến  
thắng lợi khác trong toàn bộ  tiến trình cách mạng của nước ta. Do vậy, việc 
nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động thực  
tiễn là rất quan trọng. Trong đó, để thực hiện được các nội dung tư tưởng Hồ 
Chí Minh, đưa cách mạng thành công thì vai trò của cán bộ và công tác cán bộ 
có tính quyết định. Cho nên trong tư  tưởng Hồ  Chí Minh cán bộ  và công tác 
cán bộ luôn luôn giữ vị trí hàng đầu và được Người thể hiện rất rõ ràng, sâu 
sắc.
3


1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
1.2.1. Về vị trí cán bộ và công tác cán bộ
­ Cán bộ  có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng có nhiều  
nhiệm vụ, nhiều công việc, trong đó Hồ Chí Minh coi “cán bộ là cái gốc của  
mọi công việc”; “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ  tốt 
hoặc kém”. Có cán bộ  tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ 
đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa cách mạng tới thành công. Muốn  

biến đường lối thành hiện thực, cần phải có đội ngũ cán bộ  cách mạng tập  
hợp được quần chúng cách mạng, có đủ  phẩm chất và năng lực mới đưa 
được cách mạng đến thắng lợi.
Hồ  Chí Minh chỉ  ra rằng: Cán bộ  là những người đem chính sách của 
Đảng, và Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời 
đem tình hình của quần chúng nhân dân báo cáo cho Đảng, và Nhà nước hiểu  
rõ, để đề ra chính sách cho đúng. Vị trí cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng, Chính  
phủ với quần chúng nhưng không phải là “dây dẫn”, là sự chuyển tải cơ học 
mà đòi hỏi người cán bộ phải có đủ tư chất, tài năng, đạo đức để làm nhiệm  
vụ cầu nối đó. 
Hồ  Chí Minh coi trọng cán bộ  nên cũng rất coi trọng công tác đào tạo 
cán bộ, Người cho rằng cán bộ  có vị  trí quyết định trong mọi nhiệm vụ  bởi 
chính sách đúng đắn có thể  không thu được kết quả  nếu cán bộ  làm sai, cán 
bộ yếu kém. Người nói “Khi đã có chính sách đúng, thì sự  thành công và thất  
bại của chính sách đó là do cách tổ  chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ,  
do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
­ Cần coi trọng công tác cán bộ. Muốn tổ chức công việc tốt, yêu cầu 
người cán bộ phải có tài, có đức, song việc lựa chọn và bố  trí, sử  dụng phải  
hợp lý, đúng người, đúng việc. Nếu không rất có thể  hỏng việc mà không 
phải do năng lực của cán bộ. Hồ  Chí Minh luôn cho rằng trong dân ta không 
thiếu người tài, có đức để làm cán bộ, vấn đề còn lại là phải biết phát hiện,  
bồi dưỡng và tin tưởng ở họ.
Về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nêu ra các vấn đề lớn và các vấn đề 
đó có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là:

4


­ Hiểu biết cán bộ. Theo Hồ Chí Minh trước khi cất nhắc cán bộ, phải 
nhận xét rõ ràng. Không chỉ  xem xét về  công tác của họ  mà còn xem xét cả 

sinh hoạt, chẳng những xem xét về cách viết, cách nói của họ mà còn xem xét 
việc làm của họ có đúng với lời nói không, phải biết ưu điểm của họ và cũng 
phải biết khuyết điểm của họ.(1)
­ Khéo dùng cán bộ. Trong những bài viết, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: dùng 
cán bộ  như  “dùng mộc”, tùy tài, tùy việc mà dùng người, tránh lạm dùng 
người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, những kẻ khéo nịnh hót mình, chán 
ghét những người chính trực. Biết dùng cán bộ là phải khiến họ yên tâm, vui  
thú, hăng say làm việc, khuyến khích cán bộ  dám nói, dám làm, có gan phụ 
trách, có gan làm việc.
­ Cất nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng lựa chọn, cất nhắc đúng cán 
bộ, dùng cán bộ  cho đúng đó mới là “tình cảm”, hai việc đó phải đi đôi với 
nhau. Để dùng được đúng cán bộ thì phải biết rõ họ. Bác chỉ rõ: Kinh nghiệm 
cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt tìm thấy nhân tài mới, mặt 
khác những người hủ hóa cũng lòi ra(2)
­ Thương yêu cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện pháp có quan hệt 
mật thiết đối với nhiều người trong công tác đào tạo cán bộ  và có tác dụng 
lâu dài trong xây dựng đội ngũ cán bộ  của Đảng. Quan tâm, thương yêu cán 
bộ là phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ, nhất là cán bộ  nữ,  
cán bộ miền núi vào cơ quan lãnh đạo.
­ Phê bình cán bộ. Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên 
tắc xây dựng Đảng ta, chúng ta không sợ  sai lầm, khuyết điểm. Điều quan 
trọng là những người lãnh đạo phải biết cách giúp đỡ cán bộ sửa chữa những  
sai lầm, khuyết  điểm của họ. Sửa chữa sai lầm, khuyết  điểm, trước hết 
người cán bộ có sai lầm phải tự kiểm điểm và tiếp thu phê bình của các đồng  
chí để nhận ra khuyết điểm của mình và tự giác sửa chữa. Mặt khác các cán 
bộ lãnh đạo phải có trách nhiệm phê bình và giúp đỡ để cảm hóa cán bộ của  
mình sửa chữa khuyết điểm. Song, không phải tuyệt nhiên không dùng hình 
thức xử phạt, xử phạt là biện pháp giúp những cán bộ cố ý phá hoại nhận ra 
sai lầm của họ. Như vậy, phê bình đúng, chẳng những không làm giảm uy tín 
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 5, tr.281

 Sđd, tập 5, tr.274

11 
22

5


của cán bộ, cuả Đảng mà còn làm cho sự  lãnh đạo mạnh mẽ  hơn, đúng đắn 
hơn, nhờ đó mà uy tín và thể diện càng được tăng lên.
Để có cán bộ tốt, đáp ứng được phong trào, nhiệm vụ cách mạng, phải  
coi trọng công tác cán bộ. Người coi công tác cán bộ  cũng như  việc đào tạo 
nhân tài là trọng yếu và rất cần thiết. Người nói: “Vì lợi ích mười năm trồng 
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
1.2.2. Về tiêu chuẩn cán bộ.
Đối với Hồ Chí Minh, Người quan tâm trước tiên là vấn đề  đạo đức  
của   người   cán   bộ.   Người   coi   đạo   đức   là   “gốc”;   phải   có   đạo   đức   cách 
mạng thì người cán bộ  mới có điều kiện để  làm việc, phục vụ  nhân dân, 
phục vụ  Tổ  quốc. Nếu thiếu ho ặc y ếu kém  đạo  đức cách mạng thì  sẽ 
không thể làm tốt công việc được giao. Người cho rằng “cũng như  sông có 
nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, 
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo  
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Tư  tưởng về 
đạo  đức   của   người   cách  mạng  mà  Hồ  Chí  Minh   nêu  không  có  nghĩa  là  
người cán bộ  không cần có trình độ  nhưng trong quan hệ đức – tài, thì đạo 
đức là “gốc”, có ý nghĩa quyết định đối với người cán bộ. 
Người đặt ra yêu cầu đạo đức của người cán bộ:
    “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính

Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”
Người đã giải thích Cần, Kiệm, Liêm ,Chính rất cô đọng, rõ ràng:
­ Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai
­ Kiệm là tiết kiệm không xa xỉ, không hoang phí…
­ Liêm là trong sạch, không tham lam, không ham địa vị, không ham tiền  
tài, không ham người tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh chính đại, không  
bao giờ hủ hoá.

6


­ Chính là thắng thắn, đúng đắn. Để  chính thì phải chớ  tự  kiêu, tự  ái, 
chớ nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức phải tự rèn luyện một cách kiên trì, bền bỉ 
mới có được, phải tự “tu thân tích đức" tựa như:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian lan, rèn luyện mới thành công”
(Nhật ký trong tù)

                 

Theo Hồ  Chí Minh, muốn “thành người” và thành “người cán bộ” thì 
trước hết là phải học “Học  ở  trường, học  ở  sách vở, học lẫn nhau và học 
nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn”. Học là điều kiện tiên  
quyết để “thành người” và “người cán bộ”. Người viết:
“Học để làm việc

  Làm người
  Làm cán bộ”
“Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ  được, là thoái bộ. Xã hội 
càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình đã không chịu 
học, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”.
Theo Hồ  Chí Minh, người cán bộ  còn phải tự  phê bình, Người giải  
thích: “Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ, thì ai cũng cần tự  phê  
bình cho tư tưởng và hành động đúng đắn” “tự phê bình là thật thà nhận, công 
khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để  tìm cách 
sửa chữa”.
Nói tóm lại, Hồ  Chí Minh coi các đức tính, khiêm tốn, ham học hỏi, 
không giấu dốt, thường xuyên tự phê bình, không chủ  quan tự  mãn, gặp thất 
bại không nản chí… là những phẩm chất thuộc tiêu chuẩn hàng đầu của 
người cán bộ. 
1.2.3. Phát hiện, lựa chọn, đánh giá, sử dụng và cất nhắc cán bộ:
Sinh thời Hồ  Chí Minh đặt niềm tin rất cao vào quần chúng, việc 
phát hiện, lựa chọn nhân tài không được phân biệt người trong Đảng hay 
ngoài Đảng, vấn đề  họ  phải có tài thật sự. Người cho rằng cần thông qua 
7


thực tiễn cách mạng để  lựa chọn cán bộ: Khi “Phong trào giải phóng sôi 
nổi, nảy nở  ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng, chúng ta không đượ c bỏ  rơi 
họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ  họ. Phải 
thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ  giúp ích vào công cuộc  
kháng chiến cứu nước” “ph ải tr ọng nhân tài”.
Như   vậy   phát   hiện,   lựa   chọn   cán   bộ   trong   kháng   chiến   cũng   như 
trong hòa bình, xây dựng đất nước đều phải thông qua thực tiễn và kết quả 
hoạt động để xem xét lựa chọn cán bộ. 
Hồ Chí Minh cho r ằng c ần ph ải th ường xuyên đánh giá cán bộ. Theo 

Ngườ i: “Mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy nhân tài mới, 
một mặt khác những ngườ i hủ hoá cũng lòi ra”. Ngườ i chỉ rõ "xem xét cán 
bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ, không chỉ 
xem một vi ệc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của  
họ. Có ngườ i lúc phong trào cách mạng cao, họ vào đảng, họ  làm việ c rất  
hăng. Nhưng lúc phong trào hơi khó khăn thì đâm ra hoang mang. Lúc gặp 
sự nguy hi ểm hoá phản cách mạng…Nếu ta không xem xét rõ ràng thì lầm 
là cán bộ tốt".
Vì vậy, lựa chọn, đánh giá cán bộ  không nên chỉ  xét ngoài mặt, chỉ 
xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ .
Hồ   Chí   Minh   cũng   đặt   ra   yêu   cầu   với   công   tác   đánh   giá   cán   bộ, 
Ngườ i đòi hỏi muốn bi ết đúng về  ngườ i khác thì trướ c hết phải “tự  biết 
mình”, “đã không tự  biết mình thì khó mà biết ngườ i, vì vậy muốn biết  
đúng sự  phải  trái   ở  ngườ i  ta thì  trướ c  phải biết  đúng sự  phải trái của 
mình.
Tóm lại, về  đánh giá cán bộ, Hồ  Chí Minh cho r ằng hi ểu ng ười là 
việc rất khó, nếu không hiểu đúng thì không dùng đúng, nếu không dùng 
đúng   thì   không   thể   cất   nhắc   đúng.   Nhưng   muốn   hi ểu   ng ười   tr ước   h ết  
phải hiểu mình. Rõ ràng trong đánh giá cán bộ, ngườ i đánh giá phải có tâm 
và có tầm nhìn, công bằng và trung thực m ới l ựa ch ọn đượ c cán bộ tốt.
Đánh giá cán bộ  là cơ  sở  để  đề  bạt và sử  dụng cán bộ  đúng ngườ i,  
đúng việc, đúng lúc. Hồ  Chí Minh yêu cầu khi “cất nh ắc cán bộ  cần phải 
xét rõ ngườ i đó có gần gũi quần chúng, có đượ c quần chúng tin cậy và  
8


mến phục không. Lại phải xem ng ười  ấy x ứng v ới vi ệc gì, nế u ngườ i có 
tài, mà dùng không đúng tài của họ, cũng không đượ c việc”. Do đó, thấm 
nhuần tư  tưở ng H ồ  Chí Minh về  công tác cán bộ  thì ngườ i đánh giá cán 
bộ phải khách quan, vô tư và vì sự  nghiệp chung c ủa Đảng.

Khi đề  bạt, sử  dụng cán bộ  thì cần xem xét tiêu chí tổ ng hợp để 
xem ngườ i cán bộ  đó có đủ  tiêu chuẩn đề  bạt giữ  một chức vụ  nào đó và 
họ có gần gũi và đượ c quần chúng tin cậy mến ph ục không. Phải nói rằng 
đây là một thướ c đo khá chuẩn xác và quan tr ọng trong đề  bạt cán bộ.
Khi đã đủ  tiêu chuẩn đề  bạt thì phải xem ngườ i đó thích hợp với 
việc gì, sở  trườ ng và năng lực như  thế  nào để  bố  trí, sử  dụng cho đúng.  
Làm như  vậy là sử  dụng đúng ngườ i đúng việc. Rõ ràng việc bố  trí sắp 
xếp cán bộ  phụ  thuộc vào sự  công tâm và sáng suốt của của cơ  quan t ổ 
chức và ngườ i  làm  công tác cán bộ. Như  vậy, vi ệc bố  trí cán bộ   ở  cơ 
quan, tổ ch ức c ần đượ c lựa chọn kỹ lưỡ ng. Tránh tình trạng sai chồng lên  
sai. Điều rất quan trọng n ữa là “khi cân nhắc cán bộ, phải xem k ết qu ả 
học tập cũng như kết qu ả công tác khác mà định”.
Về  phươ ng  pháp, cách thức cất nhắc, H ồ  Chí Minh đã  chỉ  ra cất 
nhắc cán bộ  không nên làm như  “giã gạo” nghĩa là trướ c  khi cất nhắc 
không xem xét kỹ. Khi cất nh ắc r ồi không giúp đỡ  họ. Khi họ  sai lầm thì 
đẩy xuống, ch ờ  lúc họ  khá lại cất nhắc lên. Một cán bộ  bị  nhắc lên hạ 
xuống ba lần nh ư  th ế  là hỏng cả  đời… Hồ  Chí Minh chỉ  rõ “sau khi cất 
nhắc phải giúp đỡ  họ, khuyên gắng họ, vun tr ồng lòng tự tin, tự trọng của 
họ”.
Mục đích lựa chọn, đánh giá, cất nhắc cán bộ  là để  dùng cán bộ  sao  
cho hiệu qu ả nh ất. Hồ Chí Minh cho r ằng, đối với mỗi con ngườ i: “không 
có   ai   cái   gì   cũng   tốt,   cái   gì   cũng   hay.   Vì   vậy   chúng   ta   phải   khéo   dùng 
ngườ i, sửa chữa nh ững khuy ết  điểm cho họ, giúp  đỡ   ưu điểm của họ. 
Thườ ng  chúng  ta không  biết tuỳ   tài mà  dùng ngườ i,  thợ  rèn thì   bảo  đi  
đóng tủ, thợ  m ộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử  hai ng ười đều lúng túng.  
Nếu biết tuỳ  tài mà dùng ngườ i, thì hai ngườ i đề u thành công”. Là ngườ i 
có lòng bao dung, độ  lượ ng, Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta, trướ c hết là 
những ngườ i và cơ  quan làm công tác tổ  chức cán bộ  “Ngườ i  ở  đời, ai 
9



cũng có chỗ  tốt và chỗ  xấu. ta phải khéo nâng cao chỗ  tốt, khéo sửa chữa  
chỗ xấu cho họ”. 
Hơn thế  nữa, biết dùng ngườ i đúng sở  trườ ng của họ, đúng tài của 
họ, đúng lúc đúng chỗ, tức bi ết kheo dùng ngườ i thì phải “tài nhỏ  có thể 
hoá ra tài to” nhưng nếu không khéo dùng ngườ i thì “tài to cũng hoá ra tài  
nhỏ”.
1.2.4. Về hu ấn luy ện, đào tạo, bồi dưỡ ng cán bộ.
Trong công  tác  cán  bộ,  Hồ  Chí   Minh  rất  coi trọng  công  tác huấn  
luyện, đào tạo, bồi dưỡ ng cán bộ; nếu như  “cán bộ  là gốc của mọi công  
việc thì “huấn luyện cán bộ  là công việc gốc của Đả ng”, Hồ  Chí Minh  
khẳng định “Đảng phải nuôi dạy cán bộ  như  ngườ i làm vườ n vun trồng 
những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một 
ngườ i có ích cho công việc chung c ủa chúng ta”.
Huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡ ng là khâu có ý nghĩa quyết định đế n 
trình độ  và chất lượ ng của cán bộ. Hồ  Chí Minh chỉ  thị  học lý luận phải 
gắn với thực tiễn, tránh đào tạo chung chung, h ọc thu ộc lòng. Thực tiễn  
không ngừng bi ến đổi, do vậy lý luận cũng phải đượ c bổ sung, phát triển,  
vì thế  cán bộ  phải không ngừng học tập, nghiên cứu để  nâng cao trình độ , 
thực hiện tốt nhi ệm v ụ đượ c giao.
Theo Hồ  Chí Minh, học tập là rất quan trọng, mu ốn tr ở thành ngườ i 
và “ngườ i cán bộ” thì phải học: Học để  làm việ c ­ Làm ngườ i ­ Làm cán 
bộ .
Ngườ i xưa có câu: “Thành tài thì chưa chắc đã thành nhân” và với  
Bác   Hồ   thì   cần   phải   “làm   ngườ i”   sau   đó   mới   “làm   cán   bộ”   để   “thành 
nhân” rồi mới “thành tài”, và điều đó trướ c hết là phải học. Theo Hồ  Chí 
Minh thì “Học  ở  trườ ng, học sách vở, lẫn nhau và học nhân dân, không  
học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”.
1.2.5. Về công tác kiểm tra, qu ản lý và chính sách đối với cán bộ
Trong  thực   tiễn  công  tác  cán  bộ,  tất  yếu  phải  coi  tr ọng  công  tác 

kiểm tra và quản lý cán bộ.
Kiểm tra là để  phát huy  ưu điểm, ngăn ngừa khuyết điểm và ngăn 
chặn kẻ  xấu chui vào bộ  máy. Đó chính là công việc của ngườ i phụ trách 
10


và cơ  quan làm công tác cán bộ, Hồ  Chí Minh nói: “Phải thườ ng xuyên 
kiểm tra để  giúp họ  rút kinh nghiệm, sửa ch ữa khuy ết điểm, phát huy  ưu 
điểm. Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đế n. 
Thế là không biết yêu dấu cán bộ”.
Trong quản lý cán bộ  phải thực hi ện t ốt: chế  độ  tự  phê bình và phê 
bình; chế  độ  khen thưở ng và kỷ  luật. Trong bài “Tự  phê bình” đăng báo 
Nhân dân ngày 20 tháng 5 năm 1951, m ở đầu bài báo, Ngườ i viết:
“Dao có mài, mới sắc
Vàng có thui, mới trong
Nước có lọc, mới sạch
Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”
Đó là sự cần thiết của chế độ tự phê bình và phê bình.
Hồ  Chí Minh đã đề  cao nguyên tắc tự  phê bình, phê bình, khuyến 
khích cấp dưới phê bình cấp trên, cấp trên phê bình, nhận xét phải công 
bằng,  yêu   thương   cán  bộ,   không  thành   kiến,  trù   dập,   thưởng   phạt   phải  
công minh. Trong th ực tế, Ng ười  chú ý khen thưởng  nhiều mà cũng xử 
nghiêm những ai có tội lỗi. Tuy nhiên, Người  cũng nhắc nhở   đừng lạm  
dụng thưởng, phạt, bởi vì thưởng, phạt tràn lan, không đúng lúc, đúng chỗ, 
thiếu chính xác, thiếu công bằng thì cũng không có tác dụng tích cực.
Việc kiểm tra, qu ản lý cán bộ  còn có nhiệm vụ  ngăn ngừa, chống 
lại những tệ  nạn tham nhũng, quan liêu rất dễ  xảy ra trong cán bộ  khi có 
chức, có quyền.
Hồ Chí Minh quan niệm ki ểm tra, phê bình cán bộ với mục đích là để 
họ  không kiêu căng, làm cho họ  thêm hăng hái, thêm gắng sức: “Phải vun  

đắp chí khí của họ để đi đến chỗ “ bại không nản, thắng không kiêu”. Phải  
xuất phát từ tình thương yêu để  phê bình và phê bình là mong cho đồng chí 
mình tiến bộ”. “ Mục đích phê bình cốt để  giúp nhau sửa chữa, giúp nhau 
tiến bộ. Cốt để  sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết 
và thống nhất nội bộ”.
Vì vậy mà phương pháp phê bình, tinh thần, thái độ  phê bình “ phải  
ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả 
ưu điểm, khuyết điểm; Đồng thời, chớ  dùng lời lẽ  mỉa mai, chua cay đâm 
11


thọc.   Phê   bình   việc   làm   chứ   không   phải   phê   bình   người”.   Còn   đối   với 
“những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi. Không nên 
vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét”.
Ngoài ra Hồ  Chí Minh còn yêu cầu người cán bộ  phải thường xuyên 
cái tiến phương pháp công tác và lề  lối làm việc để  nâng cao hiệu quả 
công tác. Điều này được thể  hiện rõ ràng trong cuốn “Sửa đổi đườ ng lối 
làm việc” của Bác Hồ  ra đời cách đây đã hơn nửa thế  kỷ. Đặc biệt trong  
giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay cũng như trước yêu cầu hội nhập  
quốc tế, tư  tưởng Hồ  Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi đườ ng lối làm 
việc” càng có ý nghĩa to lớn và quan trọng không chỉ  đối với cán bộ, Đảng  
viên mà còn có tác dụng đối với toàn xã hội.
1.2.6. Về công tác cán bộ nữ.
Trong cuộc đời sự  nghiệp của Người, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới 
sự  nghiệp giải phóng phụ  nữ. Trong công tác cán bộ, Hồ  Chí Minh quan  
tâm sâu sắc đến công tác cán bộ nữ. 
Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã chỉ  rõ: “ Đảng và Chính phủ  cần có kế 
hoạch thiết thực để  bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ  để  ngày thêm nhiều  
phụ  nữ  phụ  trách mọi công việc kể  cả  công việc lãnh đạo. Bản thân phụ 
nữ  thì phải cố  gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền 

bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Người luôn khích lệ động viên: “Vậy phụ nữ phải làm sao cho người  
ta thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ 
cử  mình lên”. Người đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán  
bộ  nữ và rất chú ý đến việc mở  các lớp bồi dưỡng của địa phươ ng, cơ  sở. 
Bác nghiêm khắc phê phán các địa phương, cơ  sở  mở  lớp học mà có ít cán 
bộ  nữ. Bác nói “cán bộ  nữ  ít như  vậy là một thiếu sót, các đồng chí phụ 
trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ  nữ. đây cũng là 
một thiếu sót chung  ở  trong Đảng. Nhiều người còn đánh giá không đúng 
khả năng của phụ nữ, hay thành kiến hẹp hòi, như  vậy là rất sai. Hiện nay 
có nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở nhiều người rất giỏi”. 
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, phụ nữ đã có những đóng góp 
to lớn, nhiều chị em đã được phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân  
12


dân, anh hùng lao động, chiến sỹ thi đua toàn quốc, nghệ sỹ nhân dân, nghệ 
sỹ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nhiều người đạt chức danh giáo 
sư, phó giáo sư, là những nhà khoa học đầu ngành v.v… Đây lại là minh 
chứng cho sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác cán bộ 
nữ của Người. 
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ GIÁO 
VIÊN TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔNG TIỀN HẢI 
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1. Khái quát đặc điểm, tình hình
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Tiền Hải ­ tỉnh Thái Bình
Huyện Tiền Hải giáp huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình về  phía tây. 
Phía đông giáp vịnh Bắc Bộ. Phía bắc giáp huyện Thái Thụy Thái Bình. Phía 
nam giáp tỉnh Nam Định. Huyện Tiền Hải nằm kẹp giữa hai cửa biển Trà Lý 

và Ba Lạt của sông Hồng. Đây là một trong hai địa phương ven biển của tỉnh  
ta có diện tích 226 km2, dân số  213 616 người (số  liệu năm 2009), hầu hết  
dân tộc kinh, dân tộc thiểu số không đáng kể.
Huyện Tiền Hải gồm 1 thị trấn Tiền Hải và 34 xã: An Ninh, Bắc Hải, Đông 
Cơ, Đông   Hải, Đông   Hoàng, Đông   Lâm, Đông   Long, Đông   Minh, Đông 
Phong, Đông   Quý, Đông   Trà, Đông   Trung, Đông   Xuyên, Nam   Chính, Nam 
Cường, Nam Hà, Nam Hải, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Phú, Nam Thanh, Nam 
Thắng, Nam   Thịnh, Nam   Trung, Phương   Công, Tây   An, Tây   Giang, Tây 
Lương, Tây Ninh, Tây Phong, Tây Sơn, Tây Tiến, Vân Trường, Vũ Lăng.
Tiền Hải là vùng đất trẻ, mới được bồi đắp. Lịch sử hình thành huyện 
Tiền Hải chỉ  thực sự  rõ nét từ  thời  nhà Nguyễn, khi Doanh điền sứ Nguyễn 
Công Trứ năm 1828 đưa dân đến khai hoang lấn biển lập nên các làng xã tại 
đây. Lúc đầu (năm 1828, 1832), Tiền Hải thuộc phủ Kiến Xương, tỉnh  Nam 
Định (cũ), gồm 7 tổng, huyện lị  đặt tại  ấp Phong Lai. Tới năm 1891, nhập 
thêm  hai   tổng:   Đại  Hoàng  (chuyển từ   huyện Trực  Định, tức   huyện Kiến 
Xương ngày nay, sang) và Đông Thành (từ huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định), 
thành ra có 9 tổng và thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
13


Là vùng đất trẻ, Tiền Hải không có nhiều những di sản văn hóa lâu đời.  
Song, từng là đất thiêng của cuộc khởi nghĩa nông dân Phan Bá Vành; ngoài ra 
có các di tích như  đình Nho Lâm, đình Tiểu Hoàng, đình Tô hay lễ  hội làng  
Thanh Giám cũng là những tài nguyên du lịch quý giá trên vùng đất này.
2.1.2. Đặc điểm, tình hình trường THPT ….
Trường THPT … nằm  ở  phía đông huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình 
thuộc địa bàn các xã ven biển khó khăn của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.  
Nơi đây đa phần là kinh tế  tiểu nông nhỏ  lẻ  xen kẽ  với phát triển tiểu thủ 
công nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản. Người dân đa số làm nông 
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đi biển thu nhập trung bình thấp.

Trường THPT …. đứng chân trên địa bàn xã Đông Xuyên ­ huyện Tiền 
Hải ­ tỉnh Thái Bình với  diện tích rộng gần 1500m 2, giáp khu dân cư  và 
đường quốc lộ  liên xã Đông Xuyên ­ Đông Long ­ Đông Hoàng. Đây là khu  
vực ven biển, đa số  các hộ  gia đình làm nông nghiệp thuần túy, dân trí chưa  
cao, các điều kiện cơ  sở  hạ  tầng còn nhiều hạn chế. Song những năm gần  
đây tình hình kinh tế  ­ xã hội của khu vực có nhiều chuyển biến tích cực, 
Đông Xuyên đã hoàn thành các tiêu chuẩn để  trở  thành một trong những xã  
của huyện Tiền Hải về đích nông thôn mới.
­ Quá trình thành lập và phát triển: Trường THPT … được thành lập từ 
năm 1980 ­ là một trong những trường được thành lập muộn của tỉnh nhà và 
trên địa bàn huyện. Trụ sở  chính của trường đặt tại xã Đông Xuyên ­ huyện 
Tiền Hải ­ tỉnh Thái Bình. Khi mới thành lập, trường có cơ  sở  vật chất hết  
sức nghèo nàn, chỉ  có 4 phòng học lợp ngói, nền đất, bảng xi măng với số 
lượng học sinh ban đầu chỉ  có hơn 100 em. Có những năm trường có quá ít 
học   sinh  dự   học   đứng  trước  nguy  cơ  giải  thể  như   năm  học  1981­  1982.  
Nhưng được sự  quan tâm của Đảng và Nhà nước, của chính quyền các cấp,  
của ngành giáo dục ­ đào tạo và sự  nỗ  lực phấn đấu của đội ngũ thầy, cô  
giáo, phụ  huynh học sinh, nhà trường từng bước vượt qua khó khăn ban đầu 
và dần phát triển vươn lên.
­ Về Cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường từng bước được đầu 
tư  nâng cấp theo hướng hiện đại đáp  ứng được nhu cầu dạy và học. Hiện 
nay nhà trường có hai khu nhà học cao tầng kiên cố với 30 phòng học đủ cho  
14


tất cả các lớp học một buổi/ ngày, có 2 phòng thí nghiệm, 3 phòng máy chiếu, 
3 phòng máy tính đảm bảo các điều kiện học tập đầy đủ. Đặc biệt năm 2016, 
khu nhà hiệu bộ đã được hoàn thành có đầy đủ các phòng chức năng phục vụ 
điều kiện làm việc của cá nhân, bộ phận và đoàn thể  trong nhà trường với 3 
phòng giám hiệu, 1 văn phòng, 1 phòng kế  toán, 1 phòng thư  viện, 2 phòng 

chờ giáo viên, 5 phòng tổ bộ môn, 2 phòng khách, 1 phòng hội đồng, 1 phòng  
truyền thống.
­ Về cơ cấu tổ chức: 
+ Quy mô lớp học: có 30 lớp học (10lớp/1khối) với tổng 1210 học sinh  
(năm học 2017 ­ 2018) trong đó khối 12: 401 em; khối 11: 422 em; khối 10:  
387 em (so với năm học 2016 ­ 2017, số lượng học sinh giảm 30 em là do kết 
quả tuyển sinh đầu vào thấp, không đủ chỉ tiêu tuyển sinh).
+ Về đội ngũ cán bộ giáo viên: Tổng số 70 người trong đó biên chế: 59,  
hợp đồng: 11,   gồm Ban giám hiệu: 2 đồng chí, tổ  Văn phòng: 8 đồng chí  
(biên chế: 4, hợp đồng: 4), giáo viên: 60 đồng chí (biên chế: 53, hợp đồng: 7); 
cán bộ  giáo viên nữ  là 58 chiếm 83% tổng số  cán bộ  giáo viên của toàn  
trường.
Trình độ  đào tạo của cán bộ  giáo viên: 100% đạt chuẩn, có trình độ  từ 
đại học trở lên, trong đó có 6 đồng chí đạt trên chuẩn (có trình độ thạc sĩ). Cụ 
thể:
Môn
Số lượng GV
Trình độ chuẩn
Toán
10
8

6
5
Hóa
5
5
Sinh
3
1

Văn
9
8
Sử
4
4
Địa
3
3
Ngoại ngữ
8
8
GDCD
2
2
GDTC­QP
5
5
Tin học
3
3
Công nghệ
3
3
+ Các tổ chức đảng, đoàn thể: 

Trình độ trên chuẩn
2
1


Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam có 18 đảng viên.
15

2
1


Công đoàn có 70 công đoàn viên
 Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: có 1235 đoàn viên.
Chi đoàn giáo viên: có 35 đoàn viên.
Tổ bộ môn: 6 tổ chuyên môn gồm: Tổ Toán ­ Tin, Tổ Văn, Tổ Anh, Tổ 
Tự nhiên, Tổ Xã hội và Tổ Văn phòng.
2.2. Thực trạng chất lượng, hiệu quả  đội ngũ cán bộ  giáo viên trường 
THPT Đông Tiền Hải ­ huyện Tiền Hải ­ tỉnh Thái Bình trong giai đoạn  
hiện nay.
2.2.1. Việc xây dựng và thực hiện kế  hoạch năm học về  chất lượng đội  
ngũ cán bộ giáo viên và công tác cán bộ.
a. Về công tác chuyên môn
  Thực hiện nghị  quyết của  Đại hội Chi bộ   Đảng nhà trường  (năm 
2015), cùng với đó hằng năm Ban Giám hiệu đã xây dựng kế hoạch năm học 
được triển khai cụ  thể  trong hội nghị  cán bộ  công nhân viên chức đầu năm 
được mọi thành viên trong hội đồng giáo dục nhà trường cùng đóng góp để 
xây dựng kế hoạch hoàn chỉnh.
­ Triển khai thực hiện kế hoạch năm học nghiêm túc, đầy đủ: Ngay từ 
đầu năm học nhà trường đã có kế  hoạch cụ  thể  từng tháng, từng tuần triển 
khai đến từng giáo viên. Trên cơ sở kế hoạch chung của nhà trường từng giáo 
viên  xây  dựng   kế   hoạch  cụ   thể   của  cá  nhân   mình  trong  đó  đề  ra  những  
phương hướng, chỉ tiêu phấn đấu cụ thể.
­ Chi  ủy, Ban giám hiệu luôn đảm bảo truyền đạt đầy đủ, chính xác, 
kịp thời các hướng dẫn công tác của cấp trên tới cán bộ giáo viên, đặc biệt là 

các văn bản mới như Nghị quyết 29 của Bộ chính trị  về  đổi mới căn bản và 
toàn diện giáo dục, chỉ  thị  5555 của Bộ  Giáo dục và đào tạo về  đổi mới  
phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá. Mặt khác, tích cực chỉ đạo mọi hoạt 
động giáo dục của nhà trường theo đúng văn bản pháp quy và hướng dẫn của  
Bộ, kế hoạch của Sở Giáo dục, nhất là trong các kỳ thi.
­ Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên thành một 
tập thể  đoàn kết, có nề  nếp, kỷ  cương, kỷ  luật, tinh thần trách nhiệm cao  
trong công việc. Nhà trường luôn quan tâm đầu tư  bồi dưỡng lực lượng cán 
bộ  giáo viên cốt cán làm nòng cốt thúc đẩy các hoạt động chuyên môn hình  
16


thành lực lượng giáo viên điển hình trong giảng dạy và các hoạt động giáo 
dục khác.
­ Luôn chú trọng nâng cao vai trò của cán bộ tổ, nhóm chuyên môn, thực  
hiện công khai, dân chủ  trong cất nhắc, bổ  nhiệm, quy hoạch và điều động 
nhiệm vụ  cho cán bộ  giáo viên. Tăng cường việc phát huy tính năng động,  
sáng tạo của cán bộ, giáo viên. Xây dựng phong cách làm việc độc lập, khoa  
học, tự chủ trong cán bộ giáo viện. Các tổ, nhóm sinh hoạt chuyên môn đi vào 
chiều sâu, tổ  chức tốt việc thi giáo viên dạy giỏi các cấp. Đẩy mạnh phong  
trào đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá đồng thời cải tiến công  
tác đánh giá giáo viên và học sinh.
­ Quan tâm chăm lo đời sống cán bộ giáo viên, nhân viên, luôn chú ý tới  
chế  độ  chính sách, kiểm tra, đánh giá khen thưởng kịp thời đối với cán bộ 
giáo viên, nhân viên và học sinh đạt những thành tích xuất sắc.
b. Về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
­ Thường xuyên chú trọng tới việc quy hoạch đội ngũ cán bộ giáo viên . 
Nhà trường xác định đúng chủ  trương, phương hướng trong chiến lược xây 
dựng đội ngũ cán bộ  thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  
nước, đồng thời, quán triệt cho cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp  ủy, Ban  

giám hiệu, lãnh đạo các đoàn thể  nắm vững quan điểm, tư  tưởng chỉ  đạo,  
nguyên tắc tiến hành công tác cán bộ. Phổ biến rõ ràng các văn bản quy phạm 
pháp luật về  công tác cán bộ  nói chung và cán bộ  trong ngành giáo dục nói  
riêng, nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức. Chi  ủy Nhà trường luôn đề  cao 
trách nhiệm trong việc tham mưu, đề  xuất, xây dựng kế  hoạch về  công tác  
cán bộ. Nhiều năm qua, nhà trường đã gắn đào tạo với quy hoạch, sử  dụng  
đội ngũ giáo viên bảo đảm nguyên tắc, có hiệu quả, đúng quan điểm của  
Đảng và Bác về  công tác cán bộ  và xây dựng đội ngũ cán bộ  trong thời kỳ 
mới. 
­ Xây dựng và thực hiện đúng quy trình đào tạo gắn với quy hoạch, sử  
dụng đội ngũ giáo viên có số lượng và cơ cấu phù hợp với mục tiêu, yêu cầu  
đào tạo. Để có đội ngũ cán bộ, giáo viên đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu 
cầu nhiệm vụ trước mắt và cơ bản lâu dài, góp phần hoàn thành chỉ tiêu Nghị 
quyết Đại hội đại biêu Chi b
̉
ộ Nhà trường nhiệm kỳ 2015 – 2020. Ban Chi ủy  
17


Nhà trường  xác định rõ các chủ  trương, giải pháp thực hiện quy hoạch đội 
ngũ giáo viên gắn với các khâu trong công tác cán bộ như: đánh giá, sử dụng,  
quản lý, hướng đào tạo, phân định đối tượng đào tạo cơ bản và đối tượng bồi  
dưỡng để  sử  dụng phù hợp với mục tiêu xây dựng đội ngũ giáo viên trong  
tình hình mới. Đồng thời, chỉ đạo Ban giám hiệu đánh giá đúng thực trạng đội 
ngũ; phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường chuẩn bị nhân sự, đề 
xuất nguồn quy hoạch. Thực hiện công khai, dân chủ  trong quy hoạch, sử 
dụng, đề  bạt, bổ  nhiệm cán bộ  và được tiến hành một cách chặt chẽ  từ  chi  
bộ đến Ban thường vụ chi ủy Nhà trường. 
­ Thực hiện tốt việc quản lý, rèn luyện đội ngũ giáo viên và công tác  
chính sách. Nhà trường luôn làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây  

dựng ý thức, trách nhiệm, ý chí phấn đấu vươn lên, tinh thần tích cực, chủ 
động, sáng tạo trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học của cán bộ  giáo viên. 
Đồng thời, duy trì nghiêm nền nếp, kỷ cương; gắn xây dựng chuẩn mực đạo 
đức nhà giáo với việc thực hiện Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong 
thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; đẩy mạnh việc học tập và làm theo  
tư  tưởng, đạo đức, phong cách Hồ  Chí Minh theo Chi thị  05­CT/TW của Bộ 
Chính trị (khóa XII) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng  
Đảng. Mặt khác, kịp thời biểu dương, khen thưởng những giáo viên có thành  
tích trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học; nghiêm khắc phê bình, nhắc nhở 
những giáo viên có biểu hiện thiếu cố  gắng trong học tập, nghiên cứu, chất 
lượng giảng dạy thấp, chấp hành không nghiêm quy chế  chuyên môn. Xây 
dựng sự  đoàn kết, thống nhất cao trong lãnh đạo tạo môi trường sư  phạm 
lành mạnh để mỗi giáo viên rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực sư phạm, 
trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, thường xuyên quan tâm, chăm 
lo đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện tốt các chế  độ, chính sách của Nhà 
nước đối với giáo viên; tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo viên, nhất là  
giáo viên nữ  phấn đấu vươn lên hoàn thành chức trách, nhiệm vụ  trong sự 
nghiệp “trồng người”.
2.2.2. Tình hình và kết quả  đã đạt được của nhà trường và cán bộ  giáo  
viên từ năm 2015 đến tháng 5 năm 2018.

18


a. Thực hiện nghiêm túc quy chế  chuyên môn, xây dựng kỷ  cương nề  nếp  
giảng dạy trong nhà trường
­ Hằng tuần, Ban giám hiệu kết hợp cùng tổ, nhóm chuyên môn tổ chức kiểm 
tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của mỗi giáo viên thông qua Lịch báo 
giảng, sổ  ghi đầu bài, sổ  điểm; kiểm tra hồ  sơ, sổ  sách theo đúng quy định 
một tháng một lần. Lập kế  hoạch dự  giờ  giáo viên trong từng học kỳ, sau  

mỗi tiết dự đều có nhận xét, đánh giá cụ thể.
­ Cuối học kỳ  mỗi giáo viên tự  nhận xét, đánh giá việc thực hiện quy chế 
chuyên môn, kết quả thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.
Tổ  chức việc dạy tốt ­ học tốt, giám sát chặt chẽ, sát sao đồng thời có biện 
pháp kịp thời để  động viên khen ­ chê cán bộ  giáo viên. Tổ  chức bồi dưỡng 
cán bộ giáo viên tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng chuyên đề của Sở, ngành 
tổ chức.
Nhờ thực hiện tốt quy chế chuyên môn nên những năm qua nhà trường 
đạt được kết quả cao trong mọi mặt.
b. Kết quả cụ thể đạt được
     Thành tích đạt 

Danh hiệu 

được                      của 

Chiến sĩ thi 

CBGV

đua cấp cơ 

Năm học

Danh hiệu 

Danh hiệu 

Lao động tiên  Giáo viên giỏi 
tiến


Tỉnh

Danh hiệu 
Giáo viên 
giỏi cấp cơ 

sở

2015­2016
2016­2017
2017­2018

sở

SL

TL

11
15
13

1%
0,7%
0,62%

SL

TL


SL

98,5%
100%
97%

5
6
9

TL

SL

TL

25
28
29

* Thành tích khác
Năm học

2015­2016

Danh hiệu 

Danh 


SKKN đạt 

SKKN đạt  Bồi dưỡng 

trường 

hiệu Tổ

giải cấp 

giải cấp 

Học sinh 

­ Trường tiến 

Tỉnh
­ 5 tổ đạt  11

Cơ sở
25

giỏi
­ Đứng thứ 

tiến xuất sắc.

LĐTT

14/16 trường 


­ Bằng khen 

­ Giấy 

bảng B, 

của Bộ

khen của 

trong đó môn 

19


Lịch sủ, Địa 

Sở

lý, Toán, 
Tiếng Anh 
đạt giải 
khuyến 
khích toàn 
đoàn.
­ Đạt 18/48 
lượt giải cá 
2016­2017


­ Trường tiến 

­ 5 tổ đạt  15

tiến

LĐTT

28

Khuyến 

­ Giấy khen của  ­ Giấy 
Sở

nhân.
 ­ Đạt giải 
khích toàn 

khen của 

đoàn trong 

Sở

đó Môn Toán 
đạt giải 
nhất, môn 
Văn đạt giải 
nhì, môn 

Tiếng Anh 
và môn Lịch 
sử đạt giải 
khuyến 
khích
­ Đạt 25/45 
lượt giải cá 

2017­2018

­ Trường tiến 

­ 4 tổ đạt  13

tiến xuất sắc

LĐTT; 1 

29

nhân.
­ Đứng thứ 
11/16 trường 

­ Giấy khen của  tổ đạt 

bảng B, 

Sở  


LĐTT 

trong đó môn 

xuất sắc

Toán đạt 

­ Giấy 

giải nhì, 
20


khen của 

môn tiếng 

Sở

Anh, Văn 
đạt giải 
khuyến 
khích toàn 
đoàn.
­ Đạt 26/46 
lượt giải cá 

nhân
(Ghi chú: viết tắt cụm từ sáng kiến kinh nghiệm là SKKN, lao động tiên tiến 

là LĐTT trong bảng trên)
* Cán bộ giáo viên trong nguồn quy hoạch từ 2015 ­ 2020
     STT
1

Chức danh Hiệu trưởng

Chức danh Phó Hiệu 

Nguyễn Thị Hường ­ PHT

trưởng
Trần Anh Tuân ­ Bí thư 
Đoàn
Trần Thị Hường ­ Tổ 

2

trưởng CM
* Cán bộ giáo viên trong nguồn quy hoạch từ 2020 ­ 2025
     STT
1
2

Chức danh Hiệu trưởng

Chức danh Phó Hiệu 

Nguyễn Thị Hường ­ PHT


trưởng
Trần Anh Tuân ­ Bí thư 

Trần Anh Tuân ­ Bí thư Đoàn

Đoàn
Trần Thị Hường ­ Tổ 

3

trưởng CM
Trịnh Quang Hợp ­ Tổ 

4

trưởng CM
Trần Minh Đạt ­ Bí thư 
Chi đoàn GV

2.2.3. Đánh giá những  ưu điểm nổi bật và hạn chế  của đội ngũ cán bộ  
giáo viên 
a. Ưu điểm

21


­ Giáo viên của nhà trường có nề  nếp làm việc nghiêm túc, khoa học, có tinh  
thần trách nhiệm và ý thức tổ  chức kỷ  luật cao trong công việc, nhiệm vụ 
được giao. Luôn ý thức cao trong việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình  
độ chuyên môn, nghiệp vụ.

­ Đội ngũ giáo viên đều thực hiện nghiêm túc quy chế  chuyên môn của nhà 
trường, tổ, nhóm bộ môn. Nghiêm chỉnh trong soạn giảng, bám sát phân phối 
chương trình của Bộ để tự chủ trong dạy và học đạt kết quả cao.
­ Thực hiện tốt và bước đầu đem lại hiệu quả cao trong việc đổi mới phương  
pháp dạy học, kiểm tra đánh giá tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện giáo 
dục. 100% các giáo viên đều ý thức và nỗ lực trong đổi mới phương pháp dạy  
học, đặc biệt việc vận dụng các phương tiện, kỹ thuật dạy học hiện đại để 
phát huy tính tích cực của học sinh như  dạy bằng bài giảng Powerpoint, E ­  
learning, bảng biểu đồ, mô hình, thiết bị thí nghiệm…
­ Các tổ, nhóm chuyên môn duy trì sinh hoạt, trao đổi chuyên môn đều đặn  
theo định kỳ, đi sâu vào sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, 
theo chuyên đề để có hiệu quả cao.
­ Tập thể giáo viên đoàn kết, gắn bó với nhà trường, có lối sống giản dị, chan 
hòa, gần dân, có tinh thần tập thể, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt các cuộc  
vận động "Hai không", "Dân chủ  ­ Kỷ  cương ­ Tình thương ­ Trách nhiệm",  
"Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", "Mỗi thầy, cô giáo là 
một tấm gương đạo đức tự  học và sáng tạo", đặc biệt là cuộc vận động  
"Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh".
­ Nhiều thầy, cô giáo có bề  dày kinh nghiệm, kinh qua nhiều cương vị công  
tác, vững vàng về  chuyên môn. Nhiều giáo viên có thành tích cao trong dạy  
mũi nhọn và bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường.
­ Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm tận tâm, nhiệt tình trong công tác quản lý, giáo 
dục đạo đức, pháp luật cho học sinh, đặc biệt trong công tác giáo dục học 
sinh yếu, kém, động viên các em tới trường. Đội ngũ giáo viên bộ  môn kết  
hợp chặt chẽ  với giáo viên chủ  nhiệm trong việc giáo dục học sinh. Chú 
trọng kèm cặp những học sinh yếu, kém, lười học để  các em vươn lên trong  
học tập và nâng cao ý thức kỷ luật.
b. Hạn chế
22



Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nêu trên, nhưng nhìn chung vẫn 
còn những hạn chế sau:
Chất lượng giáo dục nói chung  ở  mức trung bình của tỉnh nhà. Chất 
lượng học sinh giỏi tỉnh còn hạn chế. Hiệu quả giáo dục chưa cao ở  một số 
mặt như  hạn chế  về  kỹ  năng thực hành, phương pháp tư  duy khoa học, các 
hoạt động tập thể  còn đơn điệu chưa lôi cuốn học sinh, một số  hoạt động 
còn mang tính hình thức, chạy theo phong trào. Điểm tuyển sinh đầu vào thấp 
chưa được cải thiện.
Đội ngũ nhà giáo đủ  về  cơ  cấu nhưng vẫn thiếu  ở  một số  môn, tỷ  lệ 
giáo viên hợp đồng còn cao có phần ảnh hưởng đến chất lượng.
Phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá, một bộ 
phận nhỏ  giáo viên còn chưa thích  ứng với đổi mới phương pháp dạy học,  
kiểm tra đánh giá. Một số cán bộ, giáo viên nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn 
về  công tác giáo dục "dạy chữ" và "dạy người".  Ứng dụng công nghệ  thông  
tin trong dạy học ở một số giáo viên chưa tích cực. Việc viết và áp dụng sáng 
kiến kinh nghiệm trong dạy học còn hạn chế.
­ Về  công tác quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên chức:  
đã ban hành các quy chế, quy định trong cơ quan song chưa thực sự đồng bộ,  
chặt chẽ. Việc phân công nhiệm vụ  cho từng cán bộ  giáo viên đã rất cụ  thể 
song việc kiểm tra, giám sát thực hiện còn hạn chế. 
­ Cơ  sở  vật chất hiện nay đang xuống cấp, trang bị  phục vụ  cho dạy  
học theo hướng hiện đại còn thiếu.
­  Hoạt động của các đoàn thể  chưa thật sự  phát huy được hiệu quả.  
Đặc biệt, công tác của chi đoàn giáo viên, công đoàn hầu như  chỉ  mang tính 
hình thức, chưa đi sâu vào nội dung.
­ Việc thuyên chuyển giáo viên quá nhiều và thường xuyên hằng năm 
cũng ảnh hưởng nhiều tới chất lượng đội ngũ, cụ  thể những giáo viên được  
rèn luyện, trưởng thành có ít nhiều kinh nghiệm giảng dạy và năng lực sư 
phạm lần lượt xin chuyển về  gần nhà hoặc thậm chí xin nghỉ  việc: Năm  

2015 ­ 2016: 4 đồng chí chuyển trường; năm 2016­ 2017: 6 đồng chí chuyển  
công tác (2 xin nghỉ việc).
2.3. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm
23


2.3.1. Nguyên nhân tồn tại:
­ Việc kiểm tra giám sát còn nhiều hạn chế việc sơ kết, tổng kết, nhân 
rộng điển hình tiên tiến, khích lệ khen thưởng chưa kịp thời.
­ Ban Chi  ủy chưa có chủ  trương lâu dài về  đầu tư  cơ  sở  vật chất nhà 
trường. 
­ Trường chỉ  có một đồng chí Hiệu phó phụ  trách về  chuyên môn lại  
kiêm phụ trách cơ sở vật chất do vậy trong quá trình thực hiện công việc còn  
chồng chéo thiếu đồng bộ.
­ Do sự phân công chưa thật sự hợp lý, các đồng chí lãnh đạo tổ chuyên 
môn đều làm công tác kiêm nhiệm, được đồng nghiệp tín nhiệm nên gánh vác 
nhiều công việc phần nào khó khăn trong hoạt động, một số đồng chí nhà xa,  
con còn nhỏ vì vậy sự nhiệt tình, tâm huyết với công việc được giao còn hạn 
chế.
­  Số   đảng viên trong Chi bộ  không nhiều (18/70) nên chưa  thật sự 
mạnh.
­  Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên đa phần còn trẻ, chưa có nhiều 
kinh nghiệm trong công tác lại chủ yếu ở xa trường, con còn nhỏ do đó ít nhiều  
ảnh hưởng đến công việc được giao.
­ Các điều kiện phục vụ  dạy học thiếu, chưa đủ  điều kiện cần thiết 
cho việc thực hành của học sinh, chứng minh chất lượng của giáo viên, nhất là 
đối với công cuộc đổi mới phương pháp hiện nay.
­ Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, một bộ phận cha mẹ học sinh  
chưa quan tâm đến con cái.  Đời sống của một bộ  phận cán bộ  giáo viên còn 
thấp, chủ yếu phụ thuộc vào lương cơ bản.

2.3.2. Một số kinh nghiệm 
Dưới sự  lãnh đạo, chỉ  đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ  ban  
Nhân dân tỉnh Thái Bình mà trực tiếp là Sở  GD­ĐT Thái Bình trong những 
năm qua việc nâng cao chất lượng cán bộ  giáo viên  ở  trường THPT Đông 
Tiền Hải ­ huyện Tiền Hải ­ tỉnh Thái Bình có được kết quả  đáng ghi nhận. 
Kết quả  đó cũng là nhờ  sự  nỗ  lực cố  gắng của toàn thể  cán bộ, đảng viên,  
đội ngũ giáo viên, công nhân viên nhà trường. Tổng kết công tác nâng cao chất 
24


lượng đội ngũ cán bộ giáo viên trong những năm qua của nhà trường, tác giả 
rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu:
Một là: Phải thường xuyên xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất 
trong chi bộ Đảng, nắm vững các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, 
pháp luật của nhà nước, vận dụng đúng đắn tư tưởng, tấm gương đạo đức và 
phong cách Hồ  Chí Minh để đề  ra mục tiêu, giải pháp cho phù hợp với điều 
kiện  của nhà trường.
­ Hai là: Đội ngũ cán bộ  chủ  chốt phải tự  học tập, rèn luyện và nâng  
cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề…
­ Ba là: Khi triển khai chỉ thị, nghị quyết cần gắn với thực tế, theo dõi, 
kiểm tra, đôn đốc, khuyến khích và giúp đỡ  quần chúng thực hiện. Sơ  kết,  
tổng kết, tuyên dương, nhân rộng những điển hình tiên tiến, khích lệ  khen 
thưởng kịp thời.
­ Bốn là: trong hoạt động quản lý cần có những chủ  trương biện pháp 
thích hợp để  quản lý cán bộ, giáo viên, công nhân viên, có động viên, khen  
thưởng và có phê bình kỷ  luật để  từ  đó khuyến khích cán bộ, nhân viên tích 
cực trong công tác cũng như trong mọi hoạt động phong trào của nhà trường. 
­ Năm là: Công tác thông tin, tuyên truyền vận động các đoàn thể, các tổ 
chức xã hội quan tâm đến giáo dục, tạo thêm động lực mới cho giáo dục và 
kịp thời chăm lo, quan tâm tới đời sống cán bộ giáo viên, nhân viên.

­ Sáu là: Nhà trường phải nâng cao chất lượng dạy học, tạo được niềm 
tin cho nhân dân địa phương, trong cha mẹ học sinh đồng thời là động lực để 
thu hút được cán bộ giáo viên ưu tú ngày càng gắn bó và tận tâm với công tác 
giáo dục của nhà trường.
­  Bảy là: Chọn những cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất tốt,  
nhiệt tình để  làm nòng cốt trong  đổi mới giáo dục, tập hợp đội ngũ cán bộ 
giáo viên trong tình hình mới thực sự  phải dựa vào cán bộ  cốt cán để  xây  
dựng Chi bộ đảng, trong sạch, vững mạnh.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI 
NGŨ CÁN BỘ GIÁO VIÊN VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG GIAI 
ĐOẠN HIỆN NAY TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔNG TIỀN HẢI.
25


×