PHẦN 1: GIỚI THIỆU CHUNG
LỜI NÓI ĐẦU
Trong hoạt động quản lý nhà nước, một bối cảnh đặc biệt của giao tiếp
xã hội, khi các chủ thể giao tiếp có những thuộc tính giao ước xã hội khác nhau,
việc áp dụng một cách hợp lý và thuần thục những cơ cấu nghi thức tương thích
là tiền đề quan trọng để đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Nhà nước là một
thiết chế tổ chức có cơ cấu phức tạp với chức năng quản lý đời sống cộng
đồng của các tầng lớp dân cư trên địa bàn lãnh thổ nhất định. Để thực hiện các
quyết định quản lý của mình, nhà nước áp dụng các biện pháp mang tính quyền
lực nhà nước như thuyết phục, kỷ luật, cưỡng chế… tính quyền lực này
được thể hiện bằng những phương tiện mang tính hình thức thuộc phạm trù
nghi lễ như cách bày trí công sở, trang phục, nghi thức lễ tân… Những nghi
thức, thủ tục mang tính lễ nghi là một bộ phận quan trọng không kém gì những
quy định nêu trong những đạo luật. Nó trở thành điều cốt lõi để đạt được thành
công trong giao tiếp với cá nước trên thế thới cũng như làm việc của các cơ
quan nhà nước.Nghi thức nhà nước nói chung được quy định tại các văn bản
pháp luật của nhà nước, theo tập quán truyền thống dân tộc hoặc quốc tế mà
các bên tham gia quan hệ thủ tục quản lý nhà nước phải tuân thủ hoặc thực
hiện nghiêm chỉnh đảm bảo một nền thể chế chính trị phát triển theo hướng
hiện đại, hoạt động hiệu quả và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ hợp tác quốc tế giữa
nước ta và các nước trên thế giới ngày càng mở rộng và phát triển. Các mối
quan hệ hợp tác này đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế, chính trị và
xã hội của đất nước, góp phần giữ vững ổn định an ninh, hòa bình trong khu vực
và trên thế giới. Hàng năm, chính phủ và các đơn vị địa phương đã đón tiếp hàng
trăm ngàn đoàn khách quốc tế vào làm việc tại Việt Nam, cả lãnh đạo cấp cao
cho đến lãnh đạo các ngành và địa phương, cũng như cử hàng trăm ngàn lượt cán
bộ, chiến sỹ đi thăm, làm việc và học tập tại các nước; tổ chức Hàng trăm hội
thảo, hội nghị và các khóa tập huấn quốc tế nhằm tăng cường sự hợp tác quốc
tế và nâng cao năng lực công tác trong các lĩnh vực liên quan cho cán bộ, công
chức…Để đạt hiệu quả tối đa trong mọi hoạt động hợp tác như chia sẻ
thông tin, kinh nghiệm, đào tạo, tập huấn thống nhất kế hoạch hợp tác và
chương trình hoạt động chung, giao lưu văn hóa, thể thao… đòi hỏi các cán bộ,
công chức phải hiểu rõ công tác về nghi thức Nhà Nước. Nghi thức Nhà Nước
không những thể hiện chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước
mà còn thể hiện những nét văn minh và bản sắc văn hóa của một dân tộc. Thực
hiện tốt nghi thức Nhà Nước là góp phần quan trọng vào sự thành công của
công tác đối ngoại và ngược lại, nếu xảy ra sai sót sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả của công tác đối ngoại, thậm chí có thể gây căng thẳng cho quan hệ
ngoại giao.Từ lý luận và thực tiễn đều cho thấy vai trò to lớn, mang tính quyết
định của Nghi thức nhà nước trong nền kinh tếxã hội đang hội nhập và phát
triển từng giờ.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu sự phát triển của nghi thức Nhà Nước, các đặc
điểm và các văn bản quy định việc thực hiện nghi thức đồng thời đánh giá được
những ưu và nhược điểm việc vận dụng Nghi thức Nhà Nước.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các nội dung, những vấn đề cơ bản
nhất liên quan đến Nghi thức nhà nước trong việc tổ chức, điều điều hành công
việc tại cơ quan Nhà Nước và cơ quan công sở. Qúa trình phát triển qua các thời
kỳ.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: đề tài tiến hành nghiên cứu Nghi thức Nhà Nước nói
chung.
Đề tài: Tìm hiểu về lịch sử phát triển và đặc điểm của nghi thức Nhà Nước, hệ
thống hóa các văn bản quy định về nghi thức Nhà Nước từ 1945 đến nay và đưa
ra nhận xét.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, lịch sử của Chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và
vì nhân dân…. Và bốn phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp lịch sử;
phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp so sánh; phương pháp tổng
hợp. Thông qua các phương pháp lịch sử; phương pháp duy vật biện
chứng; phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp nhằm tổng hợp và so sánh.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và lời kết. Đề tài gồm có 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về Nghi thức Nhà Nước
Chương 2. lịch sử phát triển và đặc điểm của nghi thức Nhà Nước, hệ thống
hóa các văn bản quy định về nghi thức Nhà Nước từ 1945 đến nay.Nhận xét.
Chương 3. Giải pháp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHI THỨC NHÀ NƯỚC
1. KHÁI NIỆM NGHI THỨC NHÀ NƯỚC
1.1. Định nghĩa
Giao tiếp là hoạt động quan trọng trong đời sống xã hội, là nền tảng quan
trọng để xây dựng nên xã hội. Nền văn minh nhân loại, nền văn hoá của mỗi
dân tộc, quốc gia được kiến tạo thông qua hoạt động giao tiếp. Hoạt động giao
tiếp được thực hiện nhằm trao đổi thông tin, nhận thức, tư tưởng, tình cảm, để
bày tỏ mối quan hệ, cách ứng xử, thái độ giữa con người với con người và giữa
nhân loại với tự nhiên.
Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng các phương tiện ngôn
ngữ và phi ngôn ngữ. Nhưng dù được thực hiện bởi phương thức nào đi nữa,
hoạt động giao tiếp luôn luôn phải được đặt trong những bối cảnh nhất định,
được thực hiện bởi những cơ cấu nghi thức nhất định trong việc sử dụng các
phương tiện giao tiếp tương ứng nhằm đạt tới mục tiêu đặt ra.
Hoạt động quản lý nhà nước cũng không nằm ngoài những yêu cầu về giao
tiếp xã hội. Nhà nước là một thể chế tổ chức cơ cấu phức tạp với chức năng
quản lý đời sống cộng đồng của các tầng lớp dân cư trên một lãnh thổ nhất
định. Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện các quyết định quản lý của mình
đối với các công dân của mình bởi nhiều biện pháp mang tính quyền lực Nhà
nước như tính thuyết phục, kỷ luật, kinh tế, cưỡng chế, và tính quyền lực đó
còn được thể hiện bằng phương tiện mang tính hình thức đặc thù thuộc phạm
trù các nghi lễ như cách bài trí công sở (công đường), trang phục, các hoạt động
lễ tân... Những phương tiện hình thức này có vai trò quan trọng không kém
những quy phạm được đưa ra trong các điều luật.
Những nghi thức, thủ tục mang tính nghi lễ được thực hiện trong hoạt
động giao tiếp quản lý nhà nước là một bộ phận quan trọng của các phương
thức tiến hành hoạt động đó. Nội dung của những nghi thức và thủ tục đó kiến
tạo cơ bản khái niệm nghi thức nhà nước.
Như vậy, có thể hiểu, nghi thức nhà nước là những phương thức giao tiếp
trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung được quy định tại các văn bản
pháp luật của Nhà nước, theo tập quán truyền thống dân tộc hoặc quốc tế mà
các bên tham gia quan hệ thủ tục quản lý nhà nước phải tuân thủ và thực hiện
nghiêm chỉnh.
1.2. Nội dung của nghi thức nhà nước
Từ khái niệm trên, nội dung của nghi thức nhà nước bao gồm những ấn
đề sau:
Những vấn đề liên quan đến cách thức thể hiện và sử dụng các biểu
tượng quốc gia (Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca) và thể thức văn bản quản lý nhà
nước.
Những vấn đề liên quan đến công tác lễ tân, hay tổ chức tiếp đãi khách
(chào đón, hội đàm, chiêu đãi, tặng quà, tiễn đưa), đặc biệt là đối với khách
nước ngoài.
Những vấn đề có liên quan đến kỹ năng giao tiếp (cử chỉ, lời ăn tiếng
nói, trang phục...) của cán bộ, công chức trong giải quyết những công việc nội
bộ nhà nước, cũng như trong hoạt động giao tiếp với các tổ chức và công dân.
Những vấn đề có liên quan đến tổ chức hoạt động quản lý như hội họp,
lễ kỷ niệm, cấp chứng chỉ, chứng thực, phong tặng, khen thưởng v.v...
Những vấn đề có liên quan đến hình thức của công sở như kiến trúc,
trang trí, bài trí mặt trước toà nhà cũng như nội thất.
1.3. Những vấn đề về sử dụng các biểu tượng quốc gia và thể thức văn
bản quản lý nhà nước
Mỗi dân tộc, quốc gia trên thế giới đã lựa chọn cho mình những biểu tượng
nhất định. Những biểu tượng đó là Quốc hiệu, Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy,
quốc ngữ, quốc thiều v.v... tức là những gì phần lớn tạo nên quốc thể.
a) Quốc hiệu: Là tên gọi của đất nước
Trong lịch sử, đất nước ta đã có nhiều tên gọi khác nhau như: Văn Lang, Âu
Lạc, Giao Chỉ, Cửu Chân, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, An Nam ...
Ngày 02091945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Theo Sắc lệnh của
Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà số 49/SL ngày
12101945, tiêu đề các văn bản nhà nước được ghi là: "Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà năm thứ nhất"
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, ngày 02071976, Quốc hội ra Nghị quyết về
tên nước, Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô, Quốc ca, và tên nước là " cộng hoà xã
hội chủ nghĩa việt nam". Quốc hiệu cùng với tiêu ngữ " Độc lập Tự do Hạnh
phúc" cùng tạo thành tiêu đề văn bản được in trên đầu trang trang nhất.
b) Quốc huy: Là huy hiệu của một nước hoặc hình tượng trưng cho một nước.
Theo quy định tại Điều 142 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992: "Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn,
nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có
nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ " Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam"".
Việc sử dụng Quốc huy được quy định tại Hướng dẫn số 3420/HDBVHTTDL
ngày 02/10/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch như sau:
1) Quốc huy có thể làm to, nhỏ tuỳ theo sự cần thiết. Các màu vàng ở mẫu
Quốc huy có thể thay bằng mầu vàng kim nhũ, hoặc có thể dùng không tô mầu.
2) Quốc huy được treo ở chính của cơ quan, về phía trên, chỗ trông rõ nhất tại
các cơ quan sau đây:
a Nhà họp của Chính phủ
b Nhà họp của Quốc hội khi họp
c Trụ sở Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện, xã, thành phố và thị xã
d Bộ ngoại giao, các đại sứ quán và lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài.
3) Quốc huy có thể treo ở lễ đài các ngày lễ lớn: 15 và 29 do Chính phủ Trung
ương hoặc các cấp chính quyền địa phương tổ chức.
4) Rước Quốc huy: trong các cuộc mít tinh, biểu tình, tổ chức ngày 15 và 29.
5) Quốc huy được in hoặc đóng dấu nổi trên các thư, giấy tờ sau:
a Bằng, huân chương, bằng khen của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ.
b Các văn bản ngoại giao như quốc thư, uỷ nhiệm thư, thư giới thiệu của Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
c Hộ chiếu.
d Công hàm, thiếp mời, phong bì của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao.
đ Các thư từ, thiếp mời, phong bì cuả Chủ tịch Quốc hội trong việc giao thiệp
với các cơ quan nước ngoài.
e Công văn, thiếp mời, phong bì của các đại sứ quán và lãnh sự quán ở nước
ngoài.
Quốc huy cũng còn có thể được in trên tiền, một số loại tem tài chính v.v... và
còn được khắc trên con dấu của một số cơ quan nhà nước nhất định như: Chủ
tịch nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
Quốc hội, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội v.v...
c) Quốc kỳ: là cờ tượng trưng cho một Quốc gia, cũng chính là Cờ Tổ quốc.
Đồng thời đó cũng là biểu trưng một cách rõ ràng quyền lực của nhân dân ta,
chủ quyền của mình đối với lãnh thổ, cương vực đã được phân định.
Theo quy định của pháp luật, việc sử dụng Quốc kỳ cần đảm bảo những yêu
cầu sau:
1) Quốc kỳ hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ thắm,
giữa có ngôi sao vàng năm cánh mầu vàng tươi với các cánh sao làm theo đường
thẳng, trung tâm của sao đặt đúng trung tâm của cờ.
2) Quốc kỳ được treo trong các phòng họp của các cấp chính quyền và các đoàn
thể khi họp những buổi long trọng, chỉ treo ngoài nhà những ngày lễ tết.
3) Các cơ quan nhà nước, các trường học (kể cả học viện), các đơn vị vũ trang,
các cửa khẩu biên giới, các cảng quốc tế phải có cột cờ và treo Quốc kỳ trước
công sở, hoặc nơi trang trọng trước cửa cơ quan.
4) Các đơn vị vũ trang, các trường phổ thông, trường dạy nghề và trung học
chuyên nghiệp, các học viện, các trường đại học tổ chức chào cờ và hát Quốc ca
một cách trang nghiêm vào sáng thứ hai hàng tuần, trước buổi học đầu tiên
(không dùng băng ghi âm và hệ thống phóng thanh thay cho việc hát Quốc ca).
5) Quốc kỳ của nước ta treo với Quốc kỳ các nước khác trong những trường
hợp sau:
a Khi kỷ niệm Quốc khánh một nước bạn hay một nước ngoài.
b Khi tiếp đón đoàn đại biểu Chính phủ của một nước.
6) Khi treo Quốc kỳ không để ngược ngôi sao. Treo Quốc kỳ ta với quốc kỳ
nước khác: đứng đằng trước nhìn vào thì cờ của ta ở bên tay phải, cờ nước
ngoài ở bên tay trái, các cờ phải làm đúng kiểu mẫu bằng nhau và treo đều nhau.
7) Khi có quốc tang thì đính vào phía trên Quốc kỳ một dải vải đen, dài bằng
chiều dài Quốc kỳ, rộng bằng một phần mười chiều rộng Quốc kỳ.
8) Hình nền đỏ sao vàng được in trên các bằng huân chương, bằng khen, giấy
khen của các cấp chính quyền.
9) Quốc kỳ được cắm vào xe ô tô của các đại sứ và lãnh sự Việt Nam ở nước
ngoài. Khi đón, đưa các đại biểu Chính phủ nước ngoài thì cắm Quốc kỳ của ta
và Quốc kỳ nước ngoài vào xe ô tô dùng cho các đại biểu ấy.
d) Quốc ca: Là bài hát được thừa nhận là chính thức của một Quốc gia.
Theo quy định tại Điều 143 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam:"Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài
"Tiến quân ca"".
Việc sử dụng Quốc ca theo các quy định tại Điều lệ số 975/TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 21071956, theo Thông báo của Chính phủ số 31TB ngày 15
021993, với nội dung chính sau:
1) Quốc ca có thể hát bằng lời hoặc cử nhạc khi:
a Làm lễ chào cờ
b Khai mạc và bế mạc những buổi họp long trọng do chính quyền hoặc đoàn
thể tổ chức.
c Hàng ngày khi bắt đầu buổi phát thanh thứ nhất và khi kết thúc buổi phát
thanh cuối cùng của Đài Tiếng nói Việt Nam.
2) Khi cử Quốc ca, mọi người phải bỏ mũ, đứng nghiêm.
3) Cử Quốc ca của ta và quốc ca nước ngoài: cử quốc ca nước ngoài trước,
Quốc ca ta sau.
4) Không dùng băng ghi âm và hệ thống phóng thanh thay cho việc hát Quốc ca
khi chào cờ đựơc tổ chức vào sáng thứ hai hàng tuần, trước buổi học đầu tiên
tại các đơn vị vũ trang, trường phổ thông, trường dạy nghề và trung học chuyên
nghiệp, các học viện, các trường đại học. Lễ chào cờ tại các buổi lễ lớn của
Nhà nước hoặc các buổi đón tiếp mang tính nghi thức nhà nước, những buổi lễ
kỷ niệm của ngành, địa phương có thể sử dụng băng ghi âm hoặc quân nhạc
thay cho hát Quốc ca.
d) Thể thức văn bản quản lý nhà nước
Văn bản quản lý nhà nước là những quyết định và thông tin quản lý thành văn
(được văn bản hoá) do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành theo thẩm quyền,
trình tự, thủ tục, hình thức nhất định và được nhà nước đảm bảo thi hành bằng
những biện pháp khác nhau nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lý nội bộ
nhà nước hoặc giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức và công dân.
Thể thức văn bản là những yếu tố hình thức và nội dung của chúng đã được
thể chế hoá. Tại Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLTVPCPBNV ngày
06/5/2005 của Vưn phòng Chính phủ và Bộ Nội vụ, văn bản quản lý nhà nước
bao gồm những thành phần sau:
1. Quốc hiệu
Quốc hiệu ghi trên văn bản bao gồm 2 dòng chữ: “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” và “Độc lập Tự do Hạnh phúc”.
2. Tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản
Tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản bao gồm tên của cơ quan, tổ chức ban
hành văn bản và tên của cơ quan, tổ chức chủ quản cấp trên trực tiếp (nếu có).
3. Số, ký hiệu của văn bản
a) Số, ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật
Số của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm số thứ tự đăng ký được đánh
theo từng loại văn bản do cơ quan ban hành trong một năm và năm ban hành văn
bản đó. Số được ghi bằng chữ số Ảrập, bắt đầu từ số 01 vào ngày đầu năm và
kết thúc vào ngày 31 tháng 12 hàng năm; năm ban hành phải ghi đầy đủ các số;
Ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm chữ viết tắt tên loại văn
bản và chữ viết tắt tên cơ quan hoặc chức danh nhà nước (Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ) ban hành văn bản.
Số, ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân ban hành được thực hiện theo quy định tại Điều 7 của Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân số
31/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm 2004.
b) Số, ký hiệu của văn bản hành chính
Số của văn bản hành chính là số thứ tự đăng ký văn bản do cơ quan, tổ chức ban
hành trong một năm. Số của văn bản được ghi bằng chữ số Ảrập, bắt đầu từ số
01 vào ngày đầu năm và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 hàng năm.
Ký hiệu của văn bản hành chính
Ký hiệu của quyết định (cá biệt), chỉ thị (cá biệt) và của các hình thức văn
bản có tên loại khác bao gồm chữ viết tắt tên loại văn bản và chữ viết tắt tên cơ
quan, tổ chức hoặc chức danh nhà nước ban hành văn bản.
Ký hiệu của công văn bao gồm chữ viết tắt tên cơ quan, tổ chức hoặc
chức danh nhà nước ban hành công văn và chữ viết tắt tên đơn vị soạn thảo
hoặc chủ trì soạn thảo công văn đó (nếu có), ví dụ:
4. Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành văn bản
Địa danh ghi trên văn bản của các cơ quan, tổ chức cấp tỉnh:
+ Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương: là tên của thành phố trực
thuộc Trung ương.
+ Đối với các tỉnh: là tên của thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc của huyện
nơi cơ quan, tổ chức đóng trụ sở, ví dụ:
Địa danh ghi trên văn bản của các cơ quan, tổ chức cấp huyện là tên của
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ví dụ:
Địa danh ghi trên văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và của
các tổ chức cấp xã là tên của xã, phường, thị trấn đó, ví dụ:
b) Ngày, tháng, năm ban hành văn bản
Ngày, tháng, năm ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân ban hành là ngày, tháng, năm văn
bản được thông qua.
Ngày, tháng, năm ban hành văn bản quy phạm pháp luật khác và văn bản
hành chính là ngày, tháng, năm văn bản được ký ban hành.
Ngày, tháng, năm ban hành văn bản phải được viết đầy đủ ngày ... tháng ...
năm …; các số chỉ ngày, tháng, năm dùng chữ số Ảrập; đối với những số chỉ
ngày nhỏ hơn 10 và tháng 1, 2 phải ghi thêm số 0 ở trước.
5. Tên loại và trích yếu nội dung của văn bản
a) Tên loại văn bản là tên của từng loại văn bản do cơ quan, tổ chức ban
hành. Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính, đều
phải ghi tên loại, trừ công văn.
b) Trích yếu nội dung của văn bản là một câu ngắn gọn hoặc một cụm từ,
phản ánh khái quát nội dung chủ yếu của văn bản.
6. Nội dung văn bản
a) Nội dung văn bản
Nội dung văn bản là thành phần chủ yếu của một văn bản, trong đó, các
quy phạm pháp luật (đối với văn bản quy phạm pháp luật), các quy định được
đặt ra; các vấn đề, sự việc được trình bày.
b) Bố cục của văn bản
Văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng thì tuỳ theo nội
dung có thể được bố cục theo phần, chương, mục, điều, khoản, điểm; đối với
văn bản có phạm vi điều chỉnh hẹp thì bố cục theo các điều, khoản, điểm. Các
phần, chương, mục, điều trong văn bản quy phạm pháp luật phải có tiêu đề.
Không quy định chương riêng về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý
vi phạm trong văn bản quy phạm pháp luật nếu không có nội dung mới.
Văn bản quy phạm pháp luật có thể được bố cục như sau:
Nghị quyết: theo điều, khoản, điểm hoặc theo khoản, điểm;
Nghị định: theo chương, mục, điều, khoản, điểm; các quy chế (điều lệ)
ban hành kèm theo nghị định: theo chương, mục, điều, khoản, điểm;
Quyết định: theo điều, khoản, điểm; các quy chế (quy định) ban hành kèm
theo quyết định: theo chương, mục, điều, khoản, điểm;
Chỉ thị: theo khoản, điểm;
Thông tư: theo mục, khoản, điểm.
Văn bản hành chính có thể được bố cục như sau:
Quyết định (cá biệt): theo điều, khoản, điểm; các quy chế (quy định) ban
hành kèm theo quyết định: theo chương, mục, điều, khoản, điểm;
Chỉ thị (cá biệt): theo khoản, điểm;
Các hình thức văn bản hành chính khác: theo phần, mục, khoản, điểm.
7. Chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền
a) Việc ghi quyền hạn của người ký được thực hiện như sau:
Trường hợp ký thay mặt tập thể thì phải ghi chữ viết tắt “TM.” (thay
mặt) vào trước tên tập thể lãnh đạo hoặc tên cơ quan, tổ chức;
Trường hợp ký thay người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì phải ghi chữ
viết tắt “KT.” (ký thay) vào trước chức vụ của người đứng đầu;
Trường hợp ký thừa lệnh thì phải ghi chữ viết tắt “TL.” (thừa lệnh) vào
trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức;
Trường hợp ký thừa uỷ quyền thì phải ghi chữ viết tắt “TUQ.” (thừa uỷ
quyền) vào trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
b) Chức vụ của người ký
Chức vụ ghi trên văn bản là chức danh lãnh đạo chính thức của người ký
văn bản trong cơ quan, tổ chức; chỉ ghi chức danh như Bộ trưởng (Bộ trưởng,
Chủ nhiệm), Thứ trưởng, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Giám đốc, Phó Giám đốc v.v..,
không ghi lại tên cơ quan, tổ chức, trừ các văn bản liên tịch, văn bản do hai hay
nhiều cơ quan, tổ chức ban hành; văn bản ký thừa lệnh, thừa uỷ quyền và những
trường hợp cần thiết khác do các cơ quan, tổ chức quy định cụ thể.
c) Họ tên bao gồm họ, tên đệm (nếu có) và tên của người ký văn bản. Đối
với văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính, trước họ tên của người
ký, không ghi học hàm, học vị và các danh hiệu danh dự khác, trừ văn bản của
các tổ chức sự nghiệp giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, trong những trường
hợp cần thiết, có thể ghi thêm học hàm, học vị.
8. Dấu của cơ quan, tổ chức
Việc đóng dấu trên văn bản được thực hiện theo quy định tại Nghị định số
110/2004/NĐCP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về công tác văn thư
và quy định của pháp luật có liên quan.
Dấu đóng phải rõ ràng, ngay ngắn, đúng chiều và dùng đúng mực dấu quy
định.
Khi đóng dấu lên chữ ký thì dấu đóng phải trùm lên khoảng 1/3 chữ ký về
phía bên trái.
Việc đóng dấu lên các phụ lục kèm theo văn bản chính do người ký văn
bản quyết định và dấu được đóng lên trang đầu, trùm lên một phần tên cơ quan,
tổ chức hoặc tên của phụ lục.
Việc đóng dấu giáp lai, đóng dấu nổi trên văn bản, tài liệu chuyên ngành
được thực hiện theo quy định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan quản lý
ngành.
9. Nơi nhận
Nơi nhận xác định những cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân nhận văn bản
với mục đích và trách nhiệm cụ thể như để kiểm tra, giám sát; để xem xét, giải
quyết; để thi hành; để trao đổi công việc; để biết và để lưu.
Đối với văn bản chỉ gửi cho một số đối tượng cụ thể thì phải ghi tên từng
cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận văn bản; đối với văn bản được gửi cho một
hoặc một số nhóm đối tượng nhất định thì nơi nhận được ghi chung, ví dụ:
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã (thuộc tỉnh ...).
Đối với những văn bản có ghi tên loại, nơi nhận bao gồm từ “nơi nhận” và
phần liệt kê các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân nhận văn bản.
Đối với công văn hành chính, nơi nhận bao gồm hai phần:
Phần thứ nhất bao gồm từ “kính gửi”, sau đó là tên các cơ quan, tổ chức
hoặc đơn vị, cá nhân trực tiếp giải quyết công việc;
Phần thứ hai bao gồm từ “nơi nhận”, phía dưới là từ “như trên”, tiếp theo
là tên các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan khác nhận công văn.
10. Dấu chỉ mức độ khẩn, mật
a) Dấu chỉ mức độ khẩn:
b) Dấu chỉ mức độ mật:
Việc xác định và đóng dấu độ mật (tuyệt mật, tối mật hoặc mật), dấu thu
hồi đối với văn bản có nội dung bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định
của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
11. Các thành phần thể thức khác
1.4. Những vấn đề về công tác lễ tân, hay tổ chức tiếp đãi khách
Lễ tân nhà nước là tổng hợp các nghi thức, thủ tục trong việc đón, tiễn,
giao tiếp với khách nhằm giải quyết những công việc có liên quan đến quan hệ
nội bộ nhà nước, giữa các nhà nước, cũng như giữa nhà nước và công dân. Như
vậy, về cơ bản, lễ tân được hiểu là tổng hợp những quy định, nghi thức, thủ tục
được các nhà nước tuân thủ thực hiện trong giao tiếp quốc tế.
Tổ chức tiếp khách là một trong những hoạt động quan trọng, một công
tác cơ bản của các cơ quan công quyền, các đoàn thể, các tổ chức khác nhau.
Công tác này được thực hiện không chỉ nhằm để giao tiếp xã hội thuần thuý,
đảm bảo hoạt động thông suốt đối với các hệ quả của quá trình quản lý, mà còn
tạo cho các nhà quản lý có điều kiện xem xét, đánh giá hiệu quả công việc từ
phía bên ngoài.
Việc tiếp khách đến giao dịch cần được tiến hành đảm bảo các yêu cầu
nhất định. Trước tiên, cần được bố trí phòng thường trực cơ quan để khách ngồi
đợi trước khi vào làm việc. Tại đây cần treo bảng nội quy tiếp khách có nội
dung ngắn gọn để khách biết cần phải làm gì khi có việc đến giao dịch. Nhân
viên trực có trách nhiệm niềm nở chào và hỏi khách đến gặp ai, đã có hẹn trước
chưa v.v.... Sau đó nhân viên trực nhanh chóng thông báo chính xác về sự hiện
diện của khách để người có trách nhiệm ra tận phòng thường trực đón và hướng
dẫn khách về phòng làm việc của mình.
Để làm việc đón khách vào, lãnh đạo cơ quan có thể thân hành hoặc thông
qua người thư ký. Lúc này, người thư ký có vai trò hết sức quan trọng, bởi lẽ đó
là nhân vật đại diện đầu tiên của cơ quan, đơn vị đối với khách, tạo nên ấn
tượng đầu tiên cho khách và nếu đó là ấn tượng tốt thì công việc có thể được
nói là” đầu xuôi đuôi lọt”. Thêm nữa, người thư ký còn là người trực tiếp giải
quyết những yêu cầu của một số khá lớn khách đến giao dịch với lãnh đạo cơ
quan, tổ chức. Người thư ký có trách nhiệm đón khách một cách niềm nở, thân
thiện, tin tưởng, bình tĩnh, không bao giờ hoảng sợ, trả lời khách một cách có ý
thức, rõ ràng, lễ độ. Nếu đang bận nói chuyện qua điện thoại hoặc một việc gì
khác không thể dừng, thì người thư ký vẫn phải chào hỏi khách để khách biết là
sẽ được tiếp ngay sau khi người thư ký đó xong việc. Việc từ chối đón tiếp một
người khách nào đó phải được thực hiện một cách hết sức thận trọng, lịch sự.
Người thư ký cũng có trách nhiệm chào khách lúc khách làm việc với lãnh đạo
xong ra về.
Khi đón tiếp khách nước ngoài lại càng phải chú trọng đến việc thực hiện
sao cho khách có ấn tượng ban đầu về sự nồng hậu, thân thiện của sự đón tiếp.
Việc đón tiếp các đoàn khách có khác nhau về mặt nghi lễ tuỳ theo tính
chất của mỗi đoàn. Công tác này đã được quy định tại Nghị định số
82/2001/NĐCP ngày 06 thỏng 11 nam 2001 về nghi lễ nhà nước và đón tiếp
khách nước ngoài.
Bố trí chỗ ngồi cho khách là công việc tiếp theo không kém phần quan
trọng trong công tác lễ tân, nó ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung và hiệu quả
của hoạt động được tổ chức.
Bố trí chỗ ngồi phải thích hợp theo thứ bậc của từng người. Tuỳ theo tính
chất, nội dung của từng loại hoạt động mà có cách bố trí sao cho thích hợp. Sắp
xếp cho những người tham gia hội nghị, hội thảo, họp bàn, hội đàm v.v... phải
theo những nguyên tắc nhất định, đó là:
1) Nguyên tắc ngôi thứ: ngôi thứ và cấp bậc được dựa trên các nguồn khác
nhau như từ danh sách các ngôi thứ chính thức do nhà nước và tổ chức định chế
công bố, từ tập quán ngoại giao ngày càng được hoàn thiện theo năm tháng trong
quan hệ quốc tế, từ sự tôn kính đối với một số thành viên trong xã hội hay phép
tắc xã giao giữa các thành viên của cộng đồng.
2) Nguyên tắc ”đoàn khách tự định đoạt”: chỗ ngồi của khách nước ngoài
cùng một nước do chính quyền nước đó xác định; đoàn khách tự chỉ định người
đứng đầu và thứ bậc của mỗi người.
3) Nguyên tắc bình đẳng giữa các nước: cần xác định những tiêu chuẩn
khách quan để xác lập ngôi thứ các nguyên thủ quốc gia với nhau và giữa các
phái đoàn với nhau, ví dụ như: sắp xếp theo thâm niên chức vụ, xếp chỗ theo
thứ tự vần chữ cái tên của nước có đại diện hoặc rút thăm.
4) Nguyên tắc ngôi thứ không uỷ quyền: một người khi đại diện một
người khác thì không thể được đối xử như người mình đại diện. Trừ trường
hợp liên quan đến nguyên thủ quốc gia. Để có những vinh dự như nhau, người
thay thế phải cùng cấp. Một người thay thế có thứ bậc thấp hơn không nhất
thiết phải được mời phát biểu hoặc lên bục danh dự.
5) Nguyên tắc ”nhường chỗ”: chủ một buổi lễ tiếp một nhân vật cấp bậc
cao hơn sẽ lịch sự nhường chỗ quan trọng nhất (vị trí số 1: vị trí trung tâm, sau
đó vị trí đối diện hoặc bên tay phải là vị trí số 2) cho khách.
6) Nguyên tắc tuổi tác và thâm niên: người nhiều tuổi xếp trên người ít
tuổi, người cùng chức vụ có thâm niên lâu hơn được xếp trước, người tiền
nhiệm xếp sau người đương nhiệm.
7) Nguyên tắc ưu tiên phụ nữ: khách nữ có cùng cấp bậc được ưu tiên xếp
trước khách nam.
8) Nguyên tắc "người được mời": các cặp vợ chồng được xếp chỗ theo
cấp bậc người giữ cương vị được mời.
9) Nguyên tắc "dân sự trước tôn giáo": các chức sắc tôn giáo xếp sau các
chức sắc dân sự tại các buổi lễ thông thường.
10) Nguyên tắc người có công: ưu tiên những người có huân, huy chương,
được những giải đặc biệt, có uy tín trong các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học
v.v....
11) Nguyên tắc bên phải trước bên trái sau: người quan trọng nhất ở bên
phải chủ nhân rồi người quan trọng thứ hai ở bên trái và cứ thế xen kẽ tiếp
theo.
12) Nguyên tắc "đối diện tương đồng": Chủ nhân ngồi đối diện với với
khách chính, sau đó theo quy tắc phải trái và xen kẽ sẽ xếp các vị chủ, khách
khác. Chủ khách có thể ngồi theo kiểu “ Chủ toạ kiểu Pháp”, hoặc “ Chủ toạ
kiểu Anh”. “Chủ toạ kiểu Pháp” là kiểu sơ đồ bàn, theo đó chủ và khách ngồi
chính giữa bàn, đối diện nhau. Các vị trí tiếp theo theo nguyên tắc "phải trước
trái sau". Còn "chủ toạ kiểu Anh" là kiểu sơ đồ bàn, theo đó chủ và khách chính
ngồi ở hai đầu bàn, đối diện nhau. Các vị trí tiếp theo vẫn theo nguyên tắc "phải
trước trái sau".
1.5. Những vấn đề có liên quan đến kỹ năng giao tiếp của cán bộ, công
chức trong giải quyết những công việc nội bộ nhà nước và hoạt động giao
tiếp với các tổ chức và công dân.
Có thể thấy, trong giao tiếp, con người luôn luôn thể hiện một lực hấp dẫn
nào đó để thực hiện ý đồ giao tiếp của mình và cái hấp dẫn đó phần nào tiềm
ẩn trong năng lực ứng xử và khả năng khai thác năng lực đó ở mỗi cá nhân. Sự
hấp dẫn đó được truyền đạt tới đối tượng giao tiếp thông qua trang phục,
những cái bắt tay, giọng nói, vóc dáng, hoạt động nội tâm được biểu hiện bởi
những yếu tố ngôn ngữ điệu bộ đó.
Quyết định số 129/2007/QĐTTg ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà
nước quy định về trang phục, giao tiếp và ứng xử của cán bộ, công chức, viên
chức khi thi hành nhiệm vụ, bài trí công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước.
1) Trang phục
Trang phôc cña cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện nhiệm vụ ph¶i
ăn mặc gọn gàng, lịch sự.
Lễ phục của cán bộ, công chức, viên chức là trang phục chính thức được
sử dụng trong những buổi lễ, cuộc họp trọng thể, các cuộc tiếp khách nước
ngoài.
Lễ phục của nam cán bộ, công chức, viên chức: bộ comple, áo sơ mi, cravat.
Lễ phục của nữ cán bộ, công chức, viên chức: áo dài truyền thống, bộ
comple nữ.
3. Đối với cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số, trang
phục ngày hội dân tộc cũng coi là lễ phục.
2) Giao tiếp và ứng xử
Trong giao tiếp và ứng xử, cán bộ, công chức, viên chức phải có thái độ
lịch sự, tôn trọng. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch lạc; không nói tục, nói
tiếng lóng, quát nạt.
Trong giao tiếp và ứng xử với nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức phải
nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về các quy
định liên quan đến giải quyết công việc.
Cán bộ, công chức, viên chức không được có thái độ hách dịch, nhũng
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ.
Trong giao tiếp và ứng xử với đồng nghiệp, cán bộ, công chức, viên chức
phải có thái độ trung thực, thân thiện, hợp tác.
Khi giao tiếp qua điện thoại, cán bộ, công chức, viên chức phải xưng tên,
cơ quan, đơn vị nơi công tác; trao đổi ngắn gọn, tập trung vào nội dung công
việc; không ngắt điện thoại đột ngột.
1.6. Những vấn đề có liên quan đến tổ chức hoạt động quản lý như
hội họp, lễ kỷ niệm, cấp chứng chỉ, chứng thực, phong tặng, khen thưởng
Quyết định số 114/2006/QĐTTg ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy định chế độ hội họp trong hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước quy định này điều chỉnh việc tổ chức các cuộc họp trong
hoạt động quản lý, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước nhằm giảm bớt
số lượng, nâng cao chất lượng các cuộc họp trong hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước ở các cấp, các ngành, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong việc tổ chức các cuộc họp, góp phần tích cực tiếp tục đổi mới, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả sự chỉ đạo, điều hành của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà
nước, đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính.
a) Giấy mời họp:
Giấy mời họp phải được ghi rõ những nội dung sau đây: Người triệu tập
và chủ trì; Thành phần tham dự; Người được triệu tập; người được mời tham
dự; Nội dung cuộc họp; thời gian, địa điểm họp; Những yêu cầu đối với người
được triệu tập hoặc được mời tham dự.
Giấy mời họp phải được gửi trước ngày họp ít nhất là 3 ngày làm việc,
kèm theo là tài liệu, văn bản, nội dung, yêu cầu và những gợi ý liên quan đến
nội dung cuộc họp, trừ trường hợp các cuộc họp đột xuất.
b) Thành phần và số lượng người tham dự cuộc họp
Tuỳ theo tính chất, nội dung, mục đích, yêu cầu của cuộc họp, người
triệu tập cuộc họp phải cân nhắc kỹ và quyết định thành phần, số lượng người
tham dự cuộc họp cho phù hợp, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả.
Thủ trưởng cơ quan, đơn vị được mời họp phải cử người tham dự cuộc
họp đúng thành phần, có đủ thẩm quyền, năng lực, trình độ đáp ứng nội dung và
yêu cầu của cuộc họp.
b) Thời gian tiến hành cuộc họp
1. Thời gian tiến hành một cuộc họp thuộc các loại cuộc họp dưới đây
được quy định như sau:
a) Họp tham mưu, tư vấn không quá một buổi làm việc;
b) Họp chuyên môn từ một buổi làm việc đến 1 ngày, trường hợp đối với
những đề án, dự án lớn, phức tạp thì có thể kéo dài thời gian hơn, nhưng cũng
không quá 2 ngày;
c) Họp tổng kết công tác năm không quá 1 ngày;
d) Họp sơ kết, tổng kết chuyên đề từ 1 đến 2 ngày tùy theo tính chất và nội
dung của chuyên đề;
đ) Họp tập huấn, triển khai nhiệm vụ công tác từ 1 đến 3 ngày tùy theo tính
chất và nội dung vấn đề.
2. Các loại cuộc họp khác thì tuỳ theo tính chất và nội dung mà bố trí thời
gian tiến hành hợp lý, nhưng không quá 2 ngày.
1.7. Những vấn đề có liên quan đến hình thức của công sở như kiến
trúc, trang trí, bài trí mặt trước toà nhà cũng như nội thất.
1. Cơ quan phải có biển tên được đặt tại cổng chính, trên đó ghi rõ tên gọi
đầy đủ bằng tiếng Việt và địa chỉ của cơ quan theo hướng dẫn thống nhất cña
Bộ Nội vụ.
2. Phòng làm việc phải có biển tên ghi rõ tên đơn vị, họ và tên, chức danh
cán bộ, công chức, viên chức. Việc sắp xếp, bài trí phòng làm việc phải bảo
đảm gọn gàng, ngăn nắp, khoa học, hợp lý. Không lập bàn thờ, thắp hương,
không đun, nấu trong phòng làm việc.
3. Cơ quan có trách nhiệm bố trí khu vực để phương tiện giao thông của
cán bộ, công chức, viên chức và của người đến giao dịch, làm việc. Không thu
phí gửi phương tiện giao thông của người đến giao dịch, làm việc.
CHƯƠNG 2
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN, ĐẶC ĐIỂM NGHI THỨC NHÀ NƯỚC, HỆ THỐNG
HÓA CÁC VĂN BẢN VỀ NGHI THỨC NHÀ NƯỚC TỪ 1945 ĐẾN NAY
2.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CUẢ GHI THỨC NHÀ NƯỚC
2.1.1. Quan niệm về nghi thức Nhà Nước thời xưa
Các nhà nước phong kiến Trung Hoa, Việt Nam và một số nước Đông Á
khác trước đây luôn coi trọng và áp dụng rộng rãi tư tưởng “lễ hình kết hợp”,
tức luôn coi trọng “Nghi lễ” và “phép” (pháp).
Ngày nay, nghi thức nhà nước cần phải được hiểu là những phương thức
giao tiếp trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung được quy định tại các văn
bản pháp luật của Nhà nước, theo tập quán truyền thống dân tộc hoặc quốc tế
mà các bên tham gia quan hệ thủ tục quản lý nhà nước phải tuân thủ và thực
hiện nghiêm chỉnh.
2.1.1. Nội dung của nghi thức nhà nước những năm đầu giải phóng
Ngay từ những ngày đầu của nền cộng hoà (1945), Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm đến công tác xây dựng lễ nghi nhà nước của chính quyền mới. Các văn
bản pháp luật đã kịp thời được ban hành để điều chỉnh những vấn đề thuộc lĩnh
vực này. Ngay sau khi tuyên ngôn độc lập, ngày 591945, Chính phủ của nước
Việt Nam mới đã có sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt nam dân
chủ cộng hoà số 5 về việc bãi bỏ Cờ quẻ ly của chế độ cũ và ấn định Quốc kỳ
mới của Việt Nam có “nền mầu đỏ tươi, ở giữa có sao năm cánh mầu vàng
tươi”.
Vào cuối những năm 50, sau khi hoà bình lập lại, ngày 21071956 Chính
phủ đã ban hành ba văn bản quan trọng là Điều lệ số 973/TTg về việc dùng
Quốc huy, Điều lệ số 974/TTg về việc dùng Quốc kỳ và Điều lệ số 975/TTg về
việc dùng Quốc ca nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Năm 1976, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có Nghị
quyết ngày 27 về tên nước, Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô, Quốc ca.
Ngoài ra, còn nhiều văn bản khác quy định về tổ chức việc cưới, việc
tang, việc hội, hướng dẫn về lễ phục, y phục công chức, thời giờ làm việc, quy
định một số nghi lễ nhà nước và tiếp khách nước ngoài v.v....
2.1.3. Lược sử về về Nghi thức Nhà Nước trong các cơ quan Nhà Nước
Từ thời xa xưa ông cha ta đã có quan niệm và biết được tầm quan trọng của
nghi thức Nhà Nước trong việc trị vì đất nước. Nghi thức Nhà Nước được thể
hiện trong “ Lễ”. “Trong đạo trị nước, lễ là cần hơn cả. Lễ để nhận rõ việc
hiềm nghi, soi sáng chỗ vi ẩn, chia ra người trên kẻ dưới, tỏ rõ vật nọ phẩm kia.
Lễ nghi 300 điều, uy nghi 3000 điều, chỗ nào cũng ngụ tinh thần của cổ nhân ở
đó. Điển lễ thời cổ sâu kín tinh vi không thể nói hết được.
Nước Việt ta dựng nước văn minh, thấm nhuần phong hóa Trung Hoa, mỗi
đời nổi lên đều có lễ nghi, chất(phác) văn(hoa) bớt hay thêm, trước sau cùng so
sánh, trong đó độ nghi tiết hoặc có khác nhau, xa cách hàng nghìn năm, biên
chép
thiết sót, nên phải tra cứu rõ ràng mà đính chính lại. Đây hãy nói đến những
điều
lớn như: quy chế mũ áo, nghi vệ xe kiệu, là để phân biệt người trên kẻ dưới; lễ
tế
trời ở đàn Nam Giao, tế tổ ở nhà Tôn Miếu, là để kính quỷ thần; việc vui mừng
thì
có lễ khánh hạ của triều đình; việc đau thương thì có lễ tuất tang của nhà nước;
cũng là những lễ tiến tôn sách phong thì làm ở nơi cung phủ, những lễ tế cáo
cầu đảo thì để tiếp với bách thần. Các lễ nghi đều có quan hệ với đạo trời lẽ
vật, với điển nước phép triều, các đời diên cách, kỹ, dối khác nhau, cần phải
chia ra từng mối, từng ngành mà không thể thiếu sót được.
Từ đời Đinh đời Lý trở về trước, nghi tiết còn đơn giản, đến đời Trần, đời
Lê
về sau, lễ chế mới không mà sau có, đều là do lễ nghĩa mà đặt, văn mỗi thời
mỗi khác, nghi thức đã đặt, đều phải chép cả…”1[22].
Lễ vốn đã có từ trong xã hội nguyên thủy, dùng để chỉ những tập tục
mang
tính quy phạm ( tục lệ) mà các thành viên trong thị tộc, bộ lạc phải tuân thủ.
Cùng
với sự ra đời của nhà nước và phân hóa giai cấp, giai tầng các tục lệ được cải
biên,
chỉnh sửa phù hợp với điều kiện phát triển mới cơ cấu tổ chức quyền lực,
tương
quan chính trị và đời sống kinh tế xã hội.
Lễ là yếu tố được thể hiện và thể hiện rất rõ và mạnh mẽ trong đạo
Khổng.