Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: những vấn đề lý luận về quá trình phát triển
và phơng hớng hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở Việt Nam
10
1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam 10
1.2. Vai trò và tiêu chí đánh giá pháp luật cán bộ, công chức 19
1.3. Pháp luật cán bộ, công chức của một số nớc trên thế giới và
những thành tựu có thể vận dụng đợc ở Việt Nam 29
Chơng 2: quá trình phát triển, thực trạng và phơng h-
ớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở Việt Nam
49
2.1. Quá trình phát triển của pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam 49
2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay 76
2.3. Quan điểm và phơng hớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật cán
bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay 84
kết luận
101
danh mục tài liệu tham khảo
103
1
Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn
BMNN : Bộ máy nhà nớc
CB, CC : Cán bộ, công chức
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
HCNN : Hành chính nhà nớc
HĐND : Hội đồng nhân dân
UBND : Uỷ ban nhân dân
UBTVQH : Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội
VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách đang đợc Đảng và Nhà nớc
ta đặc biệt quan tâm trong công cuộc đổi mới hiện nay đó là việc tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nớc XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Trong bộ máy Nhà nớc, cán bộ, công chức phải
thật sự là công bộc tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Pháp luật cán bộ, công chức là một hệ thống những QPPL điều chỉnh
các quan hệ xã hội về cán bộ, công chức. Quy định vị trí vai trò của cán bộ,
công chức trong bộ máy Nhà nớc; quy định chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
cán bộ, công chức; quy định việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công
chức. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ sẽ phát sinh cả quyền lợi và
nghĩa vụ từ hai phía là nhà nớc và cán bộ công chức. Để điều chỉnh đợc mối
quan hệ này thì phải có pháp luật cán bộ, công chức. Do đó, pháp luật cán bộ,
công chức có vai trò hết sức quan trọng trong cả quá trình xây dựng, phát triển
và hoàn thiện bộ máy Nhà nớc. Đặc biệt, trong quá trình chúng ta đang xây
dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Pháp luật cán bộ,
công chức là phơng tiện để thể chế hoá đờng lối, chủ trơng, chính sách của
Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần quan trọng vào việc
phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy Nghị quyết Đại hội đại biều toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
Xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ,
công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm thẩm quyền, quyền lợi và
kỷ luật công chức hành chính. Quy định các chế độ đào tạo, tuyển
dụng, sử dụng công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nớc vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa
giác ngộ về chính trị có tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ, công tâm,
vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ [13, tr.132].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, bảo đảm
tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức
trớc hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý về đờng lối, chính sách,
về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nớc. Sắp xếp đội
ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh tiêu chuẩn. Định kỳ
3
kiểm tra, đánh giá chất lợng cán bộ, công chức kịp thời thay thế cán
bộ, công chức yếu kém, thoái hoá. Tăng cờng cán bộ, có chế độ
chính sách đào tạo, bồi dỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phờng, thị
trấn [14, tr.135].
Điều đó khẳng định tầm quan trọng và vai trò to lớn của pháp luật
CBCC. Trên cơ sở định hớng từ các văn bản, nghị quyết của Đảng, nhà nớc ta
đã ban hành nhiều VBQPPL tạo thành một hệ thống pháp luật CBCC mà bớc
đột phá đầu tiên là việc UBTVQH ban hành pháp lệnh CBCC ngày
26/02/1998. Sau một thời gian thực hiện pháp lệnh CBCC năm 1998 bộc lộ
một số hạn chế trong quá trình quản lý, sử dụng đội ngũ CBCC. Do đó,
UBTVQH đã ban hành pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2002 và hiện nay là
pháp lệnh CBCC sửa đổi, bổ sung năm 2003.
Trong suốt cả quá trình từ khi thành lập nớc VNDCCH cho đến hiện
nay pháp luật CBCC nói chung và pháp lệnh CBCC nói riêng đã phần nào bám
sát các nhiệm vụ chính trị, đã cụ thể hoá đợc chủ trơng, đờng lối, chính sách
của Đảng và nhà nớc về công tác cán bộ.
Ngay sau khi thành lập nớc VNDCCH Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh 76/SL ban hành quy chế công chức Việt Nam mặc dù do hoàn cảnh chiến
tranh, quy chế không đợc áp dụng nhng nó vẫn có giá trị cho việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật cán bộ, công chức sau này. Trong điều kiện đất nớc vừa có
hoà bình, vừa có chiến tranh các VBQPPL về cán bộ, công chức là cơ sở pháp
lý quan trọng để nhà nớc quản lý có hiệu quả đối với đội ngũ cán bộ, công
nhân, viên chức. Do đó, pháp luật cán bộ, công chức thời kỳ này có tác dụng
huy động đợc đông đảo cán bộ, công chức tham gia vào công cuộc xây dựng
cơ sở vật chất cho CNXH đồng thời đóng góp công sức vào công cuộc giải
phóng miền Nam.
Trong hơn 20 năm đổi mới, pháp luật cán bộ, công chức đã có bớc phát
triển nhất định xuất phát từ đờng lối đổi mới và yêu cầu xây dựng Nhà nớc
pháp quyền. Có thể khẳng định rằng, pháp luật cán bộ, công chức qua các thời
kỳ lịch sử đã theo kịp tiến trình đổi mới toàn diện của đất nớc tạo ra một đội
ngũ cán bộ, công chức cán bộ, công chức ngày càng trởng thành, có phẩm
chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ góp phần vào công cuộc cải
cách hành chính và xây dựng BMNN Việt Nam trong sạch vững mạnh.
4
Tuy nhiên, pháp luật cán bộ, công chức trong các thời kỳ lịch sử cũng
nh hiện nay còn bộc lộ một số hạn chế nh: Số lợng các VBQPPL về cán bộ,
công chức đợc ban hành khá nhiều nhng hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật
còn thiếu tính ổn định cha tơng xứng với yêu cầu của một nền công vụ hiện
đại; pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 dù đã đợc sửa đổi, bổ sung nhiều
lần nhng vẫn còn tản mạn, chắp vá; hệ thống các VBQPPL còn thiếu tính đồng
bộ, nhiều chồng chéo, không thống nhất. Vì vậy, pháp luật cán bộ, công chức
qua các giai đoạn lịch sử vẫn cha đáp ứng đợc yêu cầu là cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên.
Mục tiêu chung của chơng trình tổng thể cải cách hành chính nhà nớc
giai đoạn 2001-2010 là: Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo
nguyên tắc của Nhà nớc pháp quyền XHCN dới sự lãnh đạo của Đảng, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu
của công cuộc xây dựng, phát triển đất nớc.
Một trong những mục tiêu cụ thể của chơng trình là hoàn thiện hệ thống
thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc. Vì thế, việc đổi mới hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính
sách về cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nớc là một yêu cầu cần thiết. Mặt khác, chúng ta đang trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, là thành viên của tổ chức thơng mại Thế giới
đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức ngoài phẩm chất, năng lực chuyên môn
nghiệp vụ còn phải có trình độ quản lý nhà nớc, ngoại ngữ, tin học, am hiểu
luật pháp và thông lệ quốc tế đợc trang bị kiến thức về hội nhập đòi hỏi pháp
luật cán bộ, công chức phải đợc hoàn thiện theo xu hớng đó.
Xuất phát từ những lý do nh trên mà tác giả đã chọn đề tài Lịch sử
phát triển và phơng hớng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt
Nam hiện nay, để nghiên cứu, viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề pháp luật CBCC, hoàn thiện pháp luật CBCC đã đợc một số tác
giả quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế hiện nay đã có các công trình khoa học
nghiên cứu và đề cập đến vấn đề này nh sau:
5
- Đổi mới và hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức nhà n ớc ở nớc ta
của tác giả Nguyễn Văn Tâm, luận án PTS luật học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 1997.
Đây là một công trình khoa học tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nớc nhằm
tạo môi trờng pháp lý ổn định cho chế độ công chức nhà nớc phù hợp với tình
hình, đặc điểm của hệ thống chính trị nớc ta.
- Pháp luật về công chức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, luận văn
thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh, bảo vệ tại Viện Nhà nớc pháp luật
năm 2005.
Đây là một công trình trình bày cơ sở lý luận về công chức, pháp luật về
công chức Việt Nam; nghiên cứu thực trạng pháp luật công chức Việt Nam;
những điểm mạnh và những vấn đề còn tồn tại của pháp luật công chức Việt
Nam và tác giả đã đề xuất một số kiến nghị nhằm từng bớc hoàn thiện pháp
luật về công chức.
- Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính ở Việt Nam hiện nay,
luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Minh Triết bảo vệ tại học viện Chính trị
guốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003.
Công trình này đã đa ra một số vấn đề cơ bản có tính lý luận về công
chức hành chính nhà nớc đồng thời có phân tích đánh giá tổng quát thực trạng
pháp luật đa ra kiến nghị giải pháp hoàn thiện.
- Đổi mới và hoàn thiện chế độ công chức Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, của tác giả Trịnh Xuân Toản, luận án thạc sĩ luật học bảo vệ tại
Viện Nghiên cứu nhà nớc và pháp luật, năm 1997.
- Hoàn thiện pháp luật công chức ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay
của tác giả Mai Lan Hơng, luận án thạc sĩ luật học bảo vệ tại Học viện Hành
chính quốc gia, năm 1999.
Công trình đã nêu những nội dung cơ bản về pháp luật công chức nhà n-
ớc, trọng tâm là đánh giá chế độ công chức cũng nh pháp luật công chức hiện
hành trên cơ sở pháp lệnh cán bộ công chức mới ban hành năm 1998. Đồng
thời có đề xuất phơng hớng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật công
chức nhà nớc.
Ngoài ra còn có các công trình khoa học có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến vấn đề pháp luật cán bộ công chức và hoàn thiện pháp luật cán bộ
công chức.
6
- Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tác giả PGS, TS Nguyễn
Phú Trọng và PGS, TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của TS
Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phơng (đồng chủ biên) Nxb Chính trị
guốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay
của tác giả Tô Tử Hạ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức nhà nớc của
Thang Văn Phúc, Tạp chí Cộng sản, số 22+23 - 2003.
- Đổi mới, hoàn thiện về cán bộ, công chức nhà n ớc của tác giả Trịnh
Xuân Toản, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, số 4 - 2003.
- Vài suy nghĩ về công tác quản lý đội ngũ, cán bộ công chức trong bộ máy
nhà nớc của Ngọc Giang và Phạm Thắng của Tạp chí Quản lý nhà nớc.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của TS Nguyễn Minh Phơng, Tạp chí Lý luận
chính trị, tháng 1 - 2006.
- Đội ngũ cán bộ, công chức ở n ớc ta của tác giả Nguyễn Văn Vinh.
Tạp chí Hoạt động khoa học, số 4 - 2002.
- Về xây dựng cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan hành chính
nhà nớc của tác giả Vũ Đăng Minh, Tạp chí Quản lý nhà nớc.
- Hoàn thiện pháp luật về công vụ, công chức và trách nhiệm pháp lý
của công chức của tác giả Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
2 - 2005.
- Công tác kế hoạch, đào tạo bồi dỡng cán bộ công chức hiện nay của
tác giả Ngô Thành Can, Tạp chí Tổ chức nhà nớc, số 12 - 2002.
- Những điểm mới của pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp
lệnh cán bộ cán bộ, công chức của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Tạp chí Quản
lý nhà nớc.
- Những quan điểm cơ bản xây dựng đội ngũ công chức hành chính Nhà
nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của tác giả Chu Văn Thành và Hà Quang
Ngọc, Tạp chí Cộng sản, số 19 - 2003.
7
Trên đây là những công trình, tài liệu làm nguồn t liệu tham khảo có giá
trị mang tính lý luận và thực tiễn cao. Nhng các công trình chỉ dừng lại nghiên
cứu ở góc độ lý luận chung các vấn đề về pháp luật cán bộ, công chức; vấn đề
xây dựng, hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức mà cha có công trình nào đề
cập đến vấn đề về lịch sử pháp triển của pháp luật cán bộ, công chức qua các
thời kỳ lịch sử ở nớc ta. Vì vậy, chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài
này góp phần nhỏ bé vào việc tổng kết các giai đoạn lịch sử của pháp luật cán
bộ, công chức để giải quyết những vấn đề mà thực tiễn hiện nay đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp luật
CBCC; phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về CBCC qua các thời kỳ lịch
sử ở Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn đa ra phơng hớng, giải pháp hoàn
thiện pháp luật CBCC ở Vệt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt đợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Xem xét giải quyết một số vấn đề có tính lý luận cơ bản về pháp luật
CBCC nh: Khái niệm pháp luật cán bộ, công chức; đặc điểm; những tiêu chí đánh
giá pháp luật cán bộ, công chức qua các giai đoạn; những thành tựu của pháp luật
CBCC trên thế giới Việt Nam có thể tham khảo.
- Làm rõ quá trình hình thành phát triển và thực trạng pháp luật cán bộ công
chức qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam
- Đa ra các quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật CBCC ở nớc ta
hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về cán bộ, công chức là một lĩnh vực rộng, liên ngành, có sự
tham gia điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau, nhng trong khuôn khổ
của luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu pháp luật CBCC dới góc độ lý luận lịch
sử nhà nớc và pháp luật.
CBCC theo quy định hiện nay có phạm vi rất rộng, không chỉ trong bộ
máy hành chính nhà nớc mà cả trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, trong các tổ chức đảng, đoàn thể. Luận văn đề cập đến các vấn đề có liên
quan đến CBCC ở tất cả các cơ quan hành chính nhà nớc từ Trung ơng đến cơ
8
sở trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đảng,
đoàn thể.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài đợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật. Cùng với các quan điểm
của Đảng và nhà nớc ta về xây dựng, hoàn thiện nhà nớc và pháp luật nói
chung và pháp luật về CBCC nói riêng.
Các phơng pháp đợc sử dụng trong luận văn là các phơng pháp của
truyền thống của khoa học xã hội: Phơng pháp kết hợp lý luận và thực tiễn,
phơng pháp phân tích và tổng hợp, phơng pháp lịch sử cụ thể, phơng pháp hệ
thống, phơng pháp so sánh, phơng pháp xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật CBCC ở Việt Nam.
- Khái quát đợc quá trình phát triển của pháp luật CBCC qua các thời kỳ
cách mạng ở Việt Nam, đồng thời đa ra những nhận xét, đánh giá về hệ thống
pháp luật CBCC hiện hành.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật CBCC Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận có liên quan đến pháp luật CBCC nh: Phân tích để làm rõ khái niệm pháp
luật CBCC; phân tích các đặc điểm cũng nh đa ra tiêu chí đánh giá pháp luật
CBCC đồng thời, tổng kết đánh giá pháp luật CBCC qua các thời kỳ lịch sử ở
Việt Nam cũng nh pháp luật CBCC hiện hành trên cơ sở đó để đa ra phơng h-
ớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật CBCC. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, giúp các cơ
quan Nhà nớc có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện pháp
luật CBCC ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chơng, 6 tiết.
9
Chơng 1
những vấn đề lý luận về quá trình phát triển
và phơng hớng hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở Việt Nam
1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật cán bộ, công
chức ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm pháp luật cán bộ, công chức
Nhà nớc XHCN ra đời đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ CBCC nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nớc, đáp
ứng cho sự vận hành của BMNN. Cùng với quá trình tổ chức nhân sự là việc
ban hành các VBQPPL, điều chỉnh các quan hệ công vụ, quy định các vấn đề
liên quan đến việc thiết lập các chức vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của
CBCC và nhiều vấn đề khác có liên quan đến hoạt động công vụ của Nhà nớc.
Pháp luật CBCC là hệ thống các quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành
luật khác nhau do các cơ quan nhà nớc ở Trung ơng, ở địa phơng ban hành. Nó
là một hệ thống những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về
CBCC, gọi là quan hệ công vụ, là quan hệ của các cơ quan nhà nớc trong việc
lựa chọn con ngời để uỷ thác, trao quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ và công vụ
nhân danh nhà nớc. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ thì phát sinh
cả quyền lợi và nghĩa vụ từ hai phía là nhà nớc và CBCC. Để bảo vệ đợc mối
quan hệ này hay nói cách khác là bảo vệ quyền và nghĩa vụ của hai bên thì
phải có pháp luật điều chỉnh nó. Pháp luật CBCC có vai trò quan trọng trong
quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện chế độ công vụ của Nhà nớc.
Chúng ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân điều đó đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ to lớn và cấp bách
trong tổ chức và hoạt động của BMNN. Đó là cải cách nền hành chính theo h-
ớng xây dựng một nền hành chính dân chủ trong sạch, vững mạnh chuyên
nghiệp, hiện đại hoá hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Muốn thực hiện đợc điều
đó, chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của
đội ngũ CBCC và xây dựng thể chế, cơ chế để quản lý CBCC phù hợp với xu
hớng cải cách, hoàn thiện BMNN hiện nay thông qua các quy phạm pháp luật
về CBCC.
Pháp luật CBCC có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho việc xây
dựng, phát triển và vận hành của chế độ CBCC. Vì vậy, hầu hết các nớc trên
thế giới đều quan tâm, coi trọng việc xây dựng pháp luật CBCC. Sự ra đời của
10
Nhà nớc gắn liền với chức năng tổ chức nhân sự, phải có một lớp ngời đặc biệt
chuyên làm chức năng quản lý và thực thi quyền lực để duy trì cho hoạt động
của BMNN.
Hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về pháp luật CBCC. Có ý
kiến cho rằng: Pháp luật CBCC là những chính sách về CBCC của Nhà nớc. Có
ngời lại cho rằng: Pháp luật CBCC bao gồm các văn kiện có tính quy phạm liên
quan đến việc quản lý nhân sự trong chính sách của chế độ công chức nhà nớc
[8, tr.41].
Theo một số tác giả các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây do đặc điểm về
chính trị, một số văn bản của Đảng quy định về vấn đề CBCC cũng có hiệu lực
nh các quy phạm pháp luật CBCC mà các cơ quan Đảng, chính quyền nhà nớc
cấp dới có trách nhiệm phải thi hành trong thực tiễn quản lý nhà nớc.
Các quan điểm trên cha đi sâu nghiên cứu ý nghĩa, nội dung, bản chất
cũng nh hình thức của pháp luật CBCC nên cha đa ra đợc quan niệm có tính
khái quát nhất về vấn đề này.
Trên thực tế, đội ngũ CBCC là những con ngời, những nhân vật đợc nhà
nớc lựa chọn, giao cho họ một nhiệm vụ cụ thể để họ hoàn thành chức năng
quản lý nhà nớc. Đội ngũ này nhận sự "uỷ thác", "uỷ quyền" của Nhà nớc, họ
đợc lấy danh nghĩa nhà nớc để thi hành chức trách, nhiệm vụ vì thế, mà nảy
sinh quan hệ xã hội về CBCC nhà nớc.
PGS,TS Phạm Hồng Thái đa ra định nghĩa:
Pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức nhà nớc là tổng thể các
quy phạm pháp luật thể hiện dới hình thức văn bản quy phạm pháp
luật do các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành quy định các
nguyên tắc của chế độ công vụ, trật tự hoạt động công vụ, điều
chỉnh các hoạt động về công vụ, cán bộ, công chức bao gồm: Thiết
lập các chức vụ cán bộ, công chức; các quyền nghĩa vụ của cán bộ,
công chức trong quá trình thực thi công vụ; việc tuyển dụng, sử
dụng, quản lý, khen thởng, kỷ luật cán bộ, công chức và các vấn đề
khác trong chính sách cán bộ, công chức nhà nớc [51, tr.115].
Do pháp luật CBCC là lĩnh vực pháp luật liên ngành bao gồm các quy
phạm pháp luật trong các ngành luật nh: Luật Lao động, Luật Hình sự, Luật
Hành chính. Trong đó, điều chỉnh các quan hệ xã hội trực tiếp liên quan tới
CBCC ở các vấn đề nh: chế độ làm việc, chế độ nghỉ ngơi, chế độ trợ cấp bảo
11
hiểm xã hội, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ thai sản, chế
độ hu trí, chế độ tử tuất do Luật Lao động điều chỉnh. Luật Hình sự thì quy
định một số tội danh chỉ do chủ thể là CBCC thực hiện trong khi thi hành công
vụ và một số quy phạm pháp luật quy định về vấn đề tội phạm chức vụ. Luật
Dân sự điều chỉnh, quy định về vấn đề bồi thờng thiệt hại do CBCC nhà nớc
gây ra. Nh vậy, các quy phạm pháp luật về CBCC ở nớc ta nằm trong nhiều
ngành luật khác nhau
Nh vậy, thực chất pháp luật CBCC là một hệ thống các VBQPPL quy
định những vấn đề sau đây:
- Những quy định về địa vị pháp lý của CBCC: Địa vị pháp lý của
CBCC thể hiện rõ mối quan hệ của Nhà nớc và vị trí của bản thân CBCC thông
qua quyền hạn và trách nhiệm của họ đợc quy định trong pháp luật.
Quyền lợi của CBCC là những gì mà nhà nớc quy định cho họ đợc hởng
do hoạt động nhiệm vụ, công vụ của họ mang lại nh: CBCC đợc hởng tiền l-
ơng và các chế độ chính sách khác; Có quyền tham gia các hoạt động chính trị
- xã hội; Đợc tạo điều kiện để học tập nâng cao trình độ. Xét ở một góc độ
nhất định quyền hạn của CBCC bao gồm các quyền gắn với nghĩa vụ của
CBCC, nhng không phải bất cứ quyền và nghĩa vụ nào cũng là quyền hạn mà
quyền hạn của CBCC chỉ bao hàm những quyền và nghĩa vụ mang tính chất
quyền lực và có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể khác. CBCC không đợc tự
ý mở rộng, thu hẹp hay không thực hiện quyền hạn đó mà buộc phải thực hiện
quyền hạn của mình một cách tích cực để hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ đ-
ợc giao.
- Các quy định về điều kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ về
quyền hạn, trách nhiệm của CBCC. Đó là các vấn đề về tuyển dụng, bổ nhiệm
CBCC, thăng chức, cách chức, thuyên chuyển, điều động CBCC, khen thởng,
kỷ luật, hu trí và sa thải
Đây là những vấn đề rất quan trọng trong pháp luật CBCC vì nó là
những yếu tố để nhà nớc có thể lựa chọn đợc những CBCC có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn theo quy định và bố trí họ vào một vị trí công việc thích hợp mà họ
có đủ khả năng để hoàn thành những nhiệm vụ mà nhà nớc giao phó.
- Các quy định về tổ chức quản lý, sử dụng CBCC, cơ quan quản lí
CBCC, các quy định về chế độ đào tạo, bồi dỡng phân loại, xếp hạng, đánh giá
CBCC.
12
Trong điều kiện xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN dới sự lạnh đạo
của Đảng thì vấn đề quản lý sử dụng CBCC là một vấn đề quan trọng nhằm
xây dựng đợc một đội ngũ CBCC trong sạch vững mạnh. Sử dụng CBCC
không chỉ là vấn đề có tính kỹ thuật, khoa học mà là cả một nghệ thuật. Việc
sử dụng CBCC có hiệu quả đòi hỏi các nhà tổ chức, quản lý phải thực sự sáng
tạo vì tiềm năng của con ngời, của nhân loại là vô hạn còn khả năng của mỗi
cá nhân lại là hữu hạn. Đây là vấn đề quan trọng trong công tác cán bộ của
Đảng và Nhà nớc ta, việc sử dụng CBCC cần kết hợp hai yếu tố đó là các tiêu
chuẩn do nhà nớc quy định và phẩm chất, năng lực của CBCC. Ngoài ra, sử
dụng CBCC phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sự đóng góp của CBCC và
các chế độ vật chất mà họ đợc hởng.
- Những quy định về đãi ngộ nh chế độ tiền lơng, phúc lợi, chế độ bảo
hiểm, những bảo đảm về danh dự nhân phẩm cho CBCC khi thi hành công vụ.
Những quy định này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của CBCC
đồng thời thể hiện trách nhiệm của cơ quan tổ chức trong quản lý sử dụng
CBCC tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý
CBCC vi phạm kỷ luật và pháp luật trong quá trình thực thi công vụ.
- Những quy định về vấn đề truy cứu trách nhiệm đối với CBCC khi họ
có hành vi vi phạm pháp luật.
CBCC có nghĩa vụ thực thi công vụ, nhiệm vụ của mình; Phải chịu trách
nhiệm trớc pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình; Cán bộ
lãnh đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của
CBCC thuộc quyền. Đây là cơ sở, phơng tiện để nhân dân tham gia kiểm tra
giám sát đối với CBCC khi thi hành công vụ góp phần ngăn chặn kịp thời các
hành vi lạm quyền, tham nhũng.
- Các quy định về hiệu lực của VBQPPL và thẩm quyền giải thích, hớng
dẫn thi hành pháp luật về CBCC. Từ sự phân tích có thể đi tới khái niệm pháp
luật CBCC nh sau:
Pháp luật CBCC bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành theo trình tự luật định nhằm quy định
vị trí, vai trò, chức năng của cán bộ, công chức; bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của cán bộ, công chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực công vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật cán bộ, công chức
13
Pháp luật CBCC có những đặc điểm chung bắt nguồn từ bản chất của
pháp luật và bản chất của nhà nớc, nhng nó có những dấu hiệu đặc trng bị quy
định bởi chính hệ thống những quy phạm pháp luật về CBCC. Do đó, pháp
luật CBCC có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Pháp luật CBCC ra đời từ rất sớm và không ngừng phát triển
theo sự phát triển của xã hội.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nhân dân ta đã đập tan bộ
máy thực dân phong kiến và bãi bỏ những trật tự bất công, vô lý đồng thời
cũng thực hiện sự tách biệt giữa CBCC với các tầng lớp lao động khác. Mặc dù
trong những năm đầu chính quyền còn non trẻ, đứng trớc vô vàn khó khăn nh-
ng quán triệt t tởng của Bác Hồ là vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Chính
phủ cách mạng lâm thời đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu để
thiết lập một chế độ công chức mới bắt nguồn từ hiến pháp 1946 và các văn
bản pháp luật khác. Đây chính là cơ sở pháp luật CBCC đầu tiên ở nớc ta và
nó là cơ sở cho việc hình thành các VBQPPL CBCC về sau.
Trong giai đoạn vừa kháng chiến vừa kiến quốc Chính phủ cũng đã
ban hành các VBQPPL làm cơ sở để quản lý đội ngũ CBCC. Trong giai đoạn
này tuy PLCBCC mới hình thành nhng đã thực sự góp phần làm tăng thêm
hiệu lực hoạt động của BMNN, củng cố chính quyền cách mạng, thúc đẩy
công cuộc kháng chiến kiến quốc đi đến thắng lợi.
Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất nớc nhà
dới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta tiến hành công cuộc xây dựng CNXH
trên phạm vi cả nớc. Nh vậy, khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới,
pháp luật CBCC đã tạo thành một hệ thống VBQPPL điều chỉnh các nội dung
có liên quan đến: Quyền lợi, trách nhiệm, kỷ luật cho toàn bộ cán bộ, công
nhân, viên chức là lực lợng lao động thờng xuyên. Do đó, tạo nên một đội ngũ
cán bộ, công nhân, viên chức đông đảo phấn đấu cho mục tiêu chiến lợc của
cách mạng cả nớc.
Có thể khẳng định rằng, pháp luật CBCC ở nớc ta ra đời từ rất sớm, phát
triển cùng thời gian đã có những đổi mới nhất định. Qua các thời kỳ khác
nhau của lịch sử pháp luật CBCC đã kịp thời thể chế hoá đờng lối, chủ trơng
chính sách của Đảng và Nhà nớc phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của đất nớc. Pháp luật CBCC hiện hành đã theo kịp tiến trình đổi mới toàn
diện của đất nớc. Do đó, pháp luật CBCC thờng đợc sửa đổi, bổ sung thờng
14
xuyên để phù hợp với thực tiễn hoặc theo nhận thức của giai cấp cầm quyền
trong từng thời điểm nhất định.
Thứ hai: Pháp luật CBCC có số lợng QPPL lớn và nằm trong nhiều
văn bản khác nhau.
Pháp luật CBCC là lĩnh vực pháp luật liên ngành, do đó các QPPL đợc
quy định trong nhiều văn bản nh: Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các
nghị định của Chính phủ trong đó pháp lệnh CBCC, các nghị định của Chính phủ
về CBCC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với vị trí là những văn bản chung.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là cơ sở cho việc hình thành pháp luật
CBCC. Hiến pháp quy định các nguyên tắc có tính chính trị - xã hội thông qua
việc quy định nghĩa vụ quyền lợi cho CBCC cũng nh quy định trình tự pháp lý
của việc thiết lập các chức vụ của CBCC đề thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn, chức năng của các cơ quan nhà nớc.
Pháp lệnh CBCC là văn bản trực tiếp và quan trọng nhất liên quan tới
mọi mặt đời sống của CBCC. Pháp lệnh xác định phạm vi CBCC; các quyền
nghĩa vụ của CBCC; các quy định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo,
bồi dỡng, khen thởng, kỷ luật đối với CBCC
Các nghị định của Chính phủ điều chỉnh các mặt cụ thể của chế độ công
vụ, hoạt động của CBCC nh: tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thởng, kỷ
luật, trách nhiệm bồi thờng vật chất.
Ngoài các luật, pháp lệnh và các VBQPPL dới luật khác có tính chất
chuyên ngành quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chức danh công
chức, chế độ công vụ của CBCC trong các ngành, lĩnh vực cụ thể.
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ giúp Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nớc đối với CBCC, ban hành các văn bản quy định tiêu
chuẩn chung các ngạch công chức, viên chức.
Các bộ, cơ quan ngang bộ trực tiếp ban hành các VBQPPL quy định chế
độ, trách nhiệm, tiêu chuẩn cụ thể của từng CBCC trong từng ngạch công
chức, viên chức áp dụng trong cơ quan, đơn vị.
Nh vậy, pháp luật CBCC nằm trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau
do cơ quan lập pháp, hành pháp, cơ quan nhà nớc ở Trung ơng cũng nh địa ph-
ơng ban hành.
Thứ ba: Phạm vi điều chỉnh của pháp luật CBCC rất rộng.
15
Do đặc điểm của hệ thống chính trị nớc ta, hoạt động do các cán bộ,
công chức, viên chức thực hiện không chỉ trong bộ máy của nhà nớc mà cả
trong các tổ chức Đảng, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
và nhiều tổ chức xã hội khác thực hiện. Do đó, phạm vi điều chỉnh của pháp
luật CBCC là rất rộng, điều chỉnh hoạt động của các đối tợng làm việc công
nghĩa là hoạt động của mọi cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các tổ
chức cấu thành của hệ thống chính trị phục vụ các công việc chung của xã hội.
Pháp lệnh CBCC sửa đổi, bổ sung năm 2003 đã phân định rõ đối tợng
điều chỉnh là cán bộ công chức hành chính, cán bộ viên chức sự nghiệp, bổ
sung cán bộ chuyên trách cấp xã và quy định thêm đối tợng là công chức dự bị
trong các cơ quan nhà nớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ t: Pháp luật CBCC có nội dung phong phú, quy định nhiều vấn đề
về CBCC.
Nội dung của pháp luật CBCC bao gồm rất nhiều các quy định có liên
quan đến hoạt động công vụ của CBCC nh: Tổ chức, tuyển dụng, sử dụng,
quản lý CBCC; quy định về điều kiện phát sinh thay đổi, chấm dứt quan hệ về
quyền nghĩa vụ, trách nhiệm của CBCC; địa vị pháp lý của CBCC; các chế độ
đãi ngộ, khen thởng, kỷ luật, truy cứu trách nhiệm CBCC.
Tuyển dụng CBCC đợc coi là nội dung quan trọng, là khâu đầu tiên xác
lập mối quan hệ giữa CBCC với nhà nớc. Do đó, vấn đề tuyển dụng phải bao
quát hết các nội dung: Điều kiện tuyển dụng, hình thức tuyển dụng và nội
dung tuyển dụng. Thông qua tuyển dụng lựa chọn đợc những ngời có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn theo quy định để bố trí cho CBCC vào một vị trí công việc
thích hợp.
Quản lý CBCC: Trong điều kiện xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN
dới sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải đổi mới cơ chế, chính sách quản lý, sử
dụng CBCC nhằm xây dựng đội ngũ CBCC trong sạch, vững mạnh, bảo đảm
tính hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính nhà nớc trong quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội.
Nội dung quản lý CBCC đợc quy định tại điều 34 pháp lệnh CBCC năm
2003 và đợc cụ thể hoá tại điều 40 NĐ117/2003/CP của Chính phủ về tuyển
dụng, sử dụng và quản lý CBCC.
Quyền và nghĩa vụ của CBCC: Đợc quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật về CBCC, những quy định về nghĩa vụ, quyền lợi của CBCC là
chuẩn mực để điều chỉnh hoạt động công vụ của CBCC. Quyền lợi của
16
CBCC thờng đi đôi với nghĩa vụ là yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện tốt các
nghĩa vụ. Quyền lợi là cơ sở bảo đảm tốt, là điều kiện phơng tiện để CBCC
hoàn thành các nghĩa vụ đợc giao. Quyền lợi của CBCC còn là yếu tố bảo đảm
cho CBCC có sự thăng tiến, vơn lên trong công việc vì nó bao gồm cả quyền
lợi về chính trị, tinh thần và vật chất. Cùng với quyền lợi CBCC còn thực hiện
các nghĩa vụ trong khi thi hành công vụ. Các nghĩa vụ chính là các quy định
pháp lý mà CBCC phải thực hiện hoặc không đợc thực hiện một hành vi nào
đó. Pháp luật CBCC cũng quy định trách nhiệm pháp lý trong trờng hợp CBCC
lợi dụng chức vụ quyền hạn, lạm quyền.
Ngoài những vấn đề trên pháp luật CBCC còn có những nội dung nh:
Quy định về bộ máy quản lý CBCC, vấn đề nâng ngạch, chuyển ngạch, quy định
về thời hiệu của các VBQPPL và thẩm quyền giải thích hớng dẫn thi hành.
Tóm lại, pháp luật về CBCC điều chỉnh rất nhiều các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình quản lý nhà nớc, quá trình tuyển chọn bổ nhiệm và
các vấn đề khác có liên quan đến hoạt động của CBCC.
1.2. Vai trò và tiêu chí đánh giá pháp luật cán bộ, công chức
1.2.1. Vai trò của pháp luật cán bộ, công chức
Một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách đang đợc Đảng và Nhà nớc
ta đặc biệt quan tâm trong công cuộc đổi mới hiện nay đó là việc tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nớc XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Trong BMNN, CBCC phải thật sự là công bộc, tận
tụy phục vụ nhân dân. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã
khẳng định: "Phải xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ
và công chức". Điều đó khẳng định tầm quan trọng và vai trò to lớn của pháp
luật CBCC vì nó là một trong những phơng tiện để tổ chức và quản lý nhà nớc.
Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta đang xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân, Nhà nớc lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu để điều
hành và quản lý đất nớc. Trong đó, CBCC đóng vai trò rất quan trọng là thực
thể và yếu tố cấu thành của BMNN và CBCC trong quá trình hoạt động cũng
phải dựa trên cơ sở pháp luật. Do đó, pháp luật CBCC đóng vai trò hết sức
quan trọng trong đời sống xã hội ở nớc ta hiện nay
* Pháp luật CBCC là một phơng tiện quan trọng trong tổ chức và hoạt
động quản lý nhà nớc.
Quản lý nhà nớc là lĩnh vực có quy mô và phạm vi hoạt động rất rộng,
bao gồm nhiều mối quan hệ cần điều chỉnh, trong đó quan hệ nhân sự là một
17
trong những vấn đề quan trọng. Pháp luật CBCC là tổng hợp các quy phạm
pháp luật liên quan đến hoạt động công vụ của BMNN.
Đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong xây
dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nớc, trong hoạt động công vụ. Hiệu
quả của bộ máy nhà nớc nói riêng và của toàn bộ hệ thống chính trị
nói chung xét đến cùng đợc quyết định bởi phẩm chất, năng lực,
hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức. Có thể nói đây là
vấn đề cực kỳ quan trọng đợc Đảng và Nhà nớc ta quan tâm trong
suốt quá trình từ khi xây dựng nhà nớc dân chủ nhân dân cho đến
nay [41, tr.33].
Các VBQPPL về CBCC quy định phạm vi, quyền hạn, nghĩa vụ và trách
nhiệm của CBCC, điều đó nói lên rằng, pháp luật CBCC đã tạo ra một hành
lang pháp lý để trong phạm vi đó CBCC hoạt động, thực thi nhiệm vụ của
mình trên cơ sở pháp luật.
Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lợng lao động nòng cốt có vai
trò quan trọng trong quản lý và tổ chức của Nhà nớc, nói cách khác,
công chức và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc có vai trò to lớn
trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của Nhà nớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhiệm vụ của họ là thực thi công
vụ, thực thi pháp luật, thực thi quyền lực nhà nớc. Đồng thời chính
họ đóng vai trò sáng tạo pháp luật, tham mu đề xuất, xây dựng hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh và tiến bộ của Nhà nớc pháp quyền của
dân, do dân, vì dân [41, tr.35].
Pháp luật CBCC quy định những việc mà CBCC không đợc làm đồng
thời cũng quy định những việc mà CBCC phải làm trong quá trình hoạt động
công vụ, phục vụ nhà nớc, phục vụ nhân dân, đây là những quy định vừa bảo
vệ đợc quyền, lợi ích hợp pháp của CBCC lại vừa bảo đảm cho các quyết định
quản lý nhà nớc đợc thực hiện một cách nghiêm chỉnh, phát huy cao độ trách
nhiệm, sự nghiêm minh trong hoạt động của CBCC, bảo đảm hoạt động quản
lý nhà nớc có hiệu lực, hiệu quả.
* Pháp luật CBCC là phơng tiện quan trọng bảo đảm quyền lực nhà n-
ớc đợc thực hiện, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân:
18
BMNN là một tổ chức công quyền quản lý mọi mặt đời sống xã hội
bằng pháp luật, việc thực thi nhiệm vụ đó đợc trao cho đội ngũ CBCC. Trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ đợc nhà nớc giao và thông qua hệ thống quy
phạm pháp luật CBCC, họ đợc quyền giải quyết mọi công việc theo đúng
nhiệm vụ, quyền hạn do luật định. Nên pháp luật CBCC bảo đảm cho quyền
lực Nhà nớc đợc thực hiện trong đời sống xã hội. CBCC thực hiện nghiêm chỉnh,
các mệnh lệnh, quyết định của pháp luật, hoàn thành tốt chức trách của mình là
bảo đảm đợc cho quyền lực nhà nớc đợc thực thi trong thực tế.
Trong khi thực thi nhiệm vụ, công vụ phải đề cao trách nhiệm trong bảo
vệ quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân, không đợc xâm phạm đến
quyền tự do, lợi ích hợp pháp nào của công dân, phải tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân, không quan liêu cửa quyền, có trách nhiệm. Các quy định của
pháp luật CBCC cũng nh các quy định của các ngành luật khác đều nhằm bảo
đảm các quyền tự do của con ngời. Đội ngũ CBCC thực thi công vụ, thực thi
pháp luật suy đến cùng là để bảo đảm công bằng, tự do hợp pháp của con ngời.
Pháp luật CBCC trao quyền hạn, nghĩa vụ cho CBCC thể hiện ở hai ph-
ơng diện là:
- Quan hệ giữa CBCC với Nhà nớc.
Pháp luật quy định các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, các bảo đảm pháp
lý, các việc CBCC không đợc làm là tạo hành lang pháp lý, điều kiện cho
CBCC hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình. Khi đợc xác định rõ ràng
bằng pháp luật các nghĩa vụ của mình thì ngời CBCC có trách nhiệm phải thực
hiện các chức trách và bổn phận để bảo vệ danh dự, uy tín của Nhà nớc. Quan
hệ giữa CBCC với Nhà nớc thể hiện nghĩa vụ trung thành, phục vụ nhà nớc,
phục vụ nhân dân đều đợc quy định trong các văn bản pháp luật có tầm quan
trọng. Ngợc lại để CBCC hoàn thành tốt nhiệm vụ pháp luật phải bảo đảm các
quyền cho CBCC để họ có thể yên tâm hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tóm
lại, trong mối quan hệ này pháp luật có vai trò xác định trách nhiệm của
CBCC đối với nhà nớc.
- Quan hệ giữa CBCC với công dân.
Trong Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nớc, nhân dân là chủ thể
tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nớc. Khi dân là chủ, dân làm
chủ địa vị cao nhất trong xã hội là dân, quyền lực nhà nớc thuộc về
19
nhân dân thì cán bộ, công chức nhà nớc không còn là phụ mẫu chi dân
(cha mẹ của dân) mà là những công bộc của dân [41, tr.50].
Trong mối quan hệ này pháp luật xác định CBCC là công bộc của dân,
có nghĩa vụ tận tụy phục vụ nhân dân. CBCC là ngời đại diện cho nhà nớc đợc
xác định trên cơ sở pháp luật trực tiếp giải quyết các yêu cầu có liên quan đến
quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Dù đợc nhà nớc trao quyền, uỷ quyền
nhng CBCC phải tuân thủ pháp luật. CBCC khác với những ngời dân bình th-
ờng đó là họ chỉ đợc làm những điều mà pháp luật cho phép, còn ngời dân đợc
làm tất cả những điều mà pháp luật không cấm. Khi giải quyết những vấn đề
có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, CBCC có nghĩa vụ
tôn trọng, bảo vệ quyền lợi ích, tài sản của nhân dân, không đợc vi phạm đến
quyền tự do và bất cứ lợi ích hợp pháp nào nhân dân tôn trọng lắng nghe ý
kiến của nhân dân, không quan liêu, cửa quyền vô trách nhiệm.
Quan hệ giữa nhà nớc và CBCC, giữa CBCC với nhân dân là mối quan
hệ giữa ngời phục vụ và ngời đợc phục vụ nhng đó là mối quan hệ bình đẳng
CBCC không đứng trên quần chúng, ban phát quyền cho dân. Điều chỉnh mối
quan hệ này nói lên vai trò của pháp luật CBCC trong việc bảo vệ lợi ích nhà
nớc, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
* Pháp luật CBCC là phơng tiện thể chế hoá đờng lối, chủ trơng, chính
sách của Đảng về xây dựng đội ngũ CBCC.
Nớc ta khác với các nớc trên thế giới, thể chế quản lý CBCC là một bộ
phận của hệ thống thể chế nhà nớc, là luật pháp hoá các nghị quyết, chiến lợc
cán bộ cũng nh các quyết định, quy định, hớng dẫn của Đảng về đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ, đánh giá, sử dụng, phân cấp quản lý cán bộ. Đây là sự thể hiện
nguyên tắc Đảng thống nhất, lãnh đạo công tác cán bộ, từ việc tuyển dụng sử
dụng, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức coi
trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực
trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công
chức, trớc hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý về đờng lối, chính
sách về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nớc. Sắp xếp
lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn.
Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lợng CBCC, kịp thời thay thế những
20
CBCC yếu kém và thoái hoá. Tăng cờng cán bộ cho cơ sở. Có chế
độ chính sách đào tạo, bồi dỡng đãi ngộ đối với cán bộ xã, phờng,
thị trấn [14, tr.135].
Nh vậy, đờng lối, chính sách của Đảng muốn đi vào thực tiễn cuộc sống
phải thông qua việc nhà nớc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các VBQPPL về
CBCC. Việc thể chế hoá các quan điểm, đờng lối, chính sách của Đảng về
công tác cán bộ tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm
chất và năng lực, thực sự là công bộc của dân, tận tụy phục vụ nhân dân đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc và xây dựng
Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trên cơ sở định hớng từ các văn bản, nghị quyết của Đảng, Nhà nớc ta
đã ban hành nhiều VBQPPL. Bớc đột phá đầu tiên là việc UBTVQH ban hành
pháp lệnh CBCC ngày 26/2/1998. Đây là sự thể chế hoá đờng lối của Đảng
trong tình hình mới, là cơ sở pháp luật để xây dựng đội ngũ CBCC. Sau đó
Chính phủ ban hành các nghị định điều chỉnh các vấn đề cụ thể Nh vậy,
chính hệ thống các VBQPPL CBCC đã đóng góp vai trò trong việc đa các chủ
trơng, đờng lối của Đảng vào thực tiễn của cuộc sống, góp phần vào việc nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ, đồng thời góp phần xây
dựng đợc một đội ngũ CBCC có phẩm chất, năng lực, có bản lĩnh chính trị
vững vàng đủ về số lợng, đồng bộ về cơ cấu.
Chúng ta đang tiến hành cải cách nền HCNN cho nên đòi hỏi phải phát
huy tốt vai trò của pháp luật nói chung và pháp luật CBCC nói riêng trong việc
duy trì, bảo vệ sự thông suốt của nền hành chính hiện đại. Pháp luật CBCC
góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình quản lý nhà nớc và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động công
vụ. Pháp luật CBCC tạo hành lang pháp lý cho CBCC thông qua việc quy định
cụ thể trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ cho CBCC thông qua đó góp phần
bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý nhà nớc.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá pháp luật cán bộ, công chức qua các
giai đoạn
Để đánh giá đợc hệ thống pháp luật CBCC qua các giai đoạn cần phải
có những tiêu chí cụ thể. Mỗi một tiêu chí đợc xem nh là một căn cứ để xác
định, xem xét về tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật CBCC ở những phơng
diện khác nhau. Vì pháp luật CBCC là một lĩnh vực pháp luật liên ngành (liên
21
quan tới nhiều ngành luật) nh đã phân tích cho nên, việc xác định các tiêu chí
để đánh giá hệ thống pháp luật CBCC là một việc không dễ dàng, tuy nhiên
xin nêu một số tiêu chí để đánh giá pháp luật CBCC nh sau:
* Tính toàn diện:
Để đánh giá hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật CBCC nói riêng
trớc hết phải xem xét hệ thống pháp luật đó đã toàn diện cha. Đây có thể coi là
tiêu chí đầu tiên để xem xét đánh giá pháp luật CBCC. Tính toàn diện nghĩa là
tất cả những vấn đề gì có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến CBCC đều phải
đợc quy định trong các VBQPPL. Chừng nào mà các vấn đề có liên quan đến
việc: sử dụng, quản lý CBCC; chế độ chính sách, khen thởng, kỷ luật; trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn; tiêu chuẩn, chức danh; đào tạo bồi dỡng còn
thiếu vắng nghĩa là pháp luật CBCC vẫn còn lỗ hổng cha toàn diện, cha bao
quát đợc hết các vấn đề thì khi đó hệ thống pháp luật CBCC vẫn cha đợc coi là
hoàn chỉnh và hoàn thiện.
Pháp luật CBCC phải xác định rõ đối tợng và phạm vi điều chỉnh, vì
vậy, đòi hỏi mọi vấn đề có liên quan đến CBCC phải đợc quy định đầy đủ, rõ
ràng, rành mạch trong một hệ thống VBQPPL thống nhất.
Tính toàn diện của hệ thống VBQPPL về CBCC còn thể hiện trong việc
ban hành đầy đủ, kịp thời các VBQPPL. Mặc dù, chúng ta đã có pháp lệnh
CBCC nhng còn thiếu các quy định về công vụ, thanh tra công vụ, quy chế
hoạt động công vụ, đạo đức công vụ đây là những vấn đề mà các nớc trên
thế giới đã xây dựng từ lâu. Có thể coi đây là một khiếm khuyết lớn trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật CBCC nh vậy dẫn đến tiêu chí về tính toàn diện
cha đáp ứng đợc. Đem đến hậu quả là hoạt động của CBCC nhà nớc cha đợc
bảo đảm về mặt pháp lý và gây ra những khó khăn cho việc xác lập kỷ c-
ơng, trật tự trong cơ quan tổ chức và nhất là trong hoạt động công vụ, giải
quyết công việc của CBCC. Khi nào mà trên thực tế hoạt động xây dựng
pháp luật cho ra các "sản phẩm" mang tính đồng bộ, bao quát toàn diện các
vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động công vụ, đến CBCC thì
tiêu chí về tính toàn diện của hệ thống pháp luật mới đợc đáp ứng.
Tóm lại, tiêu chí về tính toàn diện của hệ thống pháp luật CBCC là phải
xây dựng đợc một hệ thống các VBQPPL quy định tơng đối toàn diện các vấn
đề về CBCC.
* Tính đồng bộ:
22
Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về CBCC đòi hỏi phải xem xét
đánh giá xem giữa các văn bản, các quy định có thống nhất với nhau không,
có mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo với nhau không. Có thể khẳng định đây
là một tiêu chí rất quan trọng vì nó thể hiện trình độ lập pháp của các cơ quan
có thẩm quyền xây dựng và ban hành pháp luật của bất kỳ một quốc gia nào.
Tính đồng bộ là một tiêu chí quan trọng và không thể thiếu để đánh giá
một hệ thống pháp luật. Tính đồng bộ còn thể hiện thông qua việc quy định
thống nhất trong các VBQPPL mà thờng là đối tợng của nó có liên quan đến
nhiều ngành luật khác nhau, có tính đan xen với nhau mà điển hình là pháp
luật CBCC. Nếu không bảo đảm đợc tính thống nhất, đồng bộ trong các
VBQPPL CBCC sẽ dẫn tới hiện tợng xung đột pháp luật, làm giảm hoặc
triệt tiêu hiệu lực pháp lý của các văn bản. Bảo đảm tính đồng bộ sẽ góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều hành của BMNN và cả hệ
thống chính trị đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nớc.
Một hạn chế dễ nhận thấy nhất của hệ thống pháp luật về CBCC nhà nớc ở
nớc ta là hệ thống pháp luật CBCC còn cha đồng bộ, thiếu tính thống nhất,
còn có sự mâu thuẫn chồng chéo: "Các chế định cha đợc lợng hoá cụ thể
nên trong quá trình triển khai còn nhiều khó khăn, vớng mắc hoặc có nhiều
cách vận dụng khác nhau, tạo nên sự không nhất quán khi xem xét, giải
quyết công việc" [39, tr.70].
Do đặc điểm của chế độ chính trị nớc ta và đặc điểm của nền công vụ
bắt nguồn từ một thực tế khách quan là Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, nhà n-
ớc có bộ máy của Nhà nớc nhng tất cả đều đặt dới sự lãnh đạo của Đảng. Vì
vậy, tiêu chí về tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật CBCC đòi hỏi các cơ
quan có thẩm quyền của Nhà nớc về sử dụng, quản lý CBCC và cả các cơ quan
của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội phải có sự thống nhất cao khi định ra
các chính sách đối với CBCC để tránh hiện tợng có sự chênh lệch, vênh nhau
trong việc thực thi chính sách, chế độ đối với CBCC.
Tính đồng bộ còn thể hiện ở sự hài hoà nhng rõ ràng, rành mạch giữa
các quy định. Trên thực tế hệ thống pháp luật CBCC của chúng ta cha quy
định rõ giữa nghĩa vụ của CBCC với các quy định về tiêu chuẩn đạo đức của
CBCC khi tham gia hoạt động công vụ mà các quy định này còn nằm tản mạn
trong các VBQPPL khác nhau. Nh vậy, khi tiêu chí về tính đồng bộ, thống
nhất của hệ thống pháp luật CBCC không đợc đảm bảo sẽ có ảnh hởng không
23
nhỏ đến chất lợng cũng nh hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nớc
và chất lợng đội ngũ CBCC.
* Tính khả thi:
Pháp luật về CBCC phải bảo đảm tính khả thi, tính khả thi ở đây nghĩa
là yêu cầu, đòi hỏi các VBQPPL về CBCC phải phù hợp với thực tiễn cuộc
sống, đáp ứng đợc các yêu cầu khách quan của thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn
chính là nơi phản ánh và cũng là nơi để kiểm nghiệm tính đúng đắn của các
chủ trơng, đờng lối, chính sách của Đảng đợc đa vào cuộc sống thông qua hệ
thống pháp luật của Nhà nớc. Vì vậy, có thể coi đây là một tiêu chí quan trọng
để đánh giá xem xét sự điều chỉnh của pháp luật đối với CBCC có phù hợp
không, có kịp thời thể chế hoá chủ trơng, chính sách của Đảng, phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc hay không.
Vì vậy, tiêu chí về tính khả thi của hệ thống pháp luật đòi hỏi pháp luật
phải đợc xây dựng ban hành căn cứ vào thực tiễn khách quan của cuộc sống,
phải đặt trong mối liên hệ giữa sự phát triển của kinh tế - xã hội với xây dựng
pháp luật. Do đó, khi xây dựng, ban hành các VBQPPL phải: nghiên cứu kỹ
thực tiễn xã hội; các quá trình kinh tế - chính trị của đất nớc; phải xuất phát
từ thực trạng và những đòi hỏi khách quan của việc xây dựng đội ngũ
CBCC; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm lịch sử, t tởng, văn
hoá, truyền thống dân tộc và chủ trơng, đờng lối, chính sách của Đảng về
đổi mới hệ thống chính trị; xuất phát từ thực tiễn xây dựng Nhà nớc pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và công cuộc cải cách nền hành chính
nhà nớc.
Nhìn chung, pháp luật CBCC của chúng ta qua các thời kỳ lịch sử đã
bám sát các nhiệm vụ chính trị của đất nớc do ĐCSVN đề ra, góp phần xây
dựng đợc đội ngũ CBCC ngày càng trởng thành, củng cố tăng cờng hiệu lực,
hiệu quả của BMNN. Hệ thống pháp luật CBCC đã phần nào đáp ứng đợc tiêu
chí về tính khả thi, do vậy, đã đi vào thực tế cuộc sống. Pháp luật hiện hành đã
phần nào phản ánh đợc tiến trình đổi mới toàn diện của đất nớc. Việc điều
chỉnh của pháp luật đối với các lĩnh vực có liên quan đến CBCC đều đã gắn
với việc thực hiện cải cách nền hành chính nhà nớc. Pháp lệnh CBCC là cơ sở
pháp lý quan trọng để thực hiện chế độ CBCC trong công cuộc đổi mới; là cơ
sở cho việc xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực
24
góp phần xây dựng nhà nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững
mạnh.
Nh vậy, pháp luật nói chung cũng nh pháp luật CBCC nói riêng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, từ đòi hỏi của cuộc sống đa vào thực tiễn
kiểm nghiệm để rút ra "chân lý" đúng đắn và nó không chỉ phù hợp với hiện
tại mà còn vợt cả thời gian để thích ứng với tơng lai. Điều này đòi hỏi khả
năng của các nhà làm luật là phải nắm bắt đợc bản chất và quy luật của vấn
đề.
* Tính khoa học:
Tính khoa học trớc tiên thể hiện ở hình thức và nội dung của hệ thống
VBQPPL CBCC. Từ các VBQPPL có giá trị cao đến các văn bản hớng dẫn thi
hành đều phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và bảo đảm tính lôgíc.
Pháp luật CBCC đợc quy định trong nhiều VBQPPL nhng đòi hỏi phải
đợc sắp xếp theo trật tự, thứ bậc và phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nh:
Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định, thông t. Tất cả các
VBQPPL do các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành đều phải trên cơ sở
Hiến pháp - là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là cơ sở hình thành pháp
luật CBCC.
Ngoài ra, tính khoa học còn thể hiện ở tính lôgíc nghĩa là khi xây dựng
và ban hành các VBQPPL CBCC phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ
theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, khi ban hành VBQPPL nói chung,
pháp luật CBCC nói riêng các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm tổ
chức thảo luận, lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, ban ngành có liên quan,
trờng hợp cần thiết phải lấy ý kiến đóng góp của nhân dân. Vấn đề này phải đ-
ợc thực hiện theo luật ban hành VBQPPL và đây cũng là một trong những
cách thức để nâng cao chất lợng điều chỉnh của pháp luật CBCC.
Tính khoa học còn đòi hỏi trong hoạt động xây dựng pháp luật phải biết
sử dụng tổng hợp các tri thức và phơng pháp khoa học để xác định quan hệ
nào cần điều chỉnh bằng pháp luật, nhu cầu điều chỉnh của pháp luật nên đặt ở
mức độ nào và theo phơng thức nào, có đảm bảo, có hiện thực không, phải dự
trù đợc những hậu quả tích cực, tiêu cực sẽ nh thế nào. Đánh giá pháp luật
CBCC của chúng ta trong các giai đoạn lịch sử cũng nh hiện nay chúng ta thấy
cha đáp ứng đợc tiêu chí này. Một số quy phạm pháp luật khi đặt ra cha tính
hết khả năng thực thi và những hậu quả tiêu cực xảy ra trong thực tế. Đây
25