Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

LUẬN VĂN: Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.81 KB, 115 trang )











LUẬN VĂN:

Lịch sử phát triển và phương hướng
hoàn thiện pháp luật cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay






Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách đang được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm trong công cuộc đổi mới hiện nay đó là việc tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả. Trong bộ máy Nhà nước, cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc
tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Pháp luật cán bộ, công chức là một hệ thống những QPPL điều chỉnh các
quan hệ xã hội về cán bộ, công chức. Quy định vị trí vai trò của cán bộ, công chức


trong bộ máy Nhà nước; quy định chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công
chức; quy định việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, công vụ sẽ phát sinh cả quyền lợi và nghĩa vụ từ hai phía là
nhà nước và cán bộ công chức. Để điều chỉnh được mối quan hệ này thì phải có
pháp luật cán bộ, công chức. Do đó, pháp luật cán bộ, công chức có vai trò hết sức
quan trọng trong cả quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện bộ máy Nhà nước.
Đặc biệt, trong quá trình chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân. Pháp luật cán bộ, công chức là phương tiện để thể chế hoá
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy Nghị quyết
Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
Xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ, công
chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm thẩm quyền, quyền lợi và kỷ luật
công chức hành chính. Quy định các chế độ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng
công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình
độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị có

tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi
thi hành công vụ [13, tr.132].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, bảo đảm
tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức trước
hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý về đường lối, chính sách, về kiến
thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp đội ngũ cán bộ,
công chức theo đúng chức danh tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá
chất lượng cán bộ, công chức kịp thời thay thế cán bộ, công chức yếu
kém, thoái hoá. Tăng cường cán bộ, có chế độ chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [14, tr.135].
Điều đó khẳng định tầm quan trọng và vai trò to lớn của pháp luật CBCC.
Trên cơ sở định hướng từ các văn bản, nghị quyết của Đảng, nhà nước ta đã ban

hành nhiều VBQPPL tạo thành một hệ thống pháp luật CBCC mà bước đột phá đầu
tiên là việc UBTVQH ban hành pháp lệnh CBCC ngày 26/02/1998. Sau một thời
gian thực hiện pháp lệnh CBCC năm 1998 bộc lộ một số hạn chế trong quá trình
quản lý, sử dụng đội ngũ CBCC. Do đó, UBTVQH đã ban hành pháp lệnh sửa đổi,
bổ sung năm 2002 và hiện nay là pháp lệnh CBCC sửa đổi, bổ sung năm 2003.
Trong suốt cả quá trình từ khi thành lập nước VNDCCH cho đến hiện nay
pháp luật CBCC nói chung và pháp lệnh CBCC nói riêng đã phần nào bám sát các
nhiệm vụ chính trị, đã cụ thể hoá được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và nhà nước về công tác cán bộ.
Ngay sau khi thành lập nước VNDCCH Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh 76/SL ban hành quy chế công chức Việt Nam mặc dù do hoàn cảnh chiến
tranh, quy chế không được áp dụng nhưng nó vẫn có giá trị cho việc hoàn thiện hệ

thống pháp luật cán bộ, công chức sau này. Trong điều kiện đất nước vừa có hoà
bình, vừa có chiến tranh các VBQPPL về cán bộ, công chức là cơ sở pháp lý quan
trọng để nhà nước quản lý có hiệu quả đối với đội ngũ cán bộ, công nhân, viên
chức. Do đó, pháp luật cán bộ, công chức thời kỳ này có tác dụng huy động được
đông đảo cán bộ, công chức tham gia vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH đồng thời đóng góp công sức vào công cuộc giải phóng miền Nam.
Trong hơn 20 năm đổi mới, pháp luật cán bộ, công chức đã có bước phát
triển nhất định xuất phát từ đường lối đổi mới và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Có thể khẳng định rằng, pháp luật cán bộ, công chức qua các thời kỳ lịch sử
đã theo kịp tiến trình đổi mới toàn diện của đất nước tạo ra một đội ngũ cán bộ,
công chức cán bộ, công chức ngày càng trưởng thành, có phẩm chất đạo đức, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ góp phần vào công cuộc cải cách hành chính và xây dựng
BMNN Việt Nam trong sạch vững mạnh.
Tuy nhiên, pháp luật cán bộ, công chức trong các thời kỳ lịch sử cũng như
hiện nay còn bộc lộ một số hạn chế như: Số lượng các VBQPPL về cán bộ, công
chức được ban hành khá nhiều nhưng hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật còn
thiếu tính ổn định chưa tương xứng với yêu cầu của một nền công vụ hiện đại; pháp

lệnh cán bộ, công chức năm 1998 dù đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng vẫn
còn tản mạn, chắp vá; hệ thống các VBQPPL còn thiếu tính đồng bộ, nhiều chồng
chéo, không thống nhất. Vì vậy, pháp luật cán bộ, công chức qua các giai đoạn lịch
sử vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng
một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên.
Mục tiêu chung của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001-2010 là: “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc
của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước”.
Một trong những mục tiêu cụ thể của chương trình là hoàn thiện hệ thống thể
chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Vì thế, việc đổi mới hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách về cán
bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước là
một yêu cầu cần thiết. Mặt khác, chúng ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, là thành viên của tổ chức thương mại Thế giới đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công
chức ngoài phẩm chất, năng lực chuyên môn nghiệp vụ còn phải có trình độ quản lý
nhà nước, ngoại ngữ, tin học, am hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế được trang bị
kiến thức về hội nhập đòi hỏi pháp luật cán bộ, công chức phải được hoàn thiện
theo xu hướng đó.
Xuất phát từ những lý do như trên mà tác giả đã chọn đề tài “Lịch sử phát
triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện
nay”, để nghiên cứu, viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề pháp luật CBCC, hoàn thiện pháp luật CBCC đã được một số tác giả
quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế hiện nay đã có các công trình khoa học nghiên
cứu và đề cập đến vấn đề này như sau:
- “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức nhà nước ở nước ta’’

của tác giả Nguyễn Văn Tâm, luận án PTS luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1997.
Đây là một công trình khoa học tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước nhằm tạo môi

trường pháp lý ổn định cho chế độ công chức nhà nước phù hợp với tình hình, đặc
điểm của hệ thống chính trị nước ta.
- “Pháp luật về công chức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc
sĩ của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh, bảo vệ tại Viện Nhà nước pháp luật năm
2005.
Đây là một công trình trình bày cơ sở lý luận về công chức, pháp luật về công
chức Việt Nam; nghiên cứu thực trạng pháp luật công chức Việt Nam; những điểm
mạnh và những vấn đề còn tồn tại của pháp luật công chức Việt Nam và tác giả đã
đề xuất một số kiến nghị nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật về công chức.
- “Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính ở Việt Nam hiện nay”, luận
văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Minh Triết bảo vệ tại học viện Chính trị guốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2003.
Công trình này đã đưa ra một số vấn đề cơ bản có tính lý luận về công chức
hành chính nhà nước đồng thời có phân tích đánh giá tổng quát thực trạng pháp luật
đưa ra kiến nghị giải pháp hoàn thiện.
- “Đổi mới và hoàn thiện chế độ công chức Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”, của tác giả Trịnh Xuân Toản, luận án thạc sĩ luật học bảo vệ tại Viện Nghiên
cứu nhà nước và pháp luật, năm 1997.
- “Hoàn thiện pháp luật công chức ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay” của
tác giả Mai Lan Hương, luận án thạc sĩ luật học bảo vệ tại Học viện Hành chính
quốc gia, năm 1999.
Công trình đã nêu những nội dung cơ bản về pháp luật công chức nhà nước,
trọng tâm là đánh giá chế độ công chức cũng như pháp luật công chức hiện hành
trên cơ sở pháp lệnh cán bộ công chức mới ban hành năm 1998. Đồng thời có đề
xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật công chức nhà nước.


Ngoài ra còn có các công trình khoa học có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến vấn đề pháp luật cán bộ công chức và hoàn thiện pháp luật cán bộ công chức.
- “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác giả PGS, TS Nguyễn Phú
Trọng và PGS, TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001.
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức” của TS
Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) Nxb Chính trị guốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- “Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay” của tác
giả Tô Tử Hạ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- “Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức nhà nước” của Thang
Văn Phúc, Tạp chí Cộng sản, số 22+23 - 2003.
- “Đổi mới, hoàn thiện về cán bộ, công chức nhà nước” của tác giả Trịnh
Xuân Toản, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 - 2003.
- “Vài suy nghĩ về công tác quản lý đội ngũ, cán bộ công chức trong bộ máy nhà
nước” của Ngọc Giang và Phạm Thắng của Tạp chí Quản lý nhà nước.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” của TS Nguyễn Minh Phương, Tạp chí Lý luận chính trị,
tháng 1 - 2006.
- “Đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta” của tác giả Nguyễn Văn Vinh. Tạp
chí Hoạt động khoa học, số 4 - 2002.

- “Về xây dựng cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan hành chính nhà
nước” của tác giả Vũ Đăng Minh, Tạp chí Quản lý nhà nước.
- “Hoàn thiện pháp luật về công vụ, công chức và trách nhiệm pháp lý của
công chức” của tác giả Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2 - 2005.
- “Công tác kế hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức hiện nay” của tác
giả Ngô Thành Can, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 12 - 2002.

- “Những điểm mới của pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh
cán bộ cán bộ, công chức” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Tạp chí Quản lý nhà
nước.
- “Những quan điểm cơ bản xây dựng đội ngũ công chức hành chính Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của tác giả Chu Văn Thành và Hà Quang Ngọc,
Tạp chí Cộng sản, số 19 - 2003.
Trên đây là những công trình, tài liệu làm nguồn tư liệu tham khảo có giá trị
mang tính lý luận và thực tiễn cao. Nhưng các công trình chỉ dừng lại nghiên cứu ở
góc độ lý luận chung các vấn đề về pháp luật cán bộ, công chức; vấn đề xây dựng,
hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức mà chưa có công trình nào đề cập đến vấn
đề về lịch sử pháp triển của pháp luật cán bộ, công chức qua các thời kỳ lịch sử ở
nước ta. Vì vậy, chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài này góp phần nhỏ bé
vào việc tổng kết các giai đoạn lịch sử của pháp luật cán bộ, công chức để giải
quyết những vấn đề mà thực tiễn hiện nay đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp luật
CBCC; phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về CBCC qua các thời kỳ lịch sử ở

Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu,
phân tích, đánh giá, luận văn đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
CBCC ở Vệt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Xem xét giải quyết một số vấn đề có tính lý luận cơ bản về pháp luật CBCC
như: Khái niệm pháp luật cán bộ, công chức; đặc điểm; những tiêu chí đánh giá pháp luật
cán bộ, công chức qua các giai đoạn; những thành tựu của pháp luật CBCC trên thế giới
Việt Nam có thể tham khảo.
- Làm rõ quá trình hình thành phát triển và thực trạng pháp luật cán bộ công chức
qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam

- Đưa ra các quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật CBCC ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về cán bộ, công chức là một lĩnh vực rộng, liên ngành, có sự tham
gia điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau, nhưng trong khuôn khổ của luận văn
chỉ giới hạn nghiên cứu pháp luật CBCC dưới góc độ lý luận lịch sử nhà nước và
pháp luật.
CBCC theo quy định hiện nay có phạm vi rất rộng, không chỉ trong bộ máy
hành chính nhà nước mà cả trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, trong
các tổ chức đảng, đoàn thể. Luận văn đề cập đến các vấn đề có liên quan đến
CBCC ở tất cả các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở trong các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đảng, đoàn thể.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Cùng với các quan điểm
của Đảng và nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật nói chung
và pháp luật về CBCC nói riêng.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là các phương pháp của truyền
thống của khoa học xã hội: Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống, phương
pháp so sánh, phương pháp xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật CBCC ở Việt Nam.
- Khái quát được quá trình phát triển của pháp luật CBCC qua các thời kỳ cách
mạng ở Việt Nam, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá về hệ thống pháp luật
CBCC hiện hành.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật CBCC Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
có liên quan đến pháp luật CBCC như: Phân tích để làm rõ khái niệm pháp luật
CBCC; phân tích các đặc điểm cũng như đưa ra tiêu chí đánh giá pháp luật CBCC
đồng thời, tổng kết đánh giá pháp luật CBCC qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam
cũng như pháp luật CBCC hiện hành trên cơ sở đó để đưa ra phương hướng, giải
pháp hoàn thiện pháp luật CBCC. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền trong việc nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện pháp luật CBCC ở Việt Nam hiện
nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.

Chương 1
những vấn đề lý luận về quá trình phát triển
và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở Việt Nam

1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm pháp luật cán bộ, công chức
Nhà nước XHCN ra đời đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ CBCC nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, đáp ứng
cho sự vận hành của BMNN. Cùng với quá trình tổ chức nhân sự là việc ban hành
các VBQPPL, điều chỉnh các quan hệ công vụ, quy định các vấn đề liên quan đến việc
thiết lập các chức vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của CBCC và nhiều vấn đề
khác có liên quan đến hoạt động công vụ của Nhà nước.
Pháp luật CBCC là hệ thống các quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật
khác nhau do các cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương ban hành. Nó là
một hệ thống những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về CBCC,

gọi là quan hệ công vụ, là quan hệ của các cơ quan nhà nước trong việc lựa chọn
con người để uỷ thác, trao quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ và công vụ nhân danh
nhà nước. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ thì phát sinh cả quyền lợi và
nghĩa vụ từ hai phía là nhà nước và CBCC. Để bảo vệ được mối quan hệ này hay
nói cách khác là bảo vệ quyền và nghĩa vụ của hai bên thì phải có pháp luật điều
chỉnh nó. Pháp luật CBCC có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển
và hoàn thiện chế độ công vụ của Nhà nước. Chúng ta đang trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân điều đó đặt ra cho chúng
ta những nhiệm vụ to lớn và cấp bách trong tổ chức và hoạt động của BMNN. Đó là

cải cách nền hành chính theo hướng xây dựng một nền hành chính dân chủ trong
sạch, vững mạnh chuyên nghiệp, hiện đại hoá hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Muốn thực hiện được điều đó, chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý cho hoạt động của đội ngũ CBCC và xây dựng thể chế, cơ chế để quản lý CBCC
phù hợp với xu hướng cải cách, hoàn thiện BMNN hiện nay thông qua các quy
phạm pháp luật về CBCC.
Pháp luật CBCC có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho việc xây
dựng, phát triển và vận hành của chế độ CBCC. Vì vậy, hầu hết các nước trên thế
giới đều quan tâm, coi trọng việc xây dựng pháp luật CBCC. Sự ra đời của Nhà
nước gắn liền với chức năng tổ chức nhân sự, phải có một lớp người đặc biệt
chuyên làm chức năng quản lý và thực thi quyền lực để duy trì cho hoạt động của
BMNN.
Hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về pháp luật CBCC. Có ý kiến
cho rằng: Pháp luật CBCC là những chính sách về CBCC của Nhà nước. Có người lại
cho rằng: Pháp luật CBCC bao gồm các văn kiện có tính quy phạm liên quan đến việc
quản lý nhân sự trong chính sách của chế độ công chức nhà nước [8, tr.41].
Theo một số tác giả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây do đặc điểm về chính
trị, một số văn bản của Đảng quy định về vấn đề CBCC cũng có hiệu lực như các quy
phạm pháp luật CBCC mà các cơ quan Đảng, chính quyền nhà nước cấp dưới có trách
nhiệm phải thi hành trong thực tiễn quản lý nhà nước.

Các quan điểm trên chưa đi sâu nghiên cứu ý nghĩa, nội dung, bản chất cũng
như hình thức của pháp luật CBCC nên chưa đưa ra được quan niệm có tính khái
quát nhất về vấn đề này.
Trên thực tế, đội ngũ CBCC là những con người, những nhân vật được nhà
nước lựa chọn, giao cho họ một nhiệm vụ cụ thể để họ hoàn thành chức năng quản
lý nhà nước. Đội ngũ này nhận sự "uỷ thác", "uỷ quyền" của Nhà nước, họ được lấy

danh nghĩa nhà nước để thi hành chức trách, nhiệm vụ vì thế, mà nảy sinh quan hệ
xã hội về CBCC nhà nước.
PGS,TS Phạm Hồng Thái đưa ra định nghĩa:
Pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức nhà nước là tổng thể các
quy phạm pháp luật thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định các nguyên
tắc của chế độ công vụ, trật tự hoạt động công vụ, điều chỉnh các hoạt
động về công vụ, cán bộ, công chức bao gồm: Thiết lập các chức vụ cán
bộ, công chức; các quyền nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong quá trình
thực thi công vụ; việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật
cán bộ, công chức và các vấn đề khác trong chính sách cán bộ, công
chức nhà nước [51, tr.115].
Do pháp luật CBCC là lĩnh vực pháp luật liên ngành bao gồm các quy phạm
pháp luật trong các ngành luật như: Luật Lao động, Luật Hình sự, Luật Hành chính.
Trong đó, điều chỉnh các quan hệ xã hội trực tiếp liên quan tới CBCC ở các vấn đề
như: chế độ làm việc, chế độ nghỉ ngơi, chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội, ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ thai sản, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất do
Luật Lao động điều chỉnh. Luật Hình sự thì quy định một số tội danh chỉ do chủ thể
là CBCC thực hiện trong khi thi hành công vụ và một số quy phạm pháp luật quy
định về vấn đề tội phạm chức vụ. Luật Dân sự điều chỉnh, quy định về vấn đề bồi
thường thiệt hại do CBCC nhà nước gây ra. Như vậy, các quy phạm pháp luật về
CBCC ở nước ta nằm trong nhiều ngành luật khác nhau
Như vậy, thực chất pháp luật CBCC là một hệ thống các VBQPPL quy định

những vấn đề sau đây:

- Những quy định về địa vị pháp lý của CBCC: Địa vị pháp lý của CBCC thể
hiện rõ mối quan hệ của Nhà nước và vị trí của bản thân CBCC thông qua quyền
hạn và trách nhiệm của họ được quy định trong pháp luật.
Quyền lợi của CBCC là những gì mà nhà nước quy định cho họ được hưởng
do hoạt động nhiệm vụ, công vụ của họ mang lại như: CBCC được hưởng tiền
lương và các chế độ chính sách khác; Có quyền tham gia các hoạt động chính trị -
xã hội; Được tạo điều kiện để học tập nâng cao trình độ. Xét ở một góc độ nhất định
quyền hạn của CBCC bao gồm các quyền gắn với nghĩa vụ của CBCC, nhưng
không phải bất cứ quyền và nghĩa vụ nào cũng là quyền hạn mà quyền hạn của
CBCC chỉ bao hàm những quyền và nghĩa vụ mang tính chất quyền lực và có giá trị
bắt buộc đối với các chủ thể khác. CBCC không được tự ý mở rộng, thu hẹp hay
không thực hiện quyền hạn đó mà buộc phải thực hiện quyền hạn của mình một
cách tích cực để hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ được giao.
- Các quy định về điều kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ về quyền
hạn, trách nhiệm của CBCC. Đó là các vấn đề về tuyển dụng, bổ nhiệm CBCC,
thăng chức, cách chức, thuyên chuyển, điều động CBCC, khen thưởng, kỷ luật, hưu
trí và sa thải
Đây là những vấn đề rất quan trọng trong pháp luật CBCC vì nó là những
yếu tố để nhà nước có thể lựa chọn được những CBCC có đủ điều kiện, tiêu chuẩn
theo quy định và bố trí họ vào một vị trí công việc thích hợp mà họ có đủ khả năng
để hoàn thành những nhiệm vụ mà nhà nước giao phó.
- Các quy định về tổ chức quản lý, sử dụng CBCC, cơ quan quản lí CBCC,
các quy định về chế độ đào tạo, bồi dưỡng phân loại, xếp hạng, đánh giá CBCC.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lạnh đạo
của Đảng thì vấn đề quản lý sử dụng CBCC là một vấn đề quan trọng nhằm xây
dựng được một đội ngũ CBCC trong sạch vững mạnh. Sử dụng CBCC không chỉ là

vấn đề có tính kỹ thuật, khoa học mà là cả một nghệ thuật. Việc sử dụng CBCC có

hiệu quả đòi hỏi các nhà tổ chức, quản lý phải thực sự sáng tạo vì tiềm năng của con
người, của nhân loại là vô hạn còn khả năng của mỗi cá nhân lại là hữu hạn. Đây là
vấn đề quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta, việc sử dụng
CBCC cần kết hợp hai yếu tố đó là các tiêu chuẩn do nhà nước quy định và phẩm
chất, năng lực của CBCC. Ngoài ra, sử dụng CBCC phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa sự đóng góp của CBCC và các chế độ vật chất mà họ được hưởng.
- Những quy định về đãi ngộ như chế độ tiền lương, phúc lợi, chế độ bảo hiểm,
những bảo đảm về danh dự nhân phẩm cho CBCC khi thi hành công vụ.
Những quy định này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của CBCC đồng
thời thể hiện trách nhiệm của cơ quan tổ chức trong quản lý sử dụng CBCC tạo điều
kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý CBCC vi phạm kỷ
luật và pháp luật trong quá trình thực thi công vụ.
- Những quy định về vấn đề truy cứu trách nhiệm đối với CBCC khi họ có
hành vi vi phạm pháp luật.
CBCC có nghĩa vụ thực thi công vụ, nhiệm vụ của mình; Phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình; Cán bộ lãnh
đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của CBCC thuộc
quyền. Đây là cơ sở, phương tiện để nhân dân tham gia kiểm tra giám sát đối với
CBCC khi thi hành công vụ góp phần ngăn chặn kịp thời các hành vi lạm quyền,
tham nhũng.
- Các quy định về hiệu lực của VBQPPL và thẩm quyền giải thích, hướng
dẫn thi hành pháp luật về CBCC. Từ sự phân tích có thể đi tới khái niệm pháp luật
CBCC như sau:

Pháp luật CBCC bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự luật định nhằm quy định vị trí, vai
trò, chức năng của cán bộ, công chức; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
cán bộ, công chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực công
vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật cán bộ, công chức

Pháp luật CBCC có những đặc điểm chung bắt nguồn từ bản chất của pháp
luật và bản chất của nhà nước, nhưng nó có những dấu hiệu đặc trưng bị quy định
bởi chính hệ thống những quy phạm pháp luật về CBCC. Do đó, pháp luật CBCC
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Pháp luật CBCC ra đời từ rất sớm và không ngừng phát triển theo
sự phát triển của xã hội.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nhân dân ta đã đập tan bộ máy
thực dân phong kiến và bãi bỏ những trật tự bất công, vô lý đồng thời cũng thực
hiện sự tách biệt giữa CBCC với các tầng lớp lao động khác. Mặc dù trong những
năm đầu chính quyền còn non trẻ, đứng trước vô vàn khó khăn nhưng quán triệt tư
tưởng của Bác Hồ là “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc’’, Chính phủ cách mạng lâm
thời đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu để thiết lập một chế độ công
chức mới bắt nguồn từ hiến pháp 1946 và các văn bản pháp luật khác. Đây chính là
cơ sở pháp luật CBCC đầu tiên ở nước ta và nó là cơ sở cho việc hình thành các
VBQPPL CBCC về sau.
Trong giai đoạn “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” Chính phủ cũng đã ban
hành các VBQPPL làm cơ sở để quản lý đội ngũ CBCC. Trong giai đoạn này tuy
PLCBCC mới hình thành nhưng đã thực sự góp phần làm tăng thêm hiệu lực hoạt
động của BMNN, củng cố chính quyền cách mạng, thúc đẩy công cuộc “kháng
chiến kiến quốc” đi đến thắng lợi.

Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta tiến hành công cuộc xây dựng CNXH trên
phạm vi cả nước. Như vậy, khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới, pháp
luật CBCC đã tạo thành một hệ thống VBQPPL điều chỉnh các nội dung có liên
quan đến: Quyền lợi, trách nhiệm, kỷ luật cho toàn bộ cán bộ, công nhân, viên chức
là lực lượng lao động thường xuyên. Do đó, tạo nên một đội ngũ cán bộ, công nhân,
viên chức đông đảo phấn đấu cho mục tiêu chiến lược của cách mạng cả nước.
Có thể khẳng định rằng, pháp luật CBCC ở nước ta ra đời từ rất sớm, phát
triển cùng thời gian đã có những đổi mới nhất định. Qua các thời kỳ khác nhau của

lịch sử pháp luật CBCC đã kịp thời thể chế hoá đường lối, chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Pháp luật CBCC hiện hành đã theo kịp tiến trình đổi mới toàn diện của đất
nước. Do đó, pháp luật CBCC thường được sửa đổi, bổ sung thường xuyên để phù
hợp với thực tiễn hoặc theo nhận thức của giai cấp cầm quyền trong từng thời điểm
nhất định.
Thứ hai: Pháp luật CBCC có số lượng QPPL lớn và nằm trong nhiều văn
bản khác nhau.
Pháp luật CBCC là lĩnh vực pháp luật liên ngành, do đó các QPPL được quy
định trong nhiều văn bản như: Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các nghị định
của Chính phủ trong đó pháp lệnh CBCC, các nghị định của Chính phủ về CBCC có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng với vị trí là những văn bản chung.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là cơ sở cho việc hình thành pháp luật CBCC.
Hiến pháp quy định các nguyên tắc có tính chính trị - xã hội thông qua việc quy
định nghĩa vụ quyền lợi cho CBCC cũng như quy định trình tự pháp lý của việc
thiết lập các chức vụ của CBCC đề thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng
của các cơ quan nhà nước.

Pháp lệnh CBCC là văn bản trực tiếp và quan trọng nhất liên quan tới mọi
mặt đời sống của CBCC. Pháp lệnh xác định phạm vi CBCC; các quyền nghĩa vụ
của CBCC; các quy định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen
thưởng, kỷ luật đối với CBCC…
Các nghị định của Chính phủ điều chỉnh các mặt cụ thể của chế độ công vụ,
hoạt động của CBCC như: tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách
nhiệm bồi thường vật chất.
Ngoài các luật, pháp lệnh và các VBQPPL dưới luật khác có tính chất
chuyên ngành quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chức danh công chức,
chế độ công vụ của CBCC trong các ngành, lĩnh vực cụ thể.
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ giúp Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với CBCC, ban hành các văn bản quy định tiêu chuẩn chung

các ngạch công chức, viên chức.
Các bộ, cơ quan ngang bộ trực tiếp ban hành các VBQPPL quy định chế độ,
trách nhiệm, tiêu chuẩn cụ thể của từng CBCC trong từng ngạch công chức, viên
chức áp dụng trong cơ quan, đơn vị.
Như vậy, pháp luật CBCC nằm trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau do
cơ quan lập pháp, hành pháp, cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như địa phương
ban hành.
Thứ ba: Phạm vi điều chỉnh của pháp luật CBCC rất rộng.
Do đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta, hoạt động do các cán bộ, công
chức, viên chức thực hiện không chỉ trong bộ máy của nhà nước mà cả trong các tổ
chức Đảng, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và nhiều tổ chức xã
hội khác thực hiện. Do đó, phạm vi điều chỉnh của pháp luật CBCC là rất rộng, điều
chỉnh hoạt động của các đối tượng “làm việc công” nghĩa là hoạt động của mọi cán

bộ, công chức, viên chức làm việc trong các tổ chức cấu thành của hệ thống chính
trị phục vụ các công việc chung của xã hội.
Pháp lệnh CBCC sửa đổi, bổ sung năm 2003 đã phân định rõ đối tượng điều
chỉnh là cán bộ công chức hành chính, cán bộ viên chức sự nghiệp, bổ sung cán bộ
chuyên trách cấp xã và quy định thêm đối tượng là công chức dự bị trong các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ tư: Pháp luật CBCC có nội dung phong phú, quy định nhiều vấn đề về
CBCC.
Nội dung của pháp luật CBCC bao gồm rất nhiều các quy định có liên quan
đến hoạt động công vụ của CBCC như: Tổ chức, tuyển dụng, sử dụng, quản lý
CBCC; quy định về điều kiện phát sinh thay đổi, chấm dứt quan hệ về quyền nghĩa
vụ, trách nhiệm của CBCC; địa vị pháp lý của CBCC; các chế độ đãi ngộ, khen
thưởng, kỷ luật, truy cứu trách nhiệm CBCC.
Tuyển dụng CBCC được coi là nội dung quan trọng, là khâu đầu tiên xác lập
mối quan hệ giữa CBCC với nhà nước. Do đó, vấn đề tuyển dụng phải bao quát hết
các nội dung: Điều kiện tuyển dụng, hình thức tuyển dụng và nội dung tuyển dụng.

Thông qua tuyển dụng lựa chọn được những người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo
quy định để bố trí cho CBCC vào một vị trí công việc thích hợp.
Quản lý CBCC: Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải đổi mới cơ chế, chính sách quản lý, sử
dụng CBCC nhằm xây dựng đội ngũ CBCC trong sạch, vững mạnh, bảo đảm tính
hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống
xã hội.

Nội dung quản lý CBCC được quy định tại điều 34 pháp lệnh CBCC năm
2003 và được cụ thể hoá tại điều 40 NĐ117/2003/CP của Chính phủ về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý CBCC.
Quyền và nghĩa vụ của CBCC: Được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật về CBCC, những quy định về nghĩa vụ, quyền lợi của CBCC là “chuẩn
mực” để điều chỉnh hoạt động công vụ của CBCC. Quyền lợi của CBCC thường đi
đôi với nghĩa vụ là yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện tốt các nghĩa vụ. Quyền lợi là
cơ sở bảo đảm tốt, là điều kiện phương tiện để CBCC hoàn thành các nghĩa vụ được
giao. Quyền lợi của CBCC còn là yếu tố bảo đảm cho CBCC có sự thăng tiến, vươn
lên trong công việc vì nó bao gồm cả quyền lợi về chính trị, tinh thần và vật chất.
Cùng với quyền lợi CBCC còn thực hiện các nghĩa vụ trong khi thi hành công vụ.
Các nghĩa vụ chính là các quy định pháp lý mà CBCC phải thực hiện hoặc không
được thực hiện một hành vi nào đó. Pháp luật CBCC cũng quy định trách nhiệm
pháp lý trong trường hợp CBCC lợi dụng chức vụ quyền hạn, lạm quyền.
Ngoài những vấn đề trên pháp luật CBCC còn có những nội dung như: Quy
định về bộ máy quản lý CBCC, vấn đề nâng ngạch, chuyển ngạch, quy định về thời
hiệu của các VBQPPL và thẩm quyền giải thích hướng dẫn thi hành.
Tóm lại, pháp luật về CBCC điều chỉnh rất nhiều các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình quản lý nhà nước, quá trình tuyển chọn bổ nhiệm và các vấn đề
khác có liên quan đến hoạt động của CBCC.
1.2. Vai trò và tiêu chí đánh giá pháp luật cán bộ, công chức
1.2.1. Vai trò của pháp luật cán bộ, công chức

Một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách đang được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm trong công cuộc đổi mới hiện nay đó là việc tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu

lực, hiệu quả. Trong BMNN, CBCC phải thật sự là công bộc, tận tụy phục vụ nhân
dân. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: "Phải xây
dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ và công chức". Điều đó
khẳng định tầm quan trọng và vai trò to lớn của pháp luật CBCC vì nó là một trong
những phương tiện để tổ chức và quản lý nhà nước. Đặc biệt, trong điều kiện chúng
ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Nhà nước
lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu để điều hành và quản lý đất nước. Trong đó,
CBCC đóng vai trò rất quan trọng là thực thể và yếu tố cấu thành của BMNN và
CBCC trong quá trình hoạt động cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật. Do đó, pháp
luật CBCC đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay
* Pháp luật CBCC là một phương tiện quan trọng trong tổ chức và hoạt
động quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước là lĩnh vực có quy mô và phạm vi hoạt động rất rộng, bao
gồm nhiều mối quan hệ cần điều chỉnh, trong đó quan hệ nhân sự là một trong
những vấn đề quan trọng. Pháp luật CBCC là tổng hợp các quy phạm pháp luật liên
quan đến hoạt động công vụ của BMNN.
Đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong xây dựng,
hoàn thiện bộ máy nhà nước, trong hoạt động công vụ. Hiệu quả của bộ
máy nhà nước nói riêng và của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung xét
đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực, hiệu quả công tác của
đội ngũ cán bộ, công chức. Có thể nói đây là vấn đề cực kỳ quan trọng
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong suốt quá trình từ khi xây dựng
nhà nước dân chủ nhân dân cho đến nay [41, tr.33].
Các VBQPPL về CBCC quy định phạm vi, quyền hạn, nghĩa vụ và trách
nhiệm của CBCC, điều đó nói lên rằng, pháp luật CBCC đã tạo ra một hành lang
pháp lý để trong phạm vi đó CBCC hoạt động, thực thi nhiệm vụ của mình trên cơ

sở pháp luật.

Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng lao động nòng cốt có vai
trò quan trọng trong quản lý và tổ chức của Nhà nước, nói cách khác,
công chức và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có vai trò to lớn trong
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ, thực
thi pháp luật, thực thi quyền lực nhà nước. Đồng thời chính họ đóng vai
trò sáng tạo pháp luật, tham mưu đề xuất, xây dựng hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh và tiến bộ của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
[41, tr.35].
Pháp luật CBCC quy định những việc mà CBCC không được làm đồng thời
cũng quy định những việc mà CBCC phải làm trong quá trình hoạt động công vụ,
phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân, đây là những quy định vừa bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của CBCC lại vừa bảo đảm cho các quyết định quản lý nhà
nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, phát huy cao độ trách nhiệm, sự
nghiêm minh trong hoạt động của CBCC, bảo đảm hoạt động quản lý nhà nước có
hiệu lực, hiệu quả.
* Pháp luật CBCC là phương tiện quan trọng bảo đảm quyền lực nhà nước
được thực hiện, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân:
BMNN là một tổ chức công quyền quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng
pháp luật, việc thực thi nhiệm vụ đó được trao cho đội ngũ CBCC. Trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ được nhà nước giao và thông qua hệ thống quy phạm pháp
luật CBCC, họ được quyền giải quyết mọi công việc theo đúng nhiệm vụ, quyền
hạn do luật định. Nên pháp luật CBCC bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực
hiện trong đời sống xã hội. CBCC thực hiện nghiêm chỉnh, các mệnh lệnh, quyết định
của pháp luật, hoàn thành tốt chức trách của mình là bảo đảm được cho quyền lực
nhà nước được thực thi trong thực tế.


Trong khi thực thi nhiệm vụ, công vụ phải đề cao trách nhiệm trong bảo vệ
quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân, không được xâm phạm đến quyền tự
do, lợi ích hợp pháp nào của công dân, phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, không quan liêu cửa quyền, có trách nhiệm. Các quy định của pháp luật CBCC
cũng như các quy định của các ngành luật khác đều nhằm bảo đảm các quyền tự do của
con người. Đội ngũ CBCC thực thi công vụ, thực thi pháp luật suy đến cùng là để bảo
đảm công bằng, tự do hợp pháp của con người.
Pháp luật CBCC trao quyền hạn, nghĩa vụ cho CBCC thể hiện ở hai phương
diện là:
- Quan hệ giữa CBCC với Nhà nước.
Pháp luật quy định các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, các bảo đảm pháp lý,
các việc CBCC không được làm là tạo hành lang pháp lý, điều kiện cho CBCC
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình. Khi được xác định rõ ràng bằng pháp
luật các nghĩa vụ của mình thì người CBCC có trách nhiệm phải thực hiện các chức
trách và bổn phận để bảo vệ danh dự, uy tín của Nhà nước. Quan hệ giữa CBCC với
Nhà nước thể hiện nghĩa vụ trung thành, phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân đều
được quy định trong các văn bản pháp luật có tầm quan trọng. Ngược lại để CBCC
hoàn thành tốt nhiệm vụ pháp luật phải bảo đảm các quyền cho CBCC để họ có thể
yên tâm hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tóm lại, trong mối quan hệ này pháp luật
có vai trò xác định trách nhiệm của CBCC đối với nhà nước.
- Quan hệ giữa CBCC với công dân.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước, nhân dân là chủ thể tối cao
và duy nhất của quyền lực nhà nước. Khi dân là chủ, dân làm chủ địa vị
cao nhất trong xã hội là dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì cán

bộ, công chức nhà nước không còn là phụ mẫu chi dân (cha mẹ của dân) mà
là những công bộc của dân [41, tr.50].
Trong mối quan hệ này pháp luật xác định CBCC là công bộc của dân, có
nghĩa vụ tận tụy phục vụ nhân dân. CBCC là người đại diện cho nhà nước được xác

định trên cơ sở pháp luật trực tiếp giải quyết các yêu cầu có liên quan đến quyền lợi
ích hợp pháp của công dân. Dù được nhà nước trao quyền, uỷ quyền nhưng CBCC
phải tuân thủ pháp luật. CBCC khác với những người dân bình thường đó là họ chỉ
được làm những điều mà pháp luật cho phép, còn người dân được làm tất cả những
điều mà pháp luật không cấm. Khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân, CBCC có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ quyền lợi
ích, tài sản của nhân dân, không được vi phạm đến quyền tự do và bất cứ lợi ích hợp
pháp nào nhân dân tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân, không quan liêu, cửa
quyền vô trách nhiệm.
Quan hệ giữa nhà nước và CBCC, giữa CBCC với nhân dân là mối quan hệ
giữa người phục vụ và người được phục vụ nhưng đó là mối quan hệ bình đẳng
CBCC không đứng trên quần chúng, ban phát quyền cho dân. Điều chỉnh mối quan
hệ này nói lên vai trò của pháp luật CBCC trong việc bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
* Pháp luật CBCC là phương tiện thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng về xây dựng đội ngũ CBCC.
Nước ta khác với các nước trên thế giới, thể chế quản lý CBCC là một bộ
phận của hệ thống thể chế nhà nước, là luật pháp hoá các nghị quyết, chiến lược cán
bộ cũng như các quyết định, quy định, hướng dẫn của Đảng về đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ, đánh giá, sử dụng, phân cấp quản lý cán bộ. Đây là sự thể hiện nguyên tắc
Đảng thống nhất, lãnh đạo công tác cán bộ, từ việc tuyển dụng sử dụng, đánh giá và
bổ nhiệm cán bộ.

×