Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Đề tài: Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực học đường ở học sinh một trường Trung học cơ sở tại huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng năm học 2016 – 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.2 KB, 78 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan khóa luận là do tơi trực tiếp thực hiện, các số  liệu trong  
khóa luận là trung thực, chính xác dựa trên phiếu phát vấn các em học sinh trường  
Trung học cơ sở Tân Dương chưa được cơng bố trong bất kỳ tài liệu nào. 

Hải Phịng, ngày 19 tháng 05 năm 2017  
Sinh viên

Đỗ Thùy Linh


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành cảm  ơn Ban Giám hiệu, phịng đào tạo Đại học, khoa Y 
tế Cơng cộng đã hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tơi trong q  
trình học tập, nghiên cứu và hồn thiện khóa luận. 
 

Tơi   xin   bày   tỏ   lịng   kính   trọng   và   biết   ơn   sâu   sắc   tới   cô   giáo   ThS.BS 

Nguyễn Thị Thanh Bình và cơ giáo ThS.BS Hồng Hoa Lê, người đã hướng dẫn tơi 
một cách tận tình, chi tiết để hồn thiện khóa luận này. 
 

Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, các thầy cơ giáo  

cùng các em học sinh trường Trung học cơ sở Tân Dương đã tạo điều kiện và giúp  
đỡ tơi hồn thành số liệu nghiên cứu. 
Cuối cùng, tơi gửi lời cảm  ơn tới cha mẹ, anh chị  em, bạn bè và những 
người đã ln  ủng hộ, động viên, giúp đỡ  tơi rất nhiều trong q trình học tập 6 
năm tại trường Đại học Y Dược Hải Phịng cũng như trong thời gian tơi làm khóa  


luận tốt nghiệp.

Hải Phịng, ngày 19 tháng 05 năm 2017  
Sinh viên

Đỗ Thùy Linh


DANH MỤC VIẾT TẮT
BL
BLHĐ
Bộ GD­ĐT 
CDC

Bạo lực
Bạo lực học đường
Bộ giáo dục và đào tạo
Trung tâm kiểm sốt và phịng ngừa dịch bệnh Hoa 

ĐHQGHN
ĐTNC
HS
THCS
THPT
TPHCM
WHO

Kỳ
Đại học quốc gia Hà Nội
Đối tượng nghiên cứu

Học sinh
Trung học cơ sở
Trung học phổ thơng
Thành phố Hồ Chí Minh
World Health Organization( Tổ chức Y tế Thế giới)

MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạo lực là vấn đề  của con người  ở  mọi thời đại, mọi quốc gia và mọi 
nền văn hóa. Trong cuộc sống,  ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề đều có nguy cơ 
bị  bạo lực. Bạo lực là hành vi cố  ý sử  dụng hoặc đe dọa sử  dụng vũ lực hoặc 
quyền lực để  tự  hủy hoại mình, chống lại người khác hoặc một nhóm người,  
một tập thể  cộng đồng làm họ  bị  tổn thương hoặc có nguy cơ  bị  tổn thương  
hoặc tử vong, bị sang chấn tâm thần, ảnh hưởng đến sự  phát triển của họ hoặc  
gây ra các ảnh hưởng khác [21].
Trẻ  em là chủ  nhân tương lai của đất nước, là người sẽ  góp phần xây 
dựng q hương, đất nước giàu mạnh trong tương lai. Tuổi vị  thành niên là giai  
đoạn phát triển rất cao về thể chất và có nhiều sang chấn, biến đổi trong tâm lý 
hết sức phức tạp. Chính yếu tố tâm lý cũng như thể chất và nhân cách chưa hồn  
thiện một cách đầy đủ  khiến cho trẻ  em trong lứa tuổi này hay bị  khủng hoảng 
về tâm lý dẫn đến những suy nghĩ và hành động sai lệch. 
Bạo lực học đường (BLHĐ) là một phần trong bạo lực của giới trẻ, xảy 

ra trong khn viên nhà trường, trên đường tới trường, hoặc từ  trường về  hay 
trong các hoạt động do nhà trường tổ  chức. Đó khơng phải là các lời nói, cử  chỉ 
trêu chọc, thân thiện khi vui đùa giữa các em [16]. Bạo lực trong lứa tuổi học  
đường, tuy khơng phải là vấn đề  mới mẻ  nhưng trong các nghiên cứu gần đây  
cho thấy xu hướng bùng phát mạnh mẽ, mức độ  và tính chất của hành vi này  
ngày càng nguy hiểm  ở  Việt Nam [17], [16], [6]. Hiện nay chưa có cơng trình  
nghiên cứu trên đối tượng học sinh Trung học cơ  sở  tại Hải Phịng. Tuy nhiên 
kết quả phỏng vấn nhanh một vài cán bộ giáo viên tại một số trường Trung học  
cơ sở tại Hải Phịng những năm gần đây đã ghi nhận bạo lực trong học sinh diễn 
ra cả  trong và ngồi trường học, đặc biệt xuất hiện những xơ xát xuất phát từ 
những mâu thuẫn, xích mích trên mạng xã hội đầy phức tạp [24]. Với câu hỏi đặt 
ra: Thực trạng bạo lực học đường  ở  học sinh tại một trường Trung học cơ  sở 


7

hiện nay như  thế  nào? Yếu tố  nào liên quan đến vấn đề  bạo lực học đường ở 
học sinh? Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:


8

“Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực học đường ở 
học sinh một trường Trung học cơ sở tại huyện Thủy Ngun, thành phố 
Hải Phịng năm học 2016 – 2017” với mục tiêu :
1. Mơ tả thực trạng hành vi bạo lực học đường ở học sinh một trường Trung học  
cơ sở tại huyện Thủy Ngun, thành phố Hải Phịng năm học 2016 ­ 2017.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực học đường ở  học sinh  
một trường Trung học cơ sở tại huyện Thủy Ngun, thành phố Hải Phịng năm  
học 

2016 ­ 2017. 


9

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Khái niệm về bạo lực và bạo lực học đường.
1.1.1 Bạo lực và phân loại bạo lực.


Khái niệm bạo lực

Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Bạo lực là hành vi 
cố ý sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hoặc quyền lực để  tự hủy hoại mình,  
chống lại người khác hoặc một nhóm người, một tập thể  cộng đồng làm họ  bị  
tổn thương hoặc có nguy cơ  bị tổn thương hoặc tử vong hoặc bị sang chấn tâm  
thần,  ảnh hưởng đến sự  phát triển của họ  hoặc gây ra các  ảnh hưởng khác” 
[47].
Định nghĩa này của WHO bao gồm cả những hành vi cố ý gây thương tích 
giữa người với người và hành vi tự sát cũng như các xung đột vũ trang. Những sự 
kiện xảy ra ngồi ý muốn (ví dụ tai nạn giao thơng hay cháy nổ) khơng được coi 
là bạo lực.
 Phân loại bạo lực
Theo WHO (2002), bạo lực được phân loại theo phạm vi bạo lực hoặc loại 
hành vi bạo lực, mỗi loại được chia nhỏ  hơn phản ánh nhiều loại bạo lực chi  
tiết hơn nữa [48].
a. Phạm vi bạo lực bao gồm:

Bạo lực tự thân: Được chia làm 2 thể chính là hành vi tự sát và ngược đãi 

bản thân.
Thể  thứ nhất bao gồm các hành vi nghĩ đến tự  sát, cố  gắng tự sát nhưng chưa 
thành cơng và tự sát thành cơng.
Thể thứ hai là các hành động tự hành hạ bản thân.
   Bạo lực giữa các cá nhân: Chia làm 2 thể:


10

Bạo lực gia đình và bạo lực tình dục: Loại hình bạo lực này rất phổ  biến giữa 
các   thành  viên trong  gia   đình và   với  đối  tác  quan hệ   tình  dục,   thơng  thường  
(nhưng khơng phải ln ln) xảy ra trong nhà. Loại hình bạo lực này bao gồm  
các hình thức như lạm dụng trẻ em, bạo lực tình dục, và hành hạ người cao tuổi.
Bạo lực cộng đồng: Bạo lực xảy ra giữa các cá nhân khơng có mối quan hệ ruột 
thịt, có thể  quen biết hoặc khơng quen biết nhau trước đây, thường xảy ra  ở 
ngồi. Loại hình bạo lực này bao gồm bạo lực ở giới trẻ, các hành động bạo lực 
ngẫu hứng, hiếp dâm hoặc quấy rối tình dục bởi người lạ và các hành động bạo  
lực xảy ra tại các cơ quan như trường học, cơng sở, trại giam…
Bạo lực chung (bạo lực có tổ chức): Bạo lực này chia làm 3 thể là:
Bạo lực xã hội: Bạo lực cam kết thúc đẩy chương trình nghị  sự xã hội như  bạo  
lực đám đơng, bạo lực các tổ chức tội phạm, khủng bố…
Bạo lực chính trị: Các cuộc chiến tranh và xung đột, bạo lực nhà nước…
Bạo lực kinh tế: Các cuộc tấn cơng của các nhóm vì lợi ích kinh tế.
Khơng giống với 2 loại bạo lực trên, các loại hình bạo lực này thường có động  
cơ rõ ràng bởi số lượng lớn các cá nhân hoặc của một tổ chức nào đó. Chính vì  
hành động bạo lực này gây ra bởi nhiều cá nhân nên hình thức và diễn biến vơ  
cùng phức tạp.
b. Loại hành vi bạo lực bao gồm:
Bạo lực thể chất.
Bạo lực tình dục.

Bạo lực tinh thần.
Kỳ thị/phân biệt đối xử/hắt hủi/xa lánh/thờ ơ.
Bốn loại bạo lực này xảy ra bên trong mỗi loại phạm vi bạo lực. Ví dụ 
bạo lực cộng đồng có thể  gồm bạo lực thể  chất, bạo lực tình dục  ở  nơi làm 
việc, kì thị, xa lánh người cao tuổi…
1.1.2 Bạo lực học đường và phân loại bạo lực học đường.


11

 Khái niệm bạo lực học đường
Theo Trung tâm kiểm soát chấn thương Hoa Kỳ  (CDC),   Bạo lực học  
đường là một phần thuộc bạo lực giới trẻ, xảy ra  ở những người trong độ  tuổi  
từ  6­24 tuổi [28]. Một số  hành vi bạo lực bao gồm bắt nạt, tát, đánh – thường  
gây tổn hại về tâm lý nhiều hơn so với thể chất. Một số hình thức khác như bạo 
lực băng đảng và tấn cơng vũ lực (có hoặc khơng sử dụng vũ khí) có thể dẫn đến 
những chấn thương nghiêm trọng, thậm chí tử vong [29].
Trường hợp bạo lực học đường: Được định nghĩa là các hành vi bạo lực 
ở  giới trẻ, xảy ra trong khn viên nhà trường, trên đường tới trường hoặc từ 
trường về và trong các hoạt động do nhà trường tổ chức [28].
Bắt nạt học đường: Là một hành động đối xử thơ bạo trong giới học sinh 
với nhau. Các hành vi bắt nạt bao gồm từ các hành động bạo lực về thể chất (đá, 
xơ đẩy) cho đến việc sử dụng lời nói (đặt tên hay đe dọa), bạo lực tinh thần như 
gây lời đồn, xa lánh, cơ lập [21].
 Phân loại bạo lực học đường
Trong khn khổ nghiên cứu này, bạo lực học đường được phân loại dựa trên 
phân loại của một số nghiên cứu trên thế giới trong đó bạo lực học đường  
được chia thành 4 nhóm [35], [44]:
Bạo lực thể chất: Bao gồm các hành vi như đánh, đấm, đá, đẩy, tát, dứt tóc, kéo 
tai, xé quần áo, trấn lột, cướp đồ vật của một/một nhóm học sinh khác.

Bạo lực bằng lời nói: Bao gồm các hành vi như gán/gọi biệt danh (mang ý nghĩa 
xấu),   chế   nhạo   làm   tổn   thương   nhau,   sỉ   nhục,   dùng   lời   nói   đe   doạ/ép   buộc  
một/một nhóm học sinh khác làm theo ý mình.
Bạo lực xã hội: Bao gồm các hành vi như  phân biệt đối xử, cơ lập, tẩy chay,  
tạo/phát tán tin đồn (mang ý nghĩa xấu) cho một/một nhóm học sinh khác.
Bạo lực điện tử: Bao gồm các hành vi như  nhắn tin, gọi điện để  uy hiếp đe 
doạ/ép buộc một/một nhóm học sinh khác làm theo ý mình, sử  dụng email,  ảnh 


12

cá nhân để  uy  hiếp,  đe  doạ,  ép  buộc  một/một  nhóm  học  sinh  khác  làm  theo  ý 
mình, lập/tham gia các hội trên mạng để cơ lập/tẩy chay một/một nhóm học sinh  
khác.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu này, khái niệm bắt nạt/bạo lực học đường 
được hiểu là bắt nạt/bạo lực giữa các học sinh/nhóm học sinh với nhau, xảy ra 
trong khn viên nhà trường, trên đường tới trường hoặc từ  trường về  hoặc  
trong các hoạt động do nhà trường tổ chức, bao gồm các hành vi bạo lực về thể 
chất (đánh, đấm, đá, đẩy, tát), bạo lực bằng lời nói (sỉ nhục, gán ghép biệt danh  
xấu), bạo lực về  các mối quan hệ  xã hội  (cơ lập, tẩy chay) và bạo lực điện tử 
(dùng tin nhắn, mạng xã hội, đe dọa, ép buộc, tẩy chay). Khái niệm này khơng đề 
cập đến hành vi bạo lực giữa giáo viên đối với học sinh và ngược lại.
1.2 Thực trạng bạo lực học đường trên thế giới và tại Việt Nam.
1.2.1 Bạo lực học đường trên thế giới.
Bạo lực học đường đang trở thành vấn nạn ở nhiều quốc gia. Theo ước  
tính của WHO, trung bình trên thế giới mỗi ngày có khoảng 565 trẻ em   và thanh 
thiếu niên trong độ tuổi từ 6 ­ 29 tử vong do các ngun nhân liên quan  đến bạo 
lực. Đi đơi với mỗi vụ tử vong do bạo lực trong giới trẻ, trung bình có từ 20 ­ 40 
nạn  nhân phải nhập viện do chấn thương. Các loại súng, súng ngắn là vũ khí  
được sử  dụng phổ  biến trong các vụ  bạo lực gây tử  vong; trong khi đó, với các  

vụ  bạo lực có mức độ  nhẹ  hơn, các hình thức thường được sử  dụng bao gồm  
đấm, đá, và một số loại vũ khí khác như dao, gậy, dùi cui [41].
Ở châu Á, bạo lực học đường cũng trở thành một vấn đề nhức nhối của  
ngành giáo dục nói chung và xã hội nói riêng. Tổ  chức cộng đồng tập trung vào 
trẻ  em Plan International cơng bố  về tình trạng bạo lực trong các trường  ở châu 
Á. Báo cáo dựa vào kết quả  nghiên cứu và khảo sát thực tế  với 9.000 học sinh  
lứa tuổi 12 – 17, các giáo viên, hiệu trưởng, phụ huynh tại 5 quốc gia: Campuchia, 
Việt Nam, Indonesia, Pakistan và Nepal. Theo báo cáo này, tình trạng bạo lực 
trong các trường học châu Á đang ở mức báo động. Chỉ tính trong 6 tháng, số học 


13

sinh bị  bạo lực tại trường học của Indonesia là 75%, Việt Nam đứng thứ  2 với  
71% [35], [31].
Khơng chỉ  tại các nước đang phát triển, rất nhiều quốc gia phát triển 
cũng đang phải đau đầu với vấn đề  bạo lực học đường. Người đứng đầu bang  
Queensland, Úc hồi tháng 7/2009 cho biết tình trạng bạo lực học đường nước 
này đang gia tăng một cách đáng sợ. Riêng năm 2008, 55.000 học sinh trong đó 
gần một nửa là nữ bị đình chỉ vì vấn đề bạo lực [32].
Một điều tra cắt ngang trên 161.082 học sinh ở 35 quốc gia Bắc Mỹ và 
Châu Âu năm 2005 đã cho kết quả đánh nhau là loại hình bạo lực phổ biến nhất  
tại đây. Cụ thể, có khoảng 37% ­ 69% nam sinh từng tham gia vào các vụ  ẩu đả 
trong vịng một năm trước thời điểm nghiên cứu và tỷ  lệ này ở nữ sinh dao động 
trong khoảng 
13% ­ 32%. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số loại vũ khí nguy hiểm thường được 
các học sinh tại đây sử dụng, bao gồm: dao, súng ngắn, dùi cui ,bình xịt hơi cay 
[47].
Nước Mỹ  là quốc gia mà bạo lực xảy ra hàng ngày, trong đó có bạo lực 
học  đường.  Mặc dù các trường hợp tử  vong do bạo lực học đường đã có xu 

hướng giảm trong thập niên 90 [43], nhưng sự quan tâm của dư luận với vấn đề 
an tồn trong trường  học vẫn khơng hề suy giảm, thậm chí có chiều hướng gia 
tăng  [14].  Kết  quả  từ  cuộc  khảo  sát  hành  vi  nguy  cơ  ở  giới  trẻ  tại  Mỹ  năm 
2003  cho  thấy  đánh  nhau  xuất  hiện  phổ  biến  ở học sinh THCS với 40,5% nam 
sinh  và  25,1%  nữ  sinh  trong  vòng  1  năm  trước  thời  điểm  tiến hành nghiên cứu 
[39]. Năm học 2005 ­ 2006, có khoảng 23% học sinh tham gia các băng nhóm tại 
trường và trong đó 38% các trường cơng lập đã có ít nhất một vụ bạo lực cần 
phải có sự can thiệp của cảnh sát [41]. Theo kết quả một cuộc khảo sát khác về 
hành  vi nguy cơ   ở  giới trẻ  của CDC năm 2009, có 31,5% học sinh đã tham gia 
đánh  nhau ít nhất 1 lần và 7,7% học sinh đã từng bị đe dọa hay bị thương ít nhất 
một  lần  do  những  trận tấn cơng có vũ khí gây ra trong vịng 1 năm trước thời  


14

điểm tiến hành điều tra [38].
Tại Nam Phi, năm 2007, một nghiên cứu tiến hành trên 5074 học sinh (lớp  
8 và lớp7) tại hai thành phố Cape Town và Durban đã cho kết quả hơn một phần 
ba số học sinh tham gia nghiên cứu (36,3%) từng liên quan đến các hành vi bạo  
lực. Trong đó, 8,2% là đối tượng bắt nạt, 19,3% là nạn nhân, 8,7% số cịn lại là  
những học sinh vừa bị bắt nạt, đồng thời cũng đi bắt nạt người khác, tập trung 
chủ yếu ở các nam sinh, đặc biệt là các nam sinh lớn tuổi hơn [36].
1.2.2 Bạo lực học đường tại Việt Nam.
Ở  Việt Nam những năm gần đây, dư  luận xã hội lên tiếng khá nhiều về 
bạo lực học đường với những lo ngại về sự đa dạng và mức độ  nguy hiểm của  
hành vi này. Các vụ bạo lực khơng chỉ gia tăng về số lượng mà cịn tăng cả mức  
độ nguy hiểm, nó lan rộng ra nhiều địa phương, báo động về thực trạng suy thối 
đạo đức, lối hành xử  bạo lực, thiếu lành mạnh  ở  một số  bộ  phận thế  hệ  trẻ 
chưa thành niên là học sinh. Những xơ xát tưởng chừng như rất trẻ con ấy lại trở 
nên nghiêm trọng, khơng chỉ  là những hiện tượng cá biệt, khơng chỉ  một vài  

trường mà cịn lan rộng ra cả thành thị  và nơng thơn, đồng bằng và miền núi với  
tốc độ gia tăng đáng kể.
Tại Việt Nam, bạo lực học đường diễn biến ngày một phức tạp. Theo  
thống kê của Cục cảnh sát điều tra về  trật tự  xã hội, từ  năm 2003 đến 2010,  
trung bình mỗi năm  xảy  ra khoảng 10.000 vụ  phạm tội trong lứa tuổi vị  thành 
niên; tỷ lệ học sinh, sinh viên, và thanh thiếu niên phạm tội và vi phạm pháp luật 
chiếm khoảng 1/4 tổng số vụ phạm pháp hình sự xảy ra trên tồn quốc [7]. Đặc 
biệt, theo báo cáo của Bộ  Giáo dục và Đào tạo (GD ­ ĐT), trong năm học 2003 
đến năm 2009, trên tồn quốc đã xảy ra khoảng gần 8.000 vụ việc học sinh đánh 
nhau ở trong và ngồi trường học. Các trường đã xử lý kỷ luật khiển trách 881 
học sinh, cảnh cáo 1.558 học sinh, buộc thơi học có thời hạn 3 ngày, 1 tuần hay 1 
năm với 735 học sinh. Như vậy, bình qn cứ 6.000 học sinh thì có một học sinh 
bị kỷ luật khiển trách, cứ 5.555 học sinh thì có một học sinh bị kỷ luật cảnh cáo 


15

vì đánh nhau, cứ 771 học sinh thì có một học sinh bị thơi học có thời hạn vì đánh 
nhau [29]. Gần đây nhiều vụ  bạo lực học đường xảy ra khơng chỉ   ở  thành phố 
mà cịn diễn ra cả ở nơng thơn, khơng chỉ ở học sinh nam mà cịn ở học sinh nữ ­  
vốn được coi là phái yếu như nữ sinh tụ tập đánh nhau hội đồng, làm nhục bạn.  
Nam sinh thì dùng dao, mã tấu, kiếm chém nhau ngay trong phịng học.  Ở nhiều 
nơi, do mâu thuẫn trong tình bạn, tình u đã dùng dao rạch mặt bạn, đâm chết  
bạn giữa trường.
Vấn   đề   bạo   lực   học   đường   ngày   càng   gia   tăng   với   số   lượng   chóng 
mặt,tiếp tục diễn biến phức tạp, trở thành vấn đề cấp bách ảnh hưởng đến q  
trình đào tạo và phát triển tồn diện của trẻ  em – chủ  nhân tương lai của đất 
nước. Ngơi trường được xem như  như  là mơi trường an tồn nhưng giờ  đây bị 
ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng học sinh hành xử như xã hội đen. Khơng  
chỉ  gia tăng về  số  lượng, mức độ  và tính chất nguy hiểm của các vụ  bạo lực  

trong học sinh cũng ngày càng nghiêm trọng. Kết quả điều tra quốc gia về thanh 
niên và vị thành niên Việt Nam năm 2009 (SAVY 2) đã cho thấy  tỷ lệ thanh thiếu 
niên từng mang hung khí là 2,8%, trong khi đó tỷ  lệ  này  ở  SAVY 1 chỉ  là 2,6%  
[33]. Bộ  GD­ĐT đã cơng bố  kết quả  nghiên cứu từ  tháng 9/2014 với 3.000 học 
sinh cho biết có khoảng 80% học sinh từ  trước đến nay bị  bạo lực giới ít nhất 
một lần, 71% bị bạo lực trong vịng 6 tháng qua. Mức độ an tồn của trường học  
được các em đánh giá rất thấp, chỉ  16% học sinh nữ  và 18% học sinh nam cho  
rằng trường học an tồn. Bên cạnh đó, tình trạng lập băng nhóm và đánh nhau có 
sự tham gia của các đối tượng bên ngồi trường học hay tổ chức đánh nhau thành 
từng  nhóm  có  hung  khí  trong  giới  học  sinh  cũng ngày càng phổ  biến, đặc biệt 
nguy hiểm là án mạng trong lứa tuổi học đường đã xảy ra  ở  nhiều tỉnh, thành  
phố trong cả nước [18].
Nghiên cứu “Thực trạng bạo lực học đường và một số yếu tố  liên quan 
đến hành vi bạo lực  ở học sinh trường THCS Lê Lai, quận 8, thành phố  Hồ Chí 
Minh” cho kết quả 13,2% học sinh có thực hiện hành vi bạo lực học đường trong  


16

6 tháng qua, mang vũ khí đến trường 5,9%, đe dọa các học sinh khác 12,2% và  
mắng chửi là 36,9%. Kéo theo đó việc có học sinh là nạn nhân của bạo lực học  
đường là 11,9% HS bị đánh, 10,3% bị đe dọa và 4,1% bị trấn lột. Các đặc tính cá 
nhân, gia đình, nhà trường và xã hội đều có liên quan rất lớn đến hành vi bạo lực 
của HS. Đặc biệt, tỷ  lệ học sinh từng bị bạo lực, gia đình có sử  dụng bạo lực, 
hay bạn bè có sử dụng bạo lực có hành vi bạo lực cao gấp 1,9 lần; 1,4 lần và 2,1 
lần so với những học sinh chưa từng bị bạo lực, gia đình khơng sử dụng bạo lực 
hay bạn bè khơng sử dụng bạo lực [21].
Nghiên cứu “Hành vi bạo lực học đường của học sinh THCS Thành Phố 
Huế” cho thấy kết quả  24% trong số  200 em học sinh  được hỏi nhận định là 
hành vi BLHĐ xảy ra rất thường xun; 33% cho là khá thường xun; 26,5% cho 

là thỉnh thoảng; 24,5% cho là ít và chỉ có 0,5% cho là hồn tồn khơng xảy ra [6].
Thời gian qua, các cấp chính quyền nước ta đã có nhiều giải pháp để 
ngăn chặn tình trạng bạo lực học đường, nhằm thiết lập một mơi trường học 
đường an tồn, thân thiện cho học sinh, đảm bảo an ninh cho xã hơi. Thơng tư 
liên tịch số  34/2009/TTLT­BGDĐT­BCA ngày 20/11/2009 của Bộ  Giáo dục và 
Đào tạo với Bộ Cơng an về “Hướng dẫn phối hợp thực hiện cơng tác bảo đảm 
an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ  thống giáo dục quốc dân” và có  
Quy chế phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và Cơng an tỉnh về thực hiện cơng 
tác đảm bảo an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc  
dân trên địa bàn tỉnh [4].
1.3 Một số yếu tố liên quan tới bạo lực học đường.
Các yếu tố liên quan tới bạo lực học đường ở học sinh bên cạnh một số 
đặc điểm riêng đặc trưng theo lứa tuổi và mơi trường thì đa phần có những đặc  
điểm tương tự  với bạo lực  ở giới trẻ, bao gồm các yếu tố  về  cá nhân và nhóm  
yếu tố  xuất phát từ  mối quan hệ  như  trong gia đình, nhà trường và xã hội [18],  
[49].
1.3.1 Yếu tố cá nhân


17

Ở  mức độ  cá nhân, liên quan tới bạo lực trong giới học sinh chủ yếu là 
các yếu tố thuộc về tuổi, giới, tâm sinh lý, sự phát triển và một số hành vi nguy  
cơ của thanh thiếu niên.
Theo một nghiên cứu của WHO vào năm 2000, các yếu tố cá nhân có liên 
quan tới bạo lực ở giới trẻ bao gồm [49]:
­ Hiếu động thái q.
­ Hấp tấp, bốc đồng.
­ Kiểm sốt hành vi kém.
­ Có tiền sử hung hãn từ rất sớm.

­ Có vấn đề về khả năng tập trung.
Yếu tố cảm xúc và hành vi nguy cơ đã có nghiên cứu chỉ ra có ảnh hưởng  
làm tăng hành vi bạo lực  ở học sinh. Trẻ vị thành niên có kết quả  học tập kém,  
thách thức, hung hăng, bốc đồng, lì lợm, dễ bị khiêu khích, ngang bướng, thường 
có mang theo vũ khí và liên quan tới bạo lực người khác. Trẻ  là nạn nhân của 
bạo lực thì xu hướng cảm xúc thường lo lắng, trầm cảm hay chán nản, sợ  hãi, 
thiếu cảm giác an tồn, thiếu tự tin, học tập kém, từng có ý nghĩ tự tử và cố gắng 
tự tử [20]. Tâm lý lứa tuổi học sinh trung học với sự phát triển chưa hồn thiện,  
cái “tơi’, bản tính “anh hùng” muốn thể  hiện bản thân trước bạn bè và khơng 
muốn thua thiệt “bùng phát” làm cho các em đơi khi chưa biết kiềm chế cảm xúc,  
dễ  dẫn đến những hành vi xơ xát, gây gổ  đánh nhau. Khả  năng nhận thức cũng 
như tư duy chưa chín muồi, vốn kỹ năng sống chưa trang bị đầy đủ, hiểu biết xã 
hội cịn q ít làm cho các em rất dễ  bị  kích động bởi những sự  việc đơn giản,  
đơi khi đó chỉ là sự hiểu nhầm rất nhỏ. Trên thực tế  khơng thiếu những hành vi 
BLHĐ nghiêm trọng mà xuất phát điểm chỉ  là những xích mích, hiểu lầm nhỏ 
giữa những học sinh với nhau [9].
Các yếu tố  nguy cơ  như  sử  dụng rượu bia, thuốc lá và chất kích thích 
cũng đã được chứng minh có liên quan tới hành vi bạo lực  ở  học sinh. Nghiên 


18

cứu của Nguyễn Thị  Thu Trang đã chỉ  ra học sinh có sử  dụng rượu bia có nguy  
cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn (OR=3,5; 95%CI: 1,4 ­ 8,5), nhóm 
học sinh sử dụng thuốc lá có nguy cơ thực hiện bạo lực xã hội, internet cao hơn  
(OR=2,6; 95%CI: 1,1­6,2) và (OR=4,9; 95%CI: 1,9 ­ 12,7) nhóm cịn lại [29], [28].
Những đối tượng có hành vi bạo lực bao gồm nhiều lứa tuổi khác nhau.  
Tuy nhiên vấn đề  đặc biệt nghiêm trọng đối với lứa tuổi thiếu niên. Theo một  
nghiên cứu trên học sinh từ lớp 7 đến lớp 12 của Úc đã chỉ ra rằng tỉ lệ trẻ bị bắt  
nạt giảm đi theo độ tuổi, trẻ càng lớn thì càng ít bị bắt nạt hơn [39].

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nam giới là đối tượng hay thực hiện hành 
vi bạo lực đồng thời cũng là nạn nhân của bạo lực xuất hiện phổ biến hơn và có  
mức độ  nghiêm trọng cao hơn so với nhóm nữ  sinh [48], [37], [35], [41]. Các 
nghiên cứu cho thấy rằng các em học sinh nam thường tham gia nhiều hơn vào 
các hoạt động bạo lực với các hình thức vũ lực như   ẩu đả, tổ  chức đánh nhau  
thậm chí có sử dụng vũ khí như dao, gậy… Trong khi hình thức bạo lực bằng lời  
nói lại diễn ra phổ biến ở các em học sinh nữ hơn [29].
Nghiên cứu của J.Wang trên đối tượng học sinh lớp 6­10 ở Mỹ cho thấy  
ở học sinh nam có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn nhóm học 
sinh nữ (OR=2,41; 95%CI: 1,91 ­ 3,05) [46].
Tác giả  Nguyễn Thị  Thu Trang khi nghiên cứu thực trạng bạo lực học  
đường và một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực ở học sinh trường Trung 
học phổ  thơng Trần Phú, quận Hồn Kiếm, Hà Nội cũng cho thấy sự  liên quan 
đến giới tính với bạo lực học đường. Ở học sinh nam có nguy cơ thực hiện hành  
vi bạo lực thể  chất và lời nói hơn học sinh nữ  (OR=2,6; 95%CI: 1,4 ­ 5,1 và  
OR=2; 95%CI: 1,3 ­ 3,2) [21].
1.3.2 Yếu tố mối quan hệ.
Yếu tố gia đình:
Ảnh hưởng từ  gia đình và cha mẹ  là yếu tố  chính tác động đến hành vi  
bạo lực  ở  giới trẻ. Việc giám sát và theo dõi lỏng lẻo của bố  mẹ  và cách giáo  


19

dục con chưa hợp lý sẽ  dẫn tới bạo lực khi trở  thành thanh thiếu niên. Hỗ  trợ 
của cha mẹ cao hơn thì con cái ít liên quan đến những vấn đề bạo lực hay hỗ trợ 
của cha mẹ có thể bảo vệ chính con cái của mình tránh xa được các vấn đề bạo 
lực [47]. Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM báo cáo kết quả  cho thấy 9,1%  
học sinh sống trong gia đình có cha mẹ  uống rượu hàng ngày; 33,4% học sinh  
sống trong gia đình có cha mẹ hoặc người thân thường xun cãi lộn, đánh nhau  

là những nguy cơ  gây  ảnh hưởng đến tinh thần trẻ  tổn thương, tâm trạng bực 
bội, khó chịu, dễ có hành động gây hấn, hung dữ hoặc có hành vi bạo lực khơng  
kiểm sốt được [8].
Nhà đơng con, cấu trúc gia đình như sống cùng bố mẹ hay chỉ sống cùng 
bố hoặc mẹ khơng sống cùng cả  hai đều có ảnh hưởng đến những hành vi của  
con [13]. Sống trong gia đình có hồn cảnh khơng thuận lợi sẽ tác động tiêu cực 
tới q trình hình thành và phát triển nhân cách của con cái. Nhiều nghiên cứu đã  
chỉ  ra rằng cha mẹ  ly hơn, ly thân có  ảnh hưởng nghiêm trọng tới nét tính cách  
của trẻ. Đa số  các em trở  nên tự  ti hay hung hãn hơn. Đơi khi các em muốn sử 
dụng hình thức này để gây sự chú ý với cha mẹ như một cách phản kháng với sự 
thiếu hụt tình u thương. Xu hướng quan tâm thái q cũng gây ra nhiều vấn đề 
phức tạp. Ở lứa tuổi học sinh các em có nhu cầu khẳng định, độc lập trong quyết 
định thì sự bao bọc, nghiêm khắc q mức sẽ khiến các em thấy áp lực. Vì vậy,  
gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và nhân cách của các em [9].
Ở nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Trang chỉ ra nhóm học sinh bị bạo lực 
từ  gia đình có nguy cơ  thực hiện hành vi bạo lực thể  chất cao hơn (OR=3,3; 
95%CI:   3,0   ­   9,3)   đồng   thời   cũng   có   nguy   cơ   trở   thành   nạn   nhân   cao   hơn 
(OR=2,3; 95%CI: 1,3 ­4,3). Học sinh được hỗ trợ  thấp từ  gia đình có nguy cơ  là 
nạn nhân của bạo lực lời nói cao hơn (OR=1,7; 95%CI: 1,0­2,7) [21].  Ở nghiên 
cứu của Trần Thị Chiến và Tơ Gia Kiên cũng chỉ ra rằng học sinh có gia đình sử 
dụng bạo lực có nguy cơ thực hiện hành vi cao (OR=1,4) [6].


20

Yếu tố bạn bè:
Ảnh hưởng của bạn bè đồng trang lứa là yếu tố quan trọng trong hành vi  
của giới trẻ. Đề tài “Ảnh hưởng của bạn bè tới hành vi lệch chuẩn của học sinh”  
trên 31 học sinh thiếu niên cá biệt tại trường THCS Thịnh Quang ( Hà Nội), đã 
liệt kê những hành vi lệch chuẩn của nhóm học sinh này và chỉ ra những ngun  

nhân dẫn đến các hành vi đó. Tác giả kết luận, hiện tượng bạn bè xấu rủ rê, lơi  
kéo là một trong những ngun nhân khá chủ yếu dẫn trẻ tới những hành vi lệch 
chuẩn [22]. Nếu như ở những giai đoạn lứa tuổi trước, vai trị của những người  
thân trong gia đình là quan trọng bậc nhất thì khi bước vào lứa tuổi vị thành niên, 
bậc học trung học thì sự cấu kết bên ngồi xã hội tăng dần mà biểu hiện rõ nhất 
là việc đề  cao các mối quan hệ  bạn bè. Bắt đầu hình thành các nhóm bạn với 
cùng sở thích, tính cách và bạn bè có ảnh hưởng lớn, chi phối nhận thức, thái độ,  
hành vi của các em [9].
Ở nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang cũng chỉ  ra rằng nhóm 
học sinh có bạn thân sử dụng vũ lực có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực điện  
tử cao hơn (OR=4,2; 95%CI: 1,6 ­ 11,3) nhóm cịn lại, đồng thời cũng có nguy cơ 
trở thành nạn nhân của bạo lực thể chất (OR = 3,4; 95%CI: 1,6 ­ 7,2), bạo lực xã 
hội (OR=3,4; 95%CI: 1,5 ­ 7,7), bạo lực điện tử  (OR=13,9; 95%CI: 3,7 ­ 46,1)  
[21].
Nghiên cứu tại trường THCS Lê Lai ­ quận 8 ­ thành phố  Hồ  Chí Minh 
cũng chỉ ra rằng học sinh có bạn sử dụng bạo lực có nguy cơ  thực hiện hành vi  
cao hơn (OR=2,1; 95%CI:1,96 ­ 2,55) [6]. Tác giả Nguyễn Thị Hoa với cơng trình 
nghiên cứu về các ảnh hưởng đến hành vi có vấn đề của trẻ vị thành niên đã chỉ 
ra ở lứa tuổi này các em xuất hiện ý nghĩ “Mình đã là người lớn”. Nhu cầu được  
khẳng định, được tơn trọng làm người lớn, được đối xử tơn trọng và bình đẳng là  
rất lớn, tư duy bồng bột, chưa sâu sắc nên những người làm bố, làm mẹ vẫn coi 
các em như  đứa trẻ  trước đó. Vì thế  giữa các em và bố  mẹ  thường xuất hiện  
mâu thuẫn, các em khơng hài lịng với  ứng xử  của người lớn. Khi đó các em 


21

thường tìm đến bạn bè để  chia sẻ. Trong hồn cảnh đó, các em rất dễ  bị   ảnh  
hưởng từ bạn bè, đặc biệt là bạn xấu với những ảnh hưởng tiêu cực là khó tránh 
khỏi dẫn đến những hành vi sai lệch ở các em [11].

Yếu tố trường học và xã hội:
Kết quả  nghiên cứu “Các yếu tố  tác động đến hành vi bạo lực của học  
sinh” đã chỉ  ra các nhân tố  chính tác động đến hành vi bạo lực  ở  học sinh là 
chứng kiến bạo lực, sự kém tn thủ quy định ở trường, mối quan hệ với bạn bè  
có vấn đề, nạn nhân của bạo lực,  ấn tượng về trường học, thái độ  với bạo lực 
và tính nóng nảy của cá nhân. Trình độ giáo dục cũng là một trong những yếu tố 
xác định mức độ  sử  dụng bạo lực của học sinh. Học sinh thường chơi trị chơi 
trực tuyến bạo lực, trình độ  giáo dục thấp cũng có hành vi bạo lực cao hơn và 
phổ  biến  ở  học sinh nam cao hơn học sinh nữ  [16]. Học sinh khơng xem phim 
bạo lực và chơi game bạo lực có hành vi bạo lực thấp hơn ở nhóm xem và chơi  
(OR=0,59 và OR=6,5) [6]. Mạng xã hội cũng là một ngun nhân dẫn đến bạo 
lực học đường. Từ những tin đồn, cãi vã, đăng ảnh bơi nhọ và bình luận ác ý trên 
Facebook đã khiến các em đánh nhau  ở  trường [32]. Kết quả  khảo sát các biện  
pháp khắc phục tình trạng BLHĐ gồm “Nhóm biện pháp áp dụng tại nhà trường, 
nhóm biện pháp áp dụng tại gia đình và nhóm biện pháp áp dụng cho xã hội” đối  
với học sinh tại Cần Thơ cho thấy các biện pháp đề xuất được đánh giá là “đồng  
ý”. Đây là cơ sở quan trọng giúp khắc phục tình trạng BLHĐ một cách tồn diện 
theo các yếu tố ảnh hưởng đến BLHĐ trong học sinh hiện nay [14]. Các trị chơi  
điện tử mang tính bạo lực hay phim  ảnh mang nội dung bạo lực diễn ra thường  
xun cũng dễ  dẫn đến việc các em “hung bạo” với người khác, trở  thành đối  
tượng gây bạo lực hay “co mình” mang các bệnh về  tâm lý khiến cho các bạn 
xung quanh gây bạo lực với mình (chủ yếu là vì lí do người khác). Có nhận định 
cho rằng, hành vi bạo lực được học từ  phim  ảnh và trị chơi bạo lực: “Kết quả 
so sánh giữa mức độ  thường xun xem phim bạo lực và chơi trị chơi điện tử 
bạo lực giữa các nhóm học sinh cho thấy: Nhóm học sinh gây bạo lực và nhóm  


22

học sinh vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của bạo lực có mức độ xem phim bạo  

lực và chơi trị chơi điện tử  thường xun hơn nhóm học sinh khơng liên quan 
đến bạo lực và nhóm học sinh là nạn nhân” hay “Khi học sinh thường xun xem  
phim bạo lực và chơi trị chơi điện tử bạo lực, trẻ sẽ tập nhiễm dần hành vi bạo 
lực, dần vơ cảm với cảm giác của người khác và cảm thấy mạnh mẽ  khi làm 
người khác đau đớn, chính vì vậy mà trẻ càng thể hiện hành vi bạo lực ngồi đời 
thường” [10].
Nghiên cứu “Ngun nhân dẫn đến bạo lực học đường tại trường THCS  
Lê Lai, quận 8, thành phố  Hồ  Chí Minh” do Lê Thị  Hồng Thắm, Tơ Gia Kiên 
thực hiện. Qua nghiên cứu cho thấy các em có hành vi bạo lực ln muốn chứng 
tỏ mình. Ba mẹ của các em thường la mắng, đánh đập các em mỗi khi các em có 
sai phạm và ba mẹ  có thái độ  xúi giục các em thực hiện hành vi bạo lực khi bị 
người khác xúc phạm, anh chị  thì khơng quan tâm đúng cách đến các em. Nhà 
trường chưa tổ chức được chương trình phịng chống BLHĐ và khơng đồng nhất 
trong cách xử  lý các hành vi sai phạm của các em, đơi khi nhà trường cịn dùng 
hành vi bạo lực đối với các em. Khi gặp thầy cơ, đơi khi các em khơng chào vì 
một số ngun nhân nào đó [15].
Tác giả Mai Thị Tuyết chỉ ra ngun nhân của bạo lực học đường chính  
là sự bng lỏng của gia đình, thiếu sự chia sẻ từ thầy cơ giáo có thể khiến học 
sinh bị tiêm nhiễm từ lối cư xử của các đối tượng bên ngồi nhà trường, dựa vào 
nhau thành băng nhóm, nảy sinh bạo lực, chai sạn cảm xúc và thốt ly các quy  
chuẩn của xã hội. Ngun nhân của bạo lực học đường cịn từ phim ảnh, trị chơi 
bạo lực trên internet… và thậm chí là từ người lớn trong gia đình. Nhiều học sinh 
có cha mẹ  hoặc người thân có cách cư  xử  khơng chuẩn mực. Chính những thói 
quen ứng xử hằng ngày của họ đã vơ tình gieo trong đầu các em những suy nghĩ  
khơng tốt, dẫn đến việc các em có lối cư  xử, hành xử  khơng hay trong và ngồi 
nhà trường với bạn bè. Ngồi ra cũng phải kể  đến những thiếu sót và bất cập  


23


trong giáo dục đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống cho học sinh [24]. Tác động từ 
phương pháp giáo dục của nhà trường có ý nghĩa lớn trong việc hình thành đạo 
đức của học sinh. Bên cạnh truyền thụ tri thức, những người làm cơng tác “trồng 
người” cũng phải trang bị cho các em những giá trị  nhân văn tốt đẹp. Tuy nhiên,  
khơng có nghĩa chúng ta dồn hết trách nhiệm về sự tha hóa trong nhân cách đạo 
đức của học sinh trong nhà trường. Phải có sự đồng bộ kết hợp từ gia đình, nhà 
trường và xã hội để có thể định hướng cho các em tránh xa những yếu tố tiêu cực 
trong cuộc sống. 


24

KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU


25

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Học sinh các khối lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 9 trường THCS Tân Dương.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Nam và nữ học sinh tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ
Học sinh từ chối tham gia nghiên cứu.
Học sinh khơng có mặt trong thời gian nghiên cứu.
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu
Trường Trung học cơ  sở  Tân Dương, huyện Thủy Ngun, thành phố 
Hải Phịng.
2.1.3 Thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2016 đến tháng 06/2017.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mơ tả cắt ngang.
2.2.2 Cỡ mẫu
Áp dụng cơng thức tính cỡ mẫu ước lượng tỷ lệ quần thể.
n =.
Trong đó:
n : Cỡ mẫu tối thiểu
α = Mức ý nghĩa thống kê. Chọn α = 0,05 (độ tin cậy 95%)
Z: Giá trị thu được từ bảng Z tương ứng với giá trị α được chọn 
(chọn α = 0,05, Z =1,96)
p  =  0,469  là  tỉ   lệ  HS  có hành  vi BLHĐ   ( Theo  khảo sát của   tác   giả 


×