Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm tế bào haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.39 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM TẾ BÀO HALLER Ở BỆNH NHÂN VIÊM XOANG HÀM
Phạm Bắc Trung*, Lâm Huyền Trân**

TÓM TẮT
Mở đầu: Tế bào sàng dưới ổ mắt (tế bào Haller) là sự khí hóa tế bào sàng dọc theo trần của xương hàm. Sự
phát triển quá mức tế bào Haller làm thay đổi cấu trúc giải phẩu phức hợp lỗ thông xoang và có thể là nguyên
nhân gây viêm mũi xoang.
Mục tiêu: Đặc điểm tế bào Haller ở bệnh nhân viêm xoang hàm.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: Qua khảo sát 500 xoang hàm (250 bệnh nhân) chúng tôi nhận thấy: Tế bào Haller chiếm 38,8%
trong nhóm nghiên cứu và có hình bầu dục. Trong đó đa số có kích thước trung bình (3mm –6mm) và lớn
(>6mm). Phần lớn tế bào Haller xuất hiện ở cả hai bên thỉnh thoảng có 2 hoặc 3 tế bào Haller cùng một bên. Tế
bào có kích thước trung bình (3mm - 6mm) và kích thước lớn (> 6mm) ở vị trí 1/3 trong và 1/3 giữa chiếm tỷ lệ
cao hơn so với 1/3 ngoài (P<0,05). Tỷ lệ viêm xoang hàm ở bệnh nhân có tế bào Haller chiếm 71,6%. Tế bào Haller
bị viêm thì khả năng bị viêm xoang hàm cao gấp 9,66 lần so với không có tế bào Haller hoặc tế bào Haller không bị
viêm (P<0,05).
Kết luận: Trường hợp tế bào Haller bị viêm thì có liên quan đến viêm xoang hàm.
Từ khóa: tế bào Haller, viêm xoang hàm

ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF HALLER CELLS IN MAXILLARY SINUSITIS PATIENTS
Pham Bac Trung, Lam Huyen Tran
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 169 - 173
Introduction: Haller’s cell is an ethnocide cell that pneumotises along the roof of maxillary sinus. The
overpneumatised patterns of Haller’s cell are suspected as a cause of sinusitis.
Objective: Characteristics of haller cells in maxillary sinusitis patients.
Method: Cross-sectional descriptive study.


Results: We analyzed 500 maxillary sinuses (250 patients) and discovered that Haller’s cells occupied
38.8%. Their shape was oval. Most of their diameters were average (3mm-6mm) and over 6 mm. Most of the
samples had bilateral Haller’s cells. Sometimes, there were 2 or 3 ipsilateral Haller’s cells. The Haller’s cells
which had the diameters of 3mm-6mm and over 6 mm, locating in the middle and inner third, were found
more than the ones in the outer third (p<0.05). The incidence of maxillary sinusitis was 9.66 times higher in
the group which had inflammatory Haller’s cells (p<0.05).
Conclusions: There is a relationship between inflammatory Haller’s cells and maxillary sinusitis.
Keywords: Haller cell, Maxillary sinusitis
* Họcviêncaohọckhóa 2015-2017, ĐHYD TP. HCM, ** Bộ môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Dược Tp HCM
Tác giả liên lạc: PGS TS Lâm Huyền Trân, ĐT: 0913120599. Email:

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

169


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018

ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm mũi xoang là một trong những bệnh lý
thường gặp nhất trong chuyên ngành tai mũi
họng. Viêm mũi xoang không chỉ có các triệu
chứng trực tiếp liên quan đến mũi xoang mà còn
tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống như
hành vi, cảm giác đau, mất sức, ảnh hưởng hoạt
động thể lực và công tác xã hội(2).
Theo các giả thuyết thì sự tắc nghẽn sự dẫn
lưu xoang là một trong những yếu tố gây nên

tình trạng viêm mũi xoang. Sự thay đổi cấu trúc
giải phẩu trong hốc mũi ở những vị trí phức hợp
lỗ thông xoang có thể dẫn đến sự tắc nghẽn sự
dẫn lưu xoang từ đó dẫn đến tình trạng nhiễm
trùng tại chỗ và viêm mũi xoang.
Tế bào sàng dưới ổ mắt (tế bào Haller) là
sự khí hóa tế bào sàng dọc theo trần của
xương hàm. Khi phát triển nó nằm dưới sàng
ổ mắt, dính vào trần xoang hàm và tạo nên
thành ngoài phễu sàng. Sự phát triển quá mức
tế bào Haller làm thay đổi cấu trúc giải phẩu
phức hợp lỗ thông xoang và có thể là nguyên
nhân gây viêm mũi xoang. Vì nó có thể làm
hẹp phểu sàng và cản trở đường lưu thông của
xoang hàm vào ngách mũi giữa gây nên viêm
xoang hàm – sàng trước(3,4).

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Từ 18 tuổi trở lên, không mắc các bệnh ung
thư vùng Tai Mũi Họng và cổ mặt, không có tiền
sử phẫu thuật vùng mũi xoang.
Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu theo phương pháp cắt
ngang, mô tả có phân tích 500 xoang hàm trên
phim CT Scan (250 bệnh nhân). Bệnh nhân được
thăm khám lâm sàng, nội soi mũi xoang và chụp
CT Scan mũi xoang. Chúng tôi ghi nhận các dữ
kiện sau: Xác định có sự hiện diện của tế bào
Haller hay không đồng thời đo lường kích
thước, vị trí, hình dạng và xác định tế bào Haller

có bị viêm hay không. Xác định xoang hàm có bị
viêm hay không, xác định sự thông thoáng hay
bít tắt của lỗ thông xoang hàm.

Cỡ mẫu
250 ca.

trên thế giới nhưng ở Việt Nam thì còn ít tài liệu

Phương pháp đánh giá
Phân loại tế bào Haller qua CT Scan: Chúng
tôi đo kích thước tế bào Haller theo phương
ngang và chia làm 3 mức độ: độ 1 tế bào Haller
nhỏ hơn 3mm, độ 2 tế bào Haller có kích thước
từ 3mm – 6mm, độ 3 tế bào Haller có kích thước
lớn hơn 6mm. Về vị trí tế bào Haller so với ổ
mắt, chúng tôi chia làm 3 mức độ: Tế bào Haller
đến 1/3 trong ổ mắt, tế bào Haller đến 1/3 giữa ổ
mắt và tế bào Haller đến 1/3 ngoài ổ mắt, Xác
định tế bào Haller có bị viêm hay không dựa vào
độ dày niêm mạc của chúng qua phim CT Scan.

nghiên cứu về mối liên hệ này. Vì vậy, chúng tôi

KẾT QUẢ

thực hiện đề tài “Đặc điểm tế bào Haller ở bệnh

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU


Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ cao
hơn ở bệnh nhân nam với tỷ lệ bệnh nhân Nam
là 36,4% và Nữ là 63,6%, với độ tuổi trung bình
là 46,06 ± 15,7 và lý do vào viện thường gặp nhất
là nhức đầu 42,8% và chảy mũi 31,2%. Phân tích
500 xoang hàm (250 bệnh nhân) tỷ lệ xoang hàm
viêm chiếm tỷ lệ cao 71,2%.

Đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm tế bào Haller

Các bệnh nhân đến khám tại phòng khám
Tai Mũi Họng bệnh viện Nguyễn Tri Phương
với các triệu trứng của viêm mũi xoang.

Khảo sát 500 xoang hàm (250 bệnh nhân)
chúng tôi nhận thấy có 306 xoang không có tế
bào Haller chiếm 61,2% và 194 xoang có tế bào

Đặc điểm giữa tế bào Haller và viêm mũi
xoang đã được nghiên cứu ở một số quốc gia

nhân viêm xoang hàm”.
Mục tiêu nghiên cứu
Đặc điểm tế bào Haller ở bệnh nhân viêm
xoang hàm.

170


Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Haller chiếm 38,8%. Hình dạng tế bào Haller
chúng tôi quan sát được trên phim CT Scan có
hình dạng hình bầu dục. Trong đó tế bào Haller
bị viêm có 81 trường hợp chiếm 41,8%. Về kích
thước tế bào Haller chúng tôi nhận thấy đa số có
kích thước lớn (>6mm) 43,8% và trung bình
(3mm – 6mm) 51,5%. Về số lượng tế bào Haller
chúng tôi nhận thấy có 172 trường hợp có một tế
bào Haller chiếm 88,7%, có 17 trường hợp có hai
tế bào Haller chiếm 8,8%, chỉ có 5 trường hợp có
ba tế bào Haller chiếm 2,6%. Về vị trí và kích
thước: chúng tôi nhận thấy tế bào Haller có kích
thước trung bình (3-6mm) và kích thước lớn
(>6mm) ở vị trí 1/3 trong và 1/3 giữa chiếm tỉ lệ

Nghiên cứu Y học

cao hơn so với 1/3 ngoài. Sự khác biệt này không
2

có ý nghĩa thống kê (  =4.95, P = 0.292 > 0.05).
Tần suất viêm xoang hàm ở bệnh nhân có tế
bào Haller
Chúng tôi nhận thấy trong 194 trường hợp
có tế bào Haller thì viêm xoang hàm chiếm tỷ
lệ khá cao 139 trường hợp chiếm 71,6%. Trong

khi tỷ lệ không viêm xoang hàm chỉ 55 trường
hợp chiếm 28,4%. Mặc khác trong 306 trường
hợp không có tế bào Haller thì tỷ lệ viêm
xoang hàm có 217 trường hợp chiếm 70,9%.
Trong khi tỷ lệ không viêm xoang hàm chỉ 89
trường hợp chiếm 29,1%.

Biểu đồ 1. Tỷ lệ viêm xoang hàm ở nhóm có và không có tế bào Haller
(0,11 – 10,71) so với vị trí 1/3 trong nhưng sự
Mối tương quan giữa tế bào Haller bị viêm với
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê P > 0,05.
viêm xoang hàm
Bảng 1. Liên quan giữa tình trạng tế bào Haller bị
với viêm xoang hàm.
Viêm xoang hàm
Không

OR
(KTC
95%)

P

Có 77 (95,1%) 4 (4,9%)
Tế bào
Haller bị
279
140
Không
viêm

(66,6%)
(33,4%)

9.66
(3.46 26.93)

<0.05

Đặc điểm



Chúng tôi nhận thấy tế bào Haller bị viêm
thì khả năng bị viêm xoang hàm cao gấp 9,66 lần,
KTC 3.46 - 26.93. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê P < 0.05.
Mối tương quan giữa vị trí tế bào Haller và tắc
lỗ thông xoang hàm
Trong những xoang hàm viêm có tắc lỗ
thông xoang thì tỉ lệ xuất hiện tế bào Haller ở 1/3
giữa bằng 1,53 (0,78 – 3,02) và 1/3 ngoài bằng 1,08

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

Bảng 2. Liên quan giữa vị trí tế bào Haller với tắc lỗ
thông xoang hàm.
Tắc lỗ thông xoang OR (KTC
P
95%)


Không
1/3
31
100
1
trong (23,7%) (76,3%)
Vị trí tế
19
1,53 (0,78 –
bào 1/3 giữa
40 (67,8%)
0,22
(32,2%)
3,02)
Haller
1/3
1,08 (0,11 –
1 (25%) 3 (75%)
0,95
ngoài
10,71)
Đặc điểm

Mối tương quan giữa tần suất xuất hiện tế bào
Haller và tắc lỗ thông xoang hàm
Trên những xoang xuất hiện tế bào Haller
thì tắc lỗ thông xoang hàm chỉ bằng 0,71 (0,48
– 1,06) so với không có tế bào Haller và sự
khác biệt này không có ý nghĩa thông kê P =
0,096 > 0,05.


171


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

Bảng 3. Liên quan giữa vị trí tế bào Haller với tắc lỗ
thông xoang hàm.
Tắc lỗ thông xoang OR (KTC
95%)

Không

Đặc điểm

Tế bào
Haller



51 (33,3%)

143
(66,7%)

Không

102

(26,3%)

204
(73,7%)

P

0,71 (0,48
0,096
– 1,06)

BÀN LUẬN
Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ cao
hơn ở bệnh nhân nam với tỷ lệ bệnh nhân Nam
là 36,4% và Nữ là 63,6%. Tỷ lệ bệnh nhân nữ cao
hơn nam có thể do giới nữ quan tâm đến bệnh
tật nhiều hơn nam (triệu chứng đau đầu cũng là
một yếu tố thường gặp ở nữ giới quan tâm).
Về tỷ lệ xuất hiện tế bào Haller kết quả của
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Stackpole,
Cao Thị Hoàng Vân[1, 6]. Tuy nhiên có một số
kết quả nghiên cứu khác cho kết quả thấp hơn
như tác giả Wani, Raina hoặc cao hơn như tác
giả Võ Hiếu Bình(5,7,8).
Bảng 4. So sánh tỷ lệ tế bào Haller.
Tác giả
(6)

Stackpole và CS
(7)

Võ Hiếu Bình
(8)
Wani, Asif A. và CS
(1)
Cao Thị Hoàng Vân
(5)
Raina, A. và CS
Chúng tôi

Năm
nghiên
cứu
1997
2007
2009
2011
2012
2017

Mẫu
Quốc gia nghiên Tần suất
cứu
Mỹ
N = 154 34,4%
Việt Nam N = 200 56%
Ấn Độ N = 150 8,66%
Việt Nam N = 250 33,2%
Anh
N = 600 16%
Việt Nam N = 250 38,8%


Về kích thước của tế bào Haller:Chúng tôi
nhận thấy tế bào Haller có kích thước lớn
(>6mm) và trung bình (3-6mm) chiếm tỷ lệ cao
hơn so với tế bào Haller có kích thước nhỏ
(<3mm). Cụ thể kích thước lớn có 85 trường hợp,
trung bình có 100 trường hợp, nhỏ có 9 trường
hợp. Điều này có nghĩa nếu hiện diện tế bào
Haller thì đa số tế bào Haller có kích thước trung
bình hoặc lớn hay gặp ở Việt Nam. Với kết quả
tác giả Stackpole(6) thì tế bào Haller có kích thước
lớn có 17 trường hợp, trung bình có 31 trường
hợp và nhỏ có 38 trường hợp. Có một số tác giả
cho kết quả kích thước tế bào Haller cụ thể như

172

Võ Hiếu Bình đo kích thước tế bào có kích thước
trung bình là 6,5mm với N = 200, Cao Thị Hoàng
Vân đo tế bào tế bào Haller có kích thước trung
bình là 8,1mm với N = 250(1,7).
Về số lượng tế bào Haller: Chúng tôi nhận
thấy có 172 trường hợp có một tế bào Haller
chiếm 88,7%, có 17 trường hợp có hai tế bào
Haller chiếm 8,8%, chỉ có 5 trường hợp có ba
tế bào Haller chiếm 2,6%. Điều này có nghĩa
nếu có tế bào Haller thì có một tế bào Haller
chiếm tỷ lệ cao.
Về vị trí chúng tôi gặp nhiều nhất là ở 1/3
trong với 131 trường hợp, 1/3 giữa là 59 trường

hợp và 1/3 ngoài chỉ có 4 trường hợp. Tế bào
Haller có kích thước trung bình (3mm - 6mm) và
kích thước lớn (> 6mm) ở vị trí 1/3 trong và 1/3
giữa chiếm tỉ lệ cao hơn so với 1/3 ngoài. Sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê (2= 4.95, P =
0.292 > 0.05).
Tần suất viêm xoang hàm ở bệnh nhân có tế
bào Haller
Chúng tôi nhận thấy trong 194 trường hợp
có tế bào Haller thì viêm xoang hàm chiếm tỷ
lệ khá cao 139 trường hợp chiếm 71,6%. Trong
khi tỷ lệ không viêm xoang hàm chỉ 55 trường
hợp chiếm 28,4%. Kết quả của chúng tôi cao
hơn nghiên cứu của Stackpole là 47,4%. Trong
306 trường hợp không có tế bào Haller thì tỷ lệ
viêm xoang hàm có 217 trường hợp chiếm
70,9%(6). Trong khi tỷ lệ không viêm xoang
hàm chỉ 89 trường hợp chiếm 29,1%. Kết quả
này cũng tương đương với đặc điểm của
nhóm có tế bào Haller.
Mối tương quan giữa tế bào Haller bị viêm với
viêm xoang hàm
Chúng tôi nhận thấy tế bào Haller bị viêm
thì khả năng bị viêm xoang hàm cao gấp 9,66 lần,
KTC 3.46 - 26.93 so với không có tế bào Haller
hoặc tế bào Haller không bị viêm. Như vậy khi
tế bào Haller bị viêm thì khả năng viêm xoang
hàm cao hơn so với không có tế bào Haller hoặc
tế bào Haller không viêm.


Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

Mối tương quan giữa vị trí tế bào Haller và tắc
lỗ thông xoang hàm

trường hợp tế bào Haller bị viêm thì có liên quan
đến viêm xoang hàm.

Trong những xoang hàm viêm có tắc lỗ
thông xoang thì tỉ lệ xuất hiện tế bào Haller ở 1/3
giữa bằng 1,53 (0,78 – 3,02) và 1/3 ngoài bằng 1,08
(0,11 – 10,71) so với vị trí 1/3 trong nhưng sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê P > 0,05.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trong những xoang xuất hiện tế bào Haller
thì tắc lỗ thông xoang hàm chỉ bằng 0,71 (0,48 –
1,06) so với không có tế bào Haller và sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê P > 0,05. Với
kết quả nêu trên, chúng ta thấy rằng về tổng thể
thì tế bào Haller không ảnh hưởng gì đến sự tắc
nghẽn lỗ thông xoang hàm.

3.


KẾT LUẬN
Về lâm sàng và nội soi mũi xoang chúng ta
không thể đánh giá được có sự hiện diện của tế
bào Haller hay không. CT Scan giúp ta đánh giá
chính xác sự hiện diện của tế bào Haller cũng
như xác định được các đặc điểm của tế bào
Haller như: vị trí, kích thước, số lượng, tình
trạng tế bào Haller bị viêm và hình dạng tế bào
Haller.Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan
giữa tế bào Haller và viêm xoang hàm. Chỉ có

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

1.

2.

4.

5.

6.
7.

8.

Cao Thị Hoàng Vân (2011). Khảo sát sự liên quan giữa tế bào
Haller và viêm xoang mạn tính. Luận văn Thạc sĩ Y học. ĐH Y
dược Tp HCM.

Huỳnh Khắc Cường, Đặng Xuân Hùng (2016). Viêm mũi
xoang. NXB Y học, Hà Nội.
Huỳnh Khắc Cường, Nguyễn Đình Bảng, Nguyễn Ngọc
Minh, Trần Cao Khoát (2006). Cập nhật chẩn đoán và điều trị
bệnh lý mũi xoang. NXB Y học, Tp HCM.
Nguyễn Hữu Khôi, Phạm Kiên Hữu, Nguyễn Hoàng Nam
(2005). Phẫu thuật nội soi mũi xoang kèm Atlas minh họa. NXB
ĐH Quốc Gia, Tp. HCM.
Raina A, Guledgud MV, Patil K (2012). Infraorbital ethmoid
(Haller's) cells: a panoramic radiographic study.
Dentomaxillofac Radiol, 41(4:305-8.
Stackpole SA, Edelstein DR (1997). The anatomic relevance of
the Haller cell in sinusitis. Am J Rhinol, 11(3):219-23.
Võ Hiếu Bình (2007). Hình dạng - vị trí - kích thước tế bào
Haller và xương giấy trong phẩu thuật nội soi mũi xoang
nhằm tránh mổ vào hốc mắt. Y Học Tp. Hồ Chí Minh, 11(1):120
-4.
Wani AA, Kanotra S, Lateef M, Ahmad R, Qazi SM, Ahmad S
(2009). CT scan evaluation of the anatomical variations of the
ostiomeatal complex. Indian J Otolaryngol Head Neck Surg,
61(3): 163-8.

Ngày nhận bài báo:

11/09/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

02/11/2017


Ngày bài báo được đăng:

28/02/2018

173



×