LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận là do tơi trực tiếp thực hiện, các số liệu trong
khóa luận là trung thực, chính xác dựa trên phiếu phát vấn các em học sinh trường
Trung học cơ sở Tân Dương chưa được cơng bố trong bất kỳ tài liệu nào.
Hải Phịng, ngày 19 tháng 05 năm 2017
Sinh viên
Đỗ Thùy Linh
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, phịng đào tạo Đại học, khoa Y
tế Cơng cộng đã hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tơi trong q
trình học tập, nghiên cứu và hồn thiện khóa luận.
Tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới cô giáo ThS.BS
Nguyễn Thị Thanh Bình và cơ giáo ThS.BS Hồng Hoa Lê, người đã hướng dẫn tơi
một cách tận tình, chi tiết để hồn thiện khóa luận này.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, các thầy cơ giáo
cùng các em học sinh trường Trung học cơ sở Tân Dương đã tạo điều kiện và giúp
đỡ tơi hồn thành số liệu nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi gửi lời cảm ơn tới cha mẹ, anh chị em, bạn bè và những
người đã ln ủng hộ, động viên, giúp đỡ tơi rất nhiều trong q trình học tập 6
năm tại trường Đại học Y Dược Hải Phịng cũng như trong thời gian tơi làm khóa
luận tốt nghiệp.
Hải Phịng, ngày 19 tháng 05 năm 2017
Sinh viên
Đỗ Thùy Linh
DANH MỤC VIẾT TẮT
BL
BLHĐ
Bộ GDĐT
CDC
Bạo lực
Bạo lực học đường
Bộ giáo dục và đào tạo
Trung tâm kiểm sốt và phịng ngừa dịch bệnh Hoa
ĐHQGHN
ĐTNC
HS
THCS
THPT
TPHCM
WHO
Kỳ
Đại học quốc gia Hà Nội
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh
Trung học cơ sở
Trung học phổ thơng
Thành phố Hồ Chí Minh
World Health Organization( Tổ chức Y tế Thế giới)
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
6
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạo lực là vấn đề của con người ở mọi thời đại, mọi quốc gia và mọi
nền văn hóa. Trong cuộc sống, ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề đều có nguy cơ
bị bạo lực. Bạo lực là hành vi cố ý sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hoặc
quyền lực để tự hủy hoại mình, chống lại người khác hoặc một nhóm người,
một tập thể cộng đồng làm họ bị tổn thương hoặc có nguy cơ bị tổn thương
hoặc tử vong, bị sang chấn tâm thần, ảnh hưởng đến sự phát triển của họ hoặc
gây ra các ảnh hưởng khác [21].
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là người sẽ góp phần xây
dựng q hương, đất nước giàu mạnh trong tương lai. Tuổi vị thành niên là giai
đoạn phát triển rất cao về thể chất và có nhiều sang chấn, biến đổi trong tâm lý
hết sức phức tạp. Chính yếu tố tâm lý cũng như thể chất và nhân cách chưa hồn
thiện một cách đầy đủ khiến cho trẻ em trong lứa tuổi này hay bị khủng hoảng
về tâm lý dẫn đến những suy nghĩ và hành động sai lệch.
Bạo lực học đường (BLHĐ) là một phần trong bạo lực của giới trẻ, xảy
ra trong khn viên nhà trường, trên đường tới trường, hoặc từ trường về hay
trong các hoạt động do nhà trường tổ chức. Đó khơng phải là các lời nói, cử chỉ
trêu chọc, thân thiện khi vui đùa giữa các em [16]. Bạo lực trong lứa tuổi học
đường, tuy khơng phải là vấn đề mới mẻ nhưng trong các nghiên cứu gần đây
cho thấy xu hướng bùng phát mạnh mẽ, mức độ và tính chất của hành vi này
ngày càng nguy hiểm ở Việt Nam [17], [16], [6]. Hiện nay chưa có cơng trình
nghiên cứu trên đối tượng học sinh Trung học cơ sở tại Hải Phịng. Tuy nhiên
kết quả phỏng vấn nhanh một vài cán bộ giáo viên tại một số trường Trung học
cơ sở tại Hải Phịng những năm gần đây đã ghi nhận bạo lực trong học sinh diễn
ra cả trong và ngồi trường học, đặc biệt xuất hiện những xơ xát xuất phát từ
những mâu thuẫn, xích mích trên mạng xã hội đầy phức tạp [24]. Với câu hỏi đặt
ra: Thực trạng bạo lực học đường ở học sinh tại một trường Trung học cơ sở
7
hiện nay như thế nào? Yếu tố nào liên quan đến vấn đề bạo lực học đường ở
học sinh? Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
8
“Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực học đường ở
học sinh một trường Trung học cơ sở tại huyện Thủy Ngun, thành phố
Hải Phịng năm học 2016 – 2017” với mục tiêu :
1. Mơ tả thực trạng hành vi bạo lực học đường ở học sinh một trường Trung học
cơ sở tại huyện Thủy Ngun, thành phố Hải Phịng năm học 2016 2017.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực học đường ở học sinh
một trường Trung học cơ sở tại huyện Thủy Ngun, thành phố Hải Phịng năm
học
2016 2017.
9
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Khái niệm về bạo lực và bạo lực học đường.
1.1.1 Bạo lực và phân loại bạo lực.
Khái niệm bạo lực
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Bạo lực là hành vi
cố ý sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hoặc quyền lực để tự hủy hoại mình,
chống lại người khác hoặc một nhóm người, một tập thể cộng đồng làm họ bị
tổn thương hoặc có nguy cơ bị tổn thương hoặc tử vong hoặc bị sang chấn tâm
thần, ảnh hưởng đến sự phát triển của họ hoặc gây ra các ảnh hưởng khác”
[47].
Định nghĩa này của WHO bao gồm cả những hành vi cố ý gây thương tích
giữa người với người và hành vi tự sát cũng như các xung đột vũ trang. Những sự
kiện xảy ra ngồi ý muốn (ví dụ tai nạn giao thơng hay cháy nổ) khơng được coi
là bạo lực.
Phân loại bạo lực
Theo WHO (2002), bạo lực được phân loại theo phạm vi bạo lực hoặc loại
hành vi bạo lực, mỗi loại được chia nhỏ hơn phản ánh nhiều loại bạo lực chi
tiết hơn nữa [48].
a. Phạm vi bạo lực bao gồm:
Bạo lực tự thân: Được chia làm 2 thể chính là hành vi tự sát và ngược đãi
bản thân.
Thể thứ nhất bao gồm các hành vi nghĩ đến tự sát, cố gắng tự sát nhưng chưa
thành cơng và tự sát thành cơng.
Thể thứ hai là các hành động tự hành hạ bản thân.
Bạo lực giữa các cá nhân: Chia làm 2 thể:
10
Bạo lực gia đình và bạo lực tình dục: Loại hình bạo lực này rất phổ biến giữa
các thành viên trong gia đình và với đối tác quan hệ tình dục, thơng thường
(nhưng khơng phải ln ln) xảy ra trong nhà. Loại hình bạo lực này bao gồm
các hình thức như lạm dụng trẻ em, bạo lực tình dục, và hành hạ người cao tuổi.
Bạo lực cộng đồng: Bạo lực xảy ra giữa các cá nhân khơng có mối quan hệ ruột
thịt, có thể quen biết hoặc khơng quen biết nhau trước đây, thường xảy ra ở
ngồi. Loại hình bạo lực này bao gồm bạo lực ở giới trẻ, các hành động bạo lực
ngẫu hứng, hiếp dâm hoặc quấy rối tình dục bởi người lạ và các hành động bạo
lực xảy ra tại các cơ quan như trường học, cơng sở, trại giam…
Bạo lực chung (bạo lực có tổ chức): Bạo lực này chia làm 3 thể là:
Bạo lực xã hội: Bạo lực cam kết thúc đẩy chương trình nghị sự xã hội như bạo
lực đám đơng, bạo lực các tổ chức tội phạm, khủng bố…
Bạo lực chính trị: Các cuộc chiến tranh và xung đột, bạo lực nhà nước…
Bạo lực kinh tế: Các cuộc tấn cơng của các nhóm vì lợi ích kinh tế.
Khơng giống với 2 loại bạo lực trên, các loại hình bạo lực này thường có động
cơ rõ ràng bởi số lượng lớn các cá nhân hoặc của một tổ chức nào đó. Chính vì
hành động bạo lực này gây ra bởi nhiều cá nhân nên hình thức và diễn biến vơ
cùng phức tạp.
b. Loại hành vi bạo lực bao gồm:
Bạo lực thể chất.
Bạo lực tình dục.
Bạo lực tinh thần.
Kỳ thị/phân biệt đối xử/hắt hủi/xa lánh/thờ ơ.
Bốn loại bạo lực này xảy ra bên trong mỗi loại phạm vi bạo lực. Ví dụ
bạo lực cộng đồng có thể gồm bạo lực thể chất, bạo lực tình dục ở nơi làm
việc, kì thị, xa lánh người cao tuổi…
1.1.2 Bạo lực học đường và phân loại bạo lực học đường.
11
Khái niệm bạo lực học đường
Theo Trung tâm kiểm soát chấn thương Hoa Kỳ (CDC), Bạo lực học
đường là một phần thuộc bạo lực giới trẻ, xảy ra ở những người trong độ tuổi
từ 624 tuổi [28]. Một số hành vi bạo lực bao gồm bắt nạt, tát, đánh – thường
gây tổn hại về tâm lý nhiều hơn so với thể chất. Một số hình thức khác như bạo
lực băng đảng và tấn cơng vũ lực (có hoặc khơng sử dụng vũ khí) có thể dẫn đến
những chấn thương nghiêm trọng, thậm chí tử vong [29].
Trường hợp bạo lực học đường: Được định nghĩa là các hành vi bạo lực
ở giới trẻ, xảy ra trong khn viên nhà trường, trên đường tới trường hoặc từ
trường về và trong các hoạt động do nhà trường tổ chức [28].
Bắt nạt học đường: Là một hành động đối xử thơ bạo trong giới học sinh
với nhau. Các hành vi bắt nạt bao gồm từ các hành động bạo lực về thể chất (đá,
xơ đẩy) cho đến việc sử dụng lời nói (đặt tên hay đe dọa), bạo lực tinh thần như
gây lời đồn, xa lánh, cơ lập [21].
Phân loại bạo lực học đường
Trong khn khổ nghiên cứu này, bạo lực học đường được phân loại dựa trên
phân loại của một số nghiên cứu trên thế giới trong đó bạo lực học đường
được chia thành 4 nhóm [35], [44]:
Bạo lực thể chất: Bao gồm các hành vi như đánh, đấm, đá, đẩy, tát, dứt tóc, kéo
tai, xé quần áo, trấn lột, cướp đồ vật của một/một nhóm học sinh khác.
Bạo lực bằng lời nói: Bao gồm các hành vi như gán/gọi biệt danh (mang ý nghĩa
xấu), chế nhạo làm tổn thương nhau, sỉ nhục, dùng lời nói đe doạ/ép buộc
một/một nhóm học sinh khác làm theo ý mình.
Bạo lực xã hội: Bao gồm các hành vi như phân biệt đối xử, cơ lập, tẩy chay,
tạo/phát tán tin đồn (mang ý nghĩa xấu) cho một/một nhóm học sinh khác.
Bạo lực điện tử: Bao gồm các hành vi như nhắn tin, gọi điện để uy hiếp đe
doạ/ép buộc một/một nhóm học sinh khác làm theo ý mình, sử dụng email, ảnh
12
cá nhân để uy hiếp, đe doạ, ép buộc một/một nhóm học sinh khác làm theo ý
mình, lập/tham gia các hội trên mạng để cơ lập/tẩy chay một/một nhóm học sinh
khác.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu này, khái niệm bắt nạt/bạo lực học đường
được hiểu là bắt nạt/bạo lực giữa các học sinh/nhóm học sinh với nhau, xảy ra
trong khn viên nhà trường, trên đường tới trường hoặc từ trường về hoặc
trong các hoạt động do nhà trường tổ chức, bao gồm các hành vi bạo lực về thể
chất (đánh, đấm, đá, đẩy, tát), bạo lực bằng lời nói (sỉ nhục, gán ghép biệt danh
xấu), bạo lực về các mối quan hệ xã hội (cơ lập, tẩy chay) và bạo lực điện tử
(dùng tin nhắn, mạng xã hội, đe dọa, ép buộc, tẩy chay). Khái niệm này khơng đề
cập đến hành vi bạo lực giữa giáo viên đối với học sinh và ngược lại.
1.2 Thực trạng bạo lực học đường trên thế giới và tại Việt Nam.
1.2.1 Bạo lực học đường trên thế giới.
Bạo lực học đường đang trở thành vấn nạn ở nhiều quốc gia. Theo ước
tính của WHO, trung bình trên thế giới mỗi ngày có khoảng 565 trẻ em và thanh
thiếu niên trong độ tuổi từ 6 29 tử vong do các ngun nhân liên quan đến bạo
lực. Đi đơi với mỗi vụ tử vong do bạo lực trong giới trẻ, trung bình có từ 20 40
nạn nhân phải nhập viện do chấn thương. Các loại súng, súng ngắn là vũ khí
được sử dụng phổ biến trong các vụ bạo lực gây tử vong; trong khi đó, với các
vụ bạo lực có mức độ nhẹ hơn, các hình thức thường được sử dụng bao gồm
đấm, đá, và một số loại vũ khí khác như dao, gậy, dùi cui [41].
Ở châu Á, bạo lực học đường cũng trở thành một vấn đề nhức nhối của
ngành giáo dục nói chung và xã hội nói riêng. Tổ chức cộng đồng tập trung vào
trẻ em Plan International cơng bố về tình trạng bạo lực trong các trường ở châu
Á. Báo cáo dựa vào kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tế với 9.000 học sinh
lứa tuổi 12 – 17, các giáo viên, hiệu trưởng, phụ huynh tại 5 quốc gia: Campuchia,
Việt Nam, Indonesia, Pakistan và Nepal. Theo báo cáo này, tình trạng bạo lực
trong các trường học châu Á đang ở mức báo động. Chỉ tính trong 6 tháng, số học
13
sinh bị bạo lực tại trường học của Indonesia là 75%, Việt Nam đứng thứ 2 với
71% [35], [31].
Khơng chỉ tại các nước đang phát triển, rất nhiều quốc gia phát triển
cũng đang phải đau đầu với vấn đề bạo lực học đường. Người đứng đầu bang
Queensland, Úc hồi tháng 7/2009 cho biết tình trạng bạo lực học đường nước
này đang gia tăng một cách đáng sợ. Riêng năm 2008, 55.000 học sinh trong đó
gần một nửa là nữ bị đình chỉ vì vấn đề bạo lực [32].
Một điều tra cắt ngang trên 161.082 học sinh ở 35 quốc gia Bắc Mỹ và
Châu Âu năm 2005 đã cho kết quả đánh nhau là loại hình bạo lực phổ biến nhất
tại đây. Cụ thể, có khoảng 37% 69% nam sinh từng tham gia vào các vụ ẩu đả
trong vịng một năm trước thời điểm nghiên cứu và tỷ lệ này ở nữ sinh dao động
trong khoảng
13% 32%. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số loại vũ khí nguy hiểm thường được
các học sinh tại đây sử dụng, bao gồm: dao, súng ngắn, dùi cui ,bình xịt hơi cay
[47].
Nước Mỹ là quốc gia mà bạo lực xảy ra hàng ngày, trong đó có bạo lực
học đường. Mặc dù các trường hợp tử vong do bạo lực học đường đã có xu
hướng giảm trong thập niên 90 [43], nhưng sự quan tâm của dư luận với vấn đề
an tồn trong trường học vẫn khơng hề suy giảm, thậm chí có chiều hướng gia
tăng [14]. Kết quả từ cuộc khảo sát hành vi nguy cơ ở giới trẻ tại Mỹ năm
2003 cho thấy đánh nhau xuất hiện phổ biến ở học sinh THCS với 40,5% nam
sinh và 25,1% nữ sinh trong vòng 1 năm trước thời điểm tiến hành nghiên cứu
[39]. Năm học 2005 2006, có khoảng 23% học sinh tham gia các băng nhóm tại
trường và trong đó 38% các trường cơng lập đã có ít nhất một vụ bạo lực cần
phải có sự can thiệp của cảnh sát [41]. Theo kết quả một cuộc khảo sát khác về
hành vi nguy cơ ở giới trẻ của CDC năm 2009, có 31,5% học sinh đã tham gia
đánh nhau ít nhất 1 lần và 7,7% học sinh đã từng bị đe dọa hay bị thương ít nhất
một lần do những trận tấn cơng có vũ khí gây ra trong vịng 1 năm trước thời
14
điểm tiến hành điều tra [38].
Tại Nam Phi, năm 2007, một nghiên cứu tiến hành trên 5074 học sinh (lớp
8 và lớp7) tại hai thành phố Cape Town và Durban đã cho kết quả hơn một phần
ba số học sinh tham gia nghiên cứu (36,3%) từng liên quan đến các hành vi bạo
lực. Trong đó, 8,2% là đối tượng bắt nạt, 19,3% là nạn nhân, 8,7% số cịn lại là
những học sinh vừa bị bắt nạt, đồng thời cũng đi bắt nạt người khác, tập trung
chủ yếu ở các nam sinh, đặc biệt là các nam sinh lớn tuổi hơn [36].
1.2.2 Bạo lực học đường tại Việt Nam.
Ở Việt Nam những năm gần đây, dư luận xã hội lên tiếng khá nhiều về
bạo lực học đường với những lo ngại về sự đa dạng và mức độ nguy hiểm của
hành vi này. Các vụ bạo lực khơng chỉ gia tăng về số lượng mà cịn tăng cả mức
độ nguy hiểm, nó lan rộng ra nhiều địa phương, báo động về thực trạng suy thối
đạo đức, lối hành xử bạo lực, thiếu lành mạnh ở một số bộ phận thế hệ trẻ
chưa thành niên là học sinh. Những xơ xát tưởng chừng như rất trẻ con ấy lại trở
nên nghiêm trọng, khơng chỉ là những hiện tượng cá biệt, khơng chỉ một vài
trường mà cịn lan rộng ra cả thành thị và nơng thơn, đồng bằng và miền núi với
tốc độ gia tăng đáng kể.
Tại Việt Nam, bạo lực học đường diễn biến ngày một phức tạp. Theo
thống kê của Cục cảnh sát điều tra về trật tự xã hội, từ năm 2003 đến 2010,
trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 10.000 vụ phạm tội trong lứa tuổi vị thành
niên; tỷ lệ học sinh, sinh viên, và thanh thiếu niên phạm tội và vi phạm pháp luật
chiếm khoảng 1/4 tổng số vụ phạm pháp hình sự xảy ra trên tồn quốc [7]. Đặc
biệt, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD ĐT), trong năm học 2003
đến năm 2009, trên tồn quốc đã xảy ra khoảng gần 8.000 vụ việc học sinh đánh
nhau ở trong và ngồi trường học. Các trường đã xử lý kỷ luật khiển trách 881
học sinh, cảnh cáo 1.558 học sinh, buộc thơi học có thời hạn 3 ngày, 1 tuần hay 1
năm với 735 học sinh. Như vậy, bình qn cứ 6.000 học sinh thì có một học sinh
bị kỷ luật khiển trách, cứ 5.555 học sinh thì có một học sinh bị kỷ luật cảnh cáo
15
vì đánh nhau, cứ 771 học sinh thì có một học sinh bị thơi học có thời hạn vì đánh
nhau [29]. Gần đây nhiều vụ bạo lực học đường xảy ra khơng chỉ ở thành phố
mà cịn diễn ra cả ở nơng thơn, khơng chỉ ở học sinh nam mà cịn ở học sinh nữ
vốn được coi là phái yếu như nữ sinh tụ tập đánh nhau hội đồng, làm nhục bạn.
Nam sinh thì dùng dao, mã tấu, kiếm chém nhau ngay trong phịng học. Ở nhiều
nơi, do mâu thuẫn trong tình bạn, tình u đã dùng dao rạch mặt bạn, đâm chết
bạn giữa trường.
Vấn đề bạo lực học đường ngày càng gia tăng với số lượng chóng
mặt,tiếp tục diễn biến phức tạp, trở thành vấn đề cấp bách ảnh hưởng đến q
trình đào tạo và phát triển tồn diện của trẻ em – chủ nhân tương lai của đất
nước. Ngơi trường được xem như như là mơi trường an tồn nhưng giờ đây bị
ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng học sinh hành xử như xã hội đen. Khơng
chỉ gia tăng về số lượng, mức độ và tính chất nguy hiểm của các vụ bạo lực
trong học sinh cũng ngày càng nghiêm trọng. Kết quả điều tra quốc gia về thanh
niên và vị thành niên Việt Nam năm 2009 (SAVY 2) đã cho thấy tỷ lệ thanh thiếu
niên từng mang hung khí là 2,8%, trong khi đó tỷ lệ này ở SAVY 1 chỉ là 2,6%
[33]. Bộ GDĐT đã cơng bố kết quả nghiên cứu từ tháng 9/2014 với 3.000 học
sinh cho biết có khoảng 80% học sinh từ trước đến nay bị bạo lực giới ít nhất
một lần, 71% bị bạo lực trong vịng 6 tháng qua. Mức độ an tồn của trường học
được các em đánh giá rất thấp, chỉ 16% học sinh nữ và 18% học sinh nam cho
rằng trường học an tồn. Bên cạnh đó, tình trạng lập băng nhóm và đánh nhau có
sự tham gia của các đối tượng bên ngồi trường học hay tổ chức đánh nhau thành
từng nhóm có hung khí trong giới học sinh cũng ngày càng phổ biến, đặc biệt
nguy hiểm là án mạng trong lứa tuổi học đường đã xảy ra ở nhiều tỉnh, thành
phố trong cả nước [18].
Nghiên cứu “Thực trạng bạo lực học đường và một số yếu tố liên quan
đến hành vi bạo lực ở học sinh trường THCS Lê Lai, quận 8, thành phố Hồ Chí
Minh” cho kết quả 13,2% học sinh có thực hiện hành vi bạo lực học đường trong
16
6 tháng qua, mang vũ khí đến trường 5,9%, đe dọa các học sinh khác 12,2% và
mắng chửi là 36,9%. Kéo theo đó việc có học sinh là nạn nhân của bạo lực học
đường là 11,9% HS bị đánh, 10,3% bị đe dọa và 4,1% bị trấn lột. Các đặc tính cá
nhân, gia đình, nhà trường và xã hội đều có liên quan rất lớn đến hành vi bạo lực
của HS. Đặc biệt, tỷ lệ học sinh từng bị bạo lực, gia đình có sử dụng bạo lực,
hay bạn bè có sử dụng bạo lực có hành vi bạo lực cao gấp 1,9 lần; 1,4 lần và 2,1
lần so với những học sinh chưa từng bị bạo lực, gia đình khơng sử dụng bạo lực
hay bạn bè khơng sử dụng bạo lực [21].
Nghiên cứu “Hành vi bạo lực học đường của học sinh THCS Thành Phố
Huế” cho thấy kết quả 24% trong số 200 em học sinh được hỏi nhận định là
hành vi BLHĐ xảy ra rất thường xun; 33% cho là khá thường xun; 26,5% cho
là thỉnh thoảng; 24,5% cho là ít và chỉ có 0,5% cho là hồn tồn khơng xảy ra [6].
Thời gian qua, các cấp chính quyền nước ta đã có nhiều giải pháp để
ngăn chặn tình trạng bạo lực học đường, nhằm thiết lập một mơi trường học
đường an tồn, thân thiện cho học sinh, đảm bảo an ninh cho xã hơi. Thơng tư
liên tịch số 34/2009/TTLTBGDĐTBCA ngày 20/11/2009 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo với Bộ Cơng an về “Hướng dẫn phối hợp thực hiện cơng tác bảo đảm
an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” và có
Quy chế phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và Cơng an tỉnh về thực hiện cơng
tác đảm bảo an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân trên địa bàn tỉnh [4].
1.3 Một số yếu tố liên quan tới bạo lực học đường.
Các yếu tố liên quan tới bạo lực học đường ở học sinh bên cạnh một số
đặc điểm riêng đặc trưng theo lứa tuổi và mơi trường thì đa phần có những đặc
điểm tương tự với bạo lực ở giới trẻ, bao gồm các yếu tố về cá nhân và nhóm
yếu tố xuất phát từ mối quan hệ như trong gia đình, nhà trường và xã hội [18],
[49].
1.3.1 Yếu tố cá nhân
17
Ở mức độ cá nhân, liên quan tới bạo lực trong giới học sinh chủ yếu là
các yếu tố thuộc về tuổi, giới, tâm sinh lý, sự phát triển và một số hành vi nguy
cơ của thanh thiếu niên.
Theo một nghiên cứu của WHO vào năm 2000, các yếu tố cá nhân có liên
quan tới bạo lực ở giới trẻ bao gồm [49]:
Hiếu động thái q.
Hấp tấp, bốc đồng.
Kiểm sốt hành vi kém.
Có tiền sử hung hãn từ rất sớm.
Có vấn đề về khả năng tập trung.
Yếu tố cảm xúc và hành vi nguy cơ đã có nghiên cứu chỉ ra có ảnh hưởng
làm tăng hành vi bạo lực ở học sinh. Trẻ vị thành niên có kết quả học tập kém,
thách thức, hung hăng, bốc đồng, lì lợm, dễ bị khiêu khích, ngang bướng, thường
có mang theo vũ khí và liên quan tới bạo lực người khác. Trẻ là nạn nhân của
bạo lực thì xu hướng cảm xúc thường lo lắng, trầm cảm hay chán nản, sợ hãi,
thiếu cảm giác an tồn, thiếu tự tin, học tập kém, từng có ý nghĩ tự tử và cố gắng
tự tử [20]. Tâm lý lứa tuổi học sinh trung học với sự phát triển chưa hồn thiện,
cái “tơi’, bản tính “anh hùng” muốn thể hiện bản thân trước bạn bè và khơng
muốn thua thiệt “bùng phát” làm cho các em đơi khi chưa biết kiềm chế cảm xúc,
dễ dẫn đến những hành vi xơ xát, gây gổ đánh nhau. Khả năng nhận thức cũng
như tư duy chưa chín muồi, vốn kỹ năng sống chưa trang bị đầy đủ, hiểu biết xã
hội cịn q ít làm cho các em rất dễ bị kích động bởi những sự việc đơn giản,
đơi khi đó chỉ là sự hiểu nhầm rất nhỏ. Trên thực tế khơng thiếu những hành vi
BLHĐ nghiêm trọng mà xuất phát điểm chỉ là những xích mích, hiểu lầm nhỏ
giữa những học sinh với nhau [9].
Các yếu tố nguy cơ như sử dụng rượu bia, thuốc lá và chất kích thích
cũng đã được chứng minh có liên quan tới hành vi bạo lực ở học sinh. Nghiên
18
cứu của Nguyễn Thị Thu Trang đã chỉ ra học sinh có sử dụng rượu bia có nguy
cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn (OR=3,5; 95%CI: 1,4 8,5), nhóm
học sinh sử dụng thuốc lá có nguy cơ thực hiện bạo lực xã hội, internet cao hơn
(OR=2,6; 95%CI: 1,16,2) và (OR=4,9; 95%CI: 1,9 12,7) nhóm cịn lại [29], [28].
Những đối tượng có hành vi bạo lực bao gồm nhiều lứa tuổi khác nhau.
Tuy nhiên vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với lứa tuổi thiếu niên. Theo một
nghiên cứu trên học sinh từ lớp 7 đến lớp 12 của Úc đã chỉ ra rằng tỉ lệ trẻ bị bắt
nạt giảm đi theo độ tuổi, trẻ càng lớn thì càng ít bị bắt nạt hơn [39].
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nam giới là đối tượng hay thực hiện hành
vi bạo lực đồng thời cũng là nạn nhân của bạo lực xuất hiện phổ biến hơn và có
mức độ nghiêm trọng cao hơn so với nhóm nữ sinh [48], [37], [35], [41]. Các
nghiên cứu cho thấy rằng các em học sinh nam thường tham gia nhiều hơn vào
các hoạt động bạo lực với các hình thức vũ lực như ẩu đả, tổ chức đánh nhau
thậm chí có sử dụng vũ khí như dao, gậy… Trong khi hình thức bạo lực bằng lời
nói lại diễn ra phổ biến ở các em học sinh nữ hơn [29].
Nghiên cứu của J.Wang trên đối tượng học sinh lớp 610 ở Mỹ cho thấy
ở học sinh nam có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn nhóm học
sinh nữ (OR=2,41; 95%CI: 1,91 3,05) [46].
Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang khi nghiên cứu thực trạng bạo lực học
đường và một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực ở học sinh trường Trung
học phổ thơng Trần Phú, quận Hồn Kiếm, Hà Nội cũng cho thấy sự liên quan
đến giới tính với bạo lực học đường. Ở học sinh nam có nguy cơ thực hiện hành
vi bạo lực thể chất và lời nói hơn học sinh nữ (OR=2,6; 95%CI: 1,4 5,1 và
OR=2; 95%CI: 1,3 3,2) [21].
1.3.2 Yếu tố mối quan hệ.
Yếu tố gia đình:
Ảnh hưởng từ gia đình và cha mẹ là yếu tố chính tác động đến hành vi
bạo lực ở giới trẻ. Việc giám sát và theo dõi lỏng lẻo của bố mẹ và cách giáo
19
dục con chưa hợp lý sẽ dẫn tới bạo lực khi trở thành thanh thiếu niên. Hỗ trợ
của cha mẹ cao hơn thì con cái ít liên quan đến những vấn đề bạo lực hay hỗ trợ
của cha mẹ có thể bảo vệ chính con cái của mình tránh xa được các vấn đề bạo
lực [47]. Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM báo cáo kết quả cho thấy 9,1%
học sinh sống trong gia đình có cha mẹ uống rượu hàng ngày; 33,4% học sinh
sống trong gia đình có cha mẹ hoặc người thân thường xun cãi lộn, đánh nhau
là những nguy cơ gây ảnh hưởng đến tinh thần trẻ tổn thương, tâm trạng bực
bội, khó chịu, dễ có hành động gây hấn, hung dữ hoặc có hành vi bạo lực khơng
kiểm sốt được [8].
Nhà đơng con, cấu trúc gia đình như sống cùng bố mẹ hay chỉ sống cùng
bố hoặc mẹ khơng sống cùng cả hai đều có ảnh hưởng đến những hành vi của
con [13]. Sống trong gia đình có hồn cảnh khơng thuận lợi sẽ tác động tiêu cực
tới q trình hình thành và phát triển nhân cách của con cái. Nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra rằng cha mẹ ly hơn, ly thân có ảnh hưởng nghiêm trọng tới nét tính cách
của trẻ. Đa số các em trở nên tự ti hay hung hãn hơn. Đơi khi các em muốn sử
dụng hình thức này để gây sự chú ý với cha mẹ như một cách phản kháng với sự
thiếu hụt tình u thương. Xu hướng quan tâm thái q cũng gây ra nhiều vấn đề
phức tạp. Ở lứa tuổi học sinh các em có nhu cầu khẳng định, độc lập trong quyết
định thì sự bao bọc, nghiêm khắc q mức sẽ khiến các em thấy áp lực. Vì vậy,
gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và nhân cách của các em [9].
Ở nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Trang chỉ ra nhóm học sinh bị bạo lực
từ gia đình có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn (OR=3,3;
95%CI: 3,0 9,3) đồng thời cũng có nguy cơ trở thành nạn nhân cao hơn
(OR=2,3; 95%CI: 1,3 4,3). Học sinh được hỗ trợ thấp từ gia đình có nguy cơ là
nạn nhân của bạo lực lời nói cao hơn (OR=1,7; 95%CI: 1,02,7) [21]. Ở nghiên
cứu của Trần Thị Chiến và Tơ Gia Kiên cũng chỉ ra rằng học sinh có gia đình sử
dụng bạo lực có nguy cơ thực hiện hành vi cao (OR=1,4) [6].
20
Yếu tố bạn bè:
Ảnh hưởng của bạn bè đồng trang lứa là yếu tố quan trọng trong hành vi
của giới trẻ. Đề tài “Ảnh hưởng của bạn bè tới hành vi lệch chuẩn của học sinh”
trên 31 học sinh thiếu niên cá biệt tại trường THCS Thịnh Quang ( Hà Nội), đã
liệt kê những hành vi lệch chuẩn của nhóm học sinh này và chỉ ra những ngun
nhân dẫn đến các hành vi đó. Tác giả kết luận, hiện tượng bạn bè xấu rủ rê, lơi
kéo là một trong những ngun nhân khá chủ yếu dẫn trẻ tới những hành vi lệch
chuẩn [22]. Nếu như ở những giai đoạn lứa tuổi trước, vai trị của những người
thân trong gia đình là quan trọng bậc nhất thì khi bước vào lứa tuổi vị thành niên,
bậc học trung học thì sự cấu kết bên ngồi xã hội tăng dần mà biểu hiện rõ nhất
là việc đề cao các mối quan hệ bạn bè. Bắt đầu hình thành các nhóm bạn với
cùng sở thích, tính cách và bạn bè có ảnh hưởng lớn, chi phối nhận thức, thái độ,
hành vi của các em [9].
Ở nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang cũng chỉ ra rằng nhóm
học sinh có bạn thân sử dụng vũ lực có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực điện
tử cao hơn (OR=4,2; 95%CI: 1,6 11,3) nhóm cịn lại, đồng thời cũng có nguy cơ
trở thành nạn nhân của bạo lực thể chất (OR = 3,4; 95%CI: 1,6 7,2), bạo lực xã
hội (OR=3,4; 95%CI: 1,5 7,7), bạo lực điện tử (OR=13,9; 95%CI: 3,7 46,1)
[21].
Nghiên cứu tại trường THCS Lê Lai quận 8 thành phố Hồ Chí Minh
cũng chỉ ra rằng học sinh có bạn sử dụng bạo lực có nguy cơ thực hiện hành vi
cao hơn (OR=2,1; 95%CI:1,96 2,55) [6]. Tác giả Nguyễn Thị Hoa với cơng trình
nghiên cứu về các ảnh hưởng đến hành vi có vấn đề của trẻ vị thành niên đã chỉ
ra ở lứa tuổi này các em xuất hiện ý nghĩ “Mình đã là người lớn”. Nhu cầu được
khẳng định, được tơn trọng làm người lớn, được đối xử tơn trọng và bình đẳng là
rất lớn, tư duy bồng bột, chưa sâu sắc nên những người làm bố, làm mẹ vẫn coi
các em như đứa trẻ trước đó. Vì thế giữa các em và bố mẹ thường xuất hiện
mâu thuẫn, các em khơng hài lịng với ứng xử của người lớn. Khi đó các em
21
thường tìm đến bạn bè để chia sẻ. Trong hồn cảnh đó, các em rất dễ bị ảnh
hưởng từ bạn bè, đặc biệt là bạn xấu với những ảnh hưởng tiêu cực là khó tránh
khỏi dẫn đến những hành vi sai lệch ở các em [11].
Yếu tố trường học và xã hội:
Kết quả nghiên cứu “Các yếu tố tác động đến hành vi bạo lực của học
sinh” đã chỉ ra các nhân tố chính tác động đến hành vi bạo lực ở học sinh là
chứng kiến bạo lực, sự kém tn thủ quy định ở trường, mối quan hệ với bạn bè
có vấn đề, nạn nhân của bạo lực, ấn tượng về trường học, thái độ với bạo lực
và tính nóng nảy của cá nhân. Trình độ giáo dục cũng là một trong những yếu tố
xác định mức độ sử dụng bạo lực của học sinh. Học sinh thường chơi trị chơi
trực tuyến bạo lực, trình độ giáo dục thấp cũng có hành vi bạo lực cao hơn và
phổ biến ở học sinh nam cao hơn học sinh nữ [16]. Học sinh khơng xem phim
bạo lực và chơi game bạo lực có hành vi bạo lực thấp hơn ở nhóm xem và chơi
(OR=0,59 và OR=6,5) [6]. Mạng xã hội cũng là một ngun nhân dẫn đến bạo
lực học đường. Từ những tin đồn, cãi vã, đăng ảnh bơi nhọ và bình luận ác ý trên
Facebook đã khiến các em đánh nhau ở trường [32]. Kết quả khảo sát các biện
pháp khắc phục tình trạng BLHĐ gồm “Nhóm biện pháp áp dụng tại nhà trường,
nhóm biện pháp áp dụng tại gia đình và nhóm biện pháp áp dụng cho xã hội” đối
với học sinh tại Cần Thơ cho thấy các biện pháp đề xuất được đánh giá là “đồng
ý”. Đây là cơ sở quan trọng giúp khắc phục tình trạng BLHĐ một cách tồn diện
theo các yếu tố ảnh hưởng đến BLHĐ trong học sinh hiện nay [14]. Các trị chơi
điện tử mang tính bạo lực hay phim ảnh mang nội dung bạo lực diễn ra thường
xun cũng dễ dẫn đến việc các em “hung bạo” với người khác, trở thành đối
tượng gây bạo lực hay “co mình” mang các bệnh về tâm lý khiến cho các bạn
xung quanh gây bạo lực với mình (chủ yếu là vì lí do người khác). Có nhận định
cho rằng, hành vi bạo lực được học từ phim ảnh và trị chơi bạo lực: “Kết quả
so sánh giữa mức độ thường xun xem phim bạo lực và chơi trị chơi điện tử
bạo lực giữa các nhóm học sinh cho thấy: Nhóm học sinh gây bạo lực và nhóm
22
học sinh vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của bạo lực có mức độ xem phim bạo
lực và chơi trị chơi điện tử thường xun hơn nhóm học sinh khơng liên quan
đến bạo lực và nhóm học sinh là nạn nhân” hay “Khi học sinh thường xun xem
phim bạo lực và chơi trị chơi điện tử bạo lực, trẻ sẽ tập nhiễm dần hành vi bạo
lực, dần vơ cảm với cảm giác của người khác và cảm thấy mạnh mẽ khi làm
người khác đau đớn, chính vì vậy mà trẻ càng thể hiện hành vi bạo lực ngồi đời
thường” [10].
Nghiên cứu “Ngun nhân dẫn đến bạo lực học đường tại trường THCS
Lê Lai, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh” do Lê Thị Hồng Thắm, Tơ Gia Kiên
thực hiện. Qua nghiên cứu cho thấy các em có hành vi bạo lực ln muốn chứng
tỏ mình. Ba mẹ của các em thường la mắng, đánh đập các em mỗi khi các em có
sai phạm và ba mẹ có thái độ xúi giục các em thực hiện hành vi bạo lực khi bị
người khác xúc phạm, anh chị thì khơng quan tâm đúng cách đến các em. Nhà
trường chưa tổ chức được chương trình phịng chống BLHĐ và khơng đồng nhất
trong cách xử lý các hành vi sai phạm của các em, đơi khi nhà trường cịn dùng
hành vi bạo lực đối với các em. Khi gặp thầy cơ, đơi khi các em khơng chào vì
một số ngun nhân nào đó [15].
Tác giả Mai Thị Tuyết chỉ ra ngun nhân của bạo lực học đường chính
là sự bng lỏng của gia đình, thiếu sự chia sẻ từ thầy cơ giáo có thể khiến học
sinh bị tiêm nhiễm từ lối cư xử của các đối tượng bên ngồi nhà trường, dựa vào
nhau thành băng nhóm, nảy sinh bạo lực, chai sạn cảm xúc và thốt ly các quy
chuẩn của xã hội. Ngun nhân của bạo lực học đường cịn từ phim ảnh, trị chơi
bạo lực trên internet… và thậm chí là từ người lớn trong gia đình. Nhiều học sinh
có cha mẹ hoặc người thân có cách cư xử khơng chuẩn mực. Chính những thói
quen ứng xử hằng ngày của họ đã vơ tình gieo trong đầu các em những suy nghĩ
khơng tốt, dẫn đến việc các em có lối cư xử, hành xử khơng hay trong và ngồi
nhà trường với bạn bè. Ngồi ra cũng phải kể đến những thiếu sót và bất cập
23
trong giáo dục đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống cho học sinh [24]. Tác động từ
phương pháp giáo dục của nhà trường có ý nghĩa lớn trong việc hình thành đạo
đức của học sinh. Bên cạnh truyền thụ tri thức, những người làm cơng tác “trồng
người” cũng phải trang bị cho các em những giá trị nhân văn tốt đẹp. Tuy nhiên,
khơng có nghĩa chúng ta dồn hết trách nhiệm về sự tha hóa trong nhân cách đạo
đức của học sinh trong nhà trường. Phải có sự đồng bộ kết hợp từ gia đình, nhà
trường và xã hội để có thể định hướng cho các em tránh xa những yếu tố tiêu cực
trong cuộc sống.
24
KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
25
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Học sinh các khối lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 9 trường THCS Tân Dương.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Nam và nữ học sinh tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Học sinh từ chối tham gia nghiên cứu.
Học sinh khơng có mặt trong thời gian nghiên cứu.
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu
Trường Trung học cơ sở Tân Dương, huyện Thủy Ngun, thành phố
Hải Phịng.
2.1.3 Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2016 đến tháng 06/2017.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mơ tả cắt ngang.
2.2.2 Cỡ mẫu
Áp dụng cơng thức tính cỡ mẫu ước lượng tỷ lệ quần thể.
n =.
Trong đó:
n : Cỡ mẫu tối thiểu
α = Mức ý nghĩa thống kê. Chọn α = 0,05 (độ tin cậy 95%)
Z: Giá trị thu được từ bảng Z tương ứng với giá trị α được chọn
(chọn α = 0,05, Z =1,96)
p = 0,469 là tỉ lệ HS có hành vi BLHĐ ( Theo khảo sát của tác giả