Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát đặc điểm dinh dưỡng của bệnh nhân chấn thương sọ não nặng tại khoa hồi sức ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.75 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN
CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG TẠI KHOA HỒI SỨC NGOẠI
Huỳnh Văn Bình*, Nguyễn Trung Cường*, Trịnh Minh Đức*, Tạ Thị Tuyết Mai*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh nhân chấn thương sọ não có nhu cầu năng lượng và đạm cao. Suy dinh dưỡng sẽ gây
giảm hiệu quả điều trị, tăng nguy cơ biến chứng. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng
mới mắc sau 7 ngày điều trị.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu quan sát, mô tả 27 trường hợp chấn thương sọ não nặng tại Khoa
Hồi Sức Ngoại, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 01/2016 – 08/2016. Biến số nghiên cứu chính là tỷ lệ
suy dưỡng mới mắc theo thang điểm CONUT sau 7 ngày điều trị. Biến số nghiên cứu phụ là sự thay đổi điểm số
CONUT sau 7 ngày, tỷ lệ giảm các chất điện giải, và cân bằng nitrogen vào ngày thứ 3 và thứ 7.
Kết quả nghiên cứu: tỷ lệ suy dinh dưỡng mới mắc sau 7 ngày hồi sức là 2 trường hợp (7%). Điểm
CONUT trung vị ở ngày thứ bảy thấp hơn ngày thứ nhất (7 so với 5, p = 0,02). Mức cân bằng nitrogen vào ngày
thứ 3 là -1 (-7/2), và ngày thứ 7 là -4 (-11/1).
Kết luận: tỷ lệ suy dinh dưỡng mới mắc của bệnh nhân CTSN nặng sau 7 ngày điều trị là thấp. Mức độ dị
hóa tăng, nhu cầu đạm cao. Vì vậy, chế độ nuôi dưỡng cần thực hiện sớm trong 24 giờ đầu, và tăng lượng đạm
trong chế độ dinh dưỡng.
Từ khóa: suy dinh dưỡng, chấn thương sọ não nặng, hồi sức chấn thương sọ não, nuôi dưỡng bệnh nhân
nặng tại hồi sức, CONUT.

ABSTRACT
INVESTIGATE THE CHARACTERISTICS OF THE NUTRITION OF THE PATIENTS
WITH OF THE SEVERE TRAUMATIC BRAIN INJURY AT SURGICAL INTENSIVE CARE UNIT
Huynh Van Binh, Nguyen Trung Cuong, Trinh Minh Duc, Ta Thi Tuyet Mai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 6 - 2016: 198 - 203
Introduction: The patients with the severe traumatic brain injury require a high level of energy and protein.


The malnutrition reduces the effectiveness of treatments, and increases the risk of complications. The objective of
this study evaluates the rate of incidence of malnutrition on the patients with the severe traumatic brain injury
after seven days of treatment.
Methods: This is an observational study. We have reported 27 cases, which have been diagnosed of severe
traumatic brain injury in Surgical Intensive Care Unit from January to August 2016. The primary outcome was
the rate of incidence of malnutrition according to the scale of CONUT in the patient with severe traumatic brain
injury after seven days of treatment. The secondary outcomes were the change in the scale of CONUT after seven
days of treatment.
Results: The rate of incidence of malnutrition after seven days admission was 7%. The scale of CONUT at
7 day was lower of the first day (7 vs. 5, p = 0.02). The balance of nitrogen at 3rd day was -1 (-7/2), and was -4 (11/1) at 7th day after admission.
th

Conclusions: The rate of incidence of malnutrition in the patients with the severe traumatic brain injury at
*Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức - BV Nhân Dân Gia Định,
Tác giả liên lạc: BS. CKI. Huỳnh Văn Bình
ĐT: 0918051820

198

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016

Nghiên cứu Y học

Surgical Intensive Care Unit after the first week was low. The level of catabolism of these patients was increased.
The required of protein was high; therefore, the diet needs to perform early in the first 24 hours after admission,

and increasing amount of protein in the diet.
Keywords: malnutrition, severe traumatic brain injury, nutrition in brain injury, scale of CONUT.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương sọ não nặng là một trong
những nguyên nhân chính gây tử vong, tàn tật
và tăng chi phí điều trị tại hồi sức ngoại. Bệnh
nhân chấn thương sọ não sẽ tăng nhu cầu
chuyển hóa, mất nitơ nên cần phải được cung
cấp dinh dưỡng đầy đủ nhằm giúp cho hoạt
động thần kinh và phục hồi chức năng các hệ cơ
quan(1). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh suy
dinh dưỡng là một trong những yếu tố làm tăng
nguy cơ lệ thuộc máy thở và tăng nguy cơ cai
máy thất bại(13).
Một nghiên cứu đã tiến hành khảo sát ở 88
bệnh nhân chấn thương sọ não nặng, mục tiêu là
đánh giá sự liên quan giữa suy dinh dưỡng với
kết quả điều trị trong vòng 6 tháng. Suy dinh
dưỡng có liên quan đến sự hồi phục tri giác kém
(p < 0,002). Nguyên nhân dẫn đến suy dinh
dưỡng là chậm trễ nuôi dưỡng tiêu hóa(3).
Một nghiên cứu mô tả trên 100 bệnh nhân
chấn thương sọ não nặng cho thấy albumin,
pre-albumin giảm có nghĩa sau 4 ngày điều trị
và cân bằng nitơ âm trong suốt thời gian điều
trị. Các bệnh nhân này được nuôi dưỡng tiêu
hóa thường quy 800 – 1000 kcal/ngày trong
ngày đầu, các ngày sau có bổ sung thêm nuôi
dưỡng tĩnh mạch 600 kcal/ngày bằng đạm và

nhũ dịch béo(7).
Tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, bệnh
nhân chấn thương sọ não nặng được nuôi dưỡng
với mức năng lượng khoảng 2000 – 2500
kcal/ngày từ ngày thứ hai sau nhập viện, chưa có
nghiên cứu nào đánh giá đặc điểm dinh dưỡng
và hiệu quả nuôi dưỡng đối với bệnh nhân chấn
thương sọ não nặng. Câu hỏi đặt ra là “mức độ
suy dinh dưỡng ở bệnh nhân chấn thương sọ
não nặng tại hồi sức ngoại là bao nhiêu?” Chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu:

Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng mới mắc của
bệnh nhân chấn thương sọ não nặng sau 7 ngày
điều trị.
Xác định sự thay đổi điểm nguy cơ dinh
dưỡng theo CONUT của bệnh nhân chấn
thương sọ não nặng sau 7 ngày điều trị.

PHƯƠNGPHÁP-ĐỐITƯỢNGNGHIÊNCỨU
Đây là nghiên cứu quan sát, mô tả loạt ca.
Từ tháng 01 – 08/2016, chúng tôi đã chọn 27
trường hợp chấn thương sọ não nặng đưa vào
nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là những
trường hợp chấn thương sọ não nặng, có điểm
glassgow trong 24 giờ nhập viện từ 4 – 8 điểm
hoặc chấn thương sọ não cần thở máy. Các
trường hợp chấn thương sọ não nặng, có kèm
đa chấn thương nhưng không nguy kịch tính
mạng cũng được đưa vào nghiên cứu. Các

trường hợp chấn thương sọ não nặng có kèm
yếu tố nguy kịch tính mạng (sử dụng vận
mạch liều cao, hôn mê sâu với GCS 3 điểm) đã
được loại ra khỏi nghiên cứu.
Biến số nghiên cứu chính là tỷ lệ suy dinh
dưỡng mới mắc sau 7 ngày điều trị. Suy dinh
dưỡng mới mắc là tình trạng suy dinh dưỡng
mới xãy ra ở bệnh nhân không có suy dinh
dưỡng lúc nhập viện; hoặc mức độ suy dinh
dưỡng ở ngày thứ bảy cao hơn ngày thứ nhất.
Thời điểm nhập viện được tính là ngày 1. Suy
dinh dưỡng được đánh giá dựa vào thang điểm
CONUT. Bệnh nhân được chẩn đoán suy dinh
dưỡng dựa vào đánh giá của CONUT, khi
CONUT có điểm số > 1, CONUT từ 2-4 (suy dinh
dưỡng nhẹ); 5-8 (suy dinh dưỡng trung bình), và
≥ 9 (suy dinh dưỡng nặng).
Các biến số nghiên cứu phụ là sự thay đổi
điểm CONUT sau 7 ngày điều trị, mức độ suy
dinh dưỡng theo CONUT, tỷ lệ giảm các chất
điện giải gồm natri, kali, canxin toàn phần,

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định năm 2016

199


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016


magnesium, và phosphate máu, và cân bằng
nitrogen tại ngày thứ 3, và thứ 7 sau nhập viện.

Đặc điểm dinh dưỡng

Nhu cầu năng lượng mỗi ngày = 30 kcal x
cân nặng lý tưởng (CNLT). Nhu cầu đạm mỗi
ngày = 1,5 g x CNLT. Hệ số stress là 1,4.

Quy trình nghiên cứu
Bệnh nhân chấn thương sọ não có điểm
glassgow từ 4 – 8 điểm trong vòng 24 giờ nhập
hồi sức hoặc thở máy sẽ được đưa vào nghiên
cứu. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo quy
trình đánh giá dinh dưỡng của bệnh viện. Đánh
giá tình trạng dinh dưỡng lần 1 vào lúc 8 giờ
sáng sau ngày nhập viện. Đánh giá tình trạng
dinh dưỡng lần 2 vào ngày thứ 7 sau nhập viện.
Tất cả bệnh nhân được tiến hành đo sãi tay, vòng
cánh tay vào lúc nhập viện, và ngày thứ 7 sau
nhập viện (lúc 08 giờ). Tất cả các xét nghiệm máu
gồm: albumin, cholesterol, Na, K, Ca, phosphate,
Mg, tế bào lympho máu sẽ được thực hiện vào 4
giờ sáng ngày đánh giá dinh dưỡng. Lưu nước
tiểu 24 giờ: xét nghiệm urê nước tiểu vào 4 giờ
sáng ngày thứ 4 và thứ 8 sau nhập viện.

Biểu đồ 1: Phân bố tỷ lệ % phuong pháp nuôi
dưỡng trong 7 ngày đầu

Thời gian bắt đầu nuôi dưỡng trung bình
là 14 ± 3 giờ, sớm nhất là 7 giờ và muộn nhất là
20 giờ.
Nhận xét: nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa là
chủ yếu.

Cung cấp năng lượng trong 7 ngày đầu

Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 16,0.
Các biến định tính được trình bày bằng tần số và
tỷ lệ %. Các biến định lượng được trình bày bằng
giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
Nghiên cứu này đã được chấp thuận của Hội
đồng khoa học và Hội đồng đạo đức bệnh viện
Nhân Dân Gia Định.

Biểu đồ 2: Mức năng lượng cung cấp và mức
chênh lệch so với nhu cầu (kcal/ngày)

KẾTQUẢNGHIÊNCỨU

Nhận xét: mức năng lượng cung cấp trong 2
ngày đầu là thấp hơn so với nhu cầu.

Từ tháng 01 – 08/2016, chúng tôi đã nghiên
cứu được 27 trường hợp CTSN nặng, với tuổi
trung bình là 40 ± 18 (năm), lớn nhất là 89 tuổi và
nhỏ nhất là 17 tuổi. Giới tính nam là 26 trường
hợp (96%).


Cung cấp đạm trong 7 ngày đầu

Bệnh nhân CTSN đơn thuần là 21 trường hợp
(78%), và đa chấn thương là 6 trường hợp (22%).
Bệnh nhân CTSN có phẫu thuật là 20 trường
hợp (74%). Bệnh nhân có nhiễm trùng (viêm
phổi, và/ hoặc nhiễm trùng huyết) là 11 trường
hợp (41%).

200

Biểu đồ 3: Mức đạm cung cấp mỗi ngày và chênh
lệch so với nhu cầu

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016
Nhận xét: Chỉ duy nhất trong ngày 1, mức
đạm cung cấp yhaasp hơn nhu cầu là 42g

Đặc điểm của suy dinh dưỡng
Bảng 1. Phân bố các đặc điểm về dinh dưỡng.
Đặc điểm

Ngày 1
TB±ĐLC

Ngày 7
TB+ĐLC


P

Albumin máu (g/l)
30 ± 4,2
31,4 ± 4,4
0,1
Cholesterol máu
3 ± 0,9
3,7 ± 0,9 < 0,01
(mmol/l)
Tế bào lympho (k/µl)* 1,2 (0,9/1,8) 1,2 (0,9/1,7) 0,4
Giảm natri máu**
11 (41)
Giảm kali máu**
15 (56)
Giảm magnesium máu**
17 (65)
Giảm phosphate máu**
14 (67)
Giảm canxi máu**
25 (96)
Kém hấp thu**
2 (7)

Nhận xét: tỷ lệ giảm canxi máu là cao nhất
trong các yếu tố điện giải.
Cân bằng nitrogen: ngày thứ ba là -1 (-7 / 2);
ngày thứ bảy là -4 (-11 / 1). Sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê, p = 0,2.


Suy dinh dưỡng theo thang điểm CONUT
Tỷ lệ suy dinh dưỡng lúc nhập viện (N1),
và sau 7 ngày hồi sức đều là 26 trường hợp
(96%).
Tỷ lệ suy dinh dưỡng mới mắc xuất hiện
sau 7 ngày điều trị là 2 trường hợp (7%).

Sự thay đổi về dinh dưỡng sau 7 ngày điều
trị

Biểu đồ 4: Sự thay đổi của điểm CONUT và mức
độ suy dinh dưỡng sau 7 ngày
Nhận xét: sau 7 ngày điều trị có 33% bệnh
nhân CTSN nặng cải thiện mức độ suy dinh
dưỡng.
Điểm CONUT trung vị ngày đầu nhập viện

Nghiên cứu Y học

(N1) là 7 (4-9) điểm. Sau 7 ngày hồi sức là 5 (3-9)
điểm. Sau 7 ngày hồi sức, bệnh nhân có cải thiện
về dinh dưỡng, điểm CONUT ở N7 giảm hơn so
với N1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0,02.
Bảng 2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng lúc nhập viện, và sau 7
ngày hồi sức.
Đặc điểm
Ngày nhập viện n (%) Sau 7 ngày n (%)
Suy dinh dưỡng
26 (96)

26 (96)
Nhẹ
6 (22)
11 (40)
Trung bình
13 (48)
11 (40)
Nặng
4 (16)
5 (20)

Nhận xét: sau 7 ngày hồi sức, tỷ lệ bệnh nhân
suy dinh dưỡng trung bình và nặng giảm hơn so
với ngày nhập viện.

BÀN LUẬN
Từ tháng 01/2016 – 08/2016, chúng tôi đã
nghiên cứu được 27 trường hợp CTSN nặng,
tuổi trung bình là 39 ± 18 (năm), nam giới là 96%.
Do CTSN thường gặp ở bệnh nhân bị tai nạn lưu
thông, đối tượng thường là nam giới, và trong
tuổi lao động.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng lúc nhập viện là 96%.
Sau 7 ngày hồi sức, tỷ lệ suy dinh dưỡng mới
mắc là 7%. Điểm CONUT ngày thứ bảy giảm
thấp hơn ngày thứ nhất. Chúng tôi đã đạt được
mục tiêu nghiên cứu.
Bệnh nhân CTSN nặng được nuôi dưỡng bắt
đầu sớm nhất là 07 giờ, muộn nhất là 20 giờ,
trung bình là 14 ± 3 giờ. Theo khuyến cáo của các

tổ chức dinh dưỡng và ngoại thần kinh của Mỹ
và Châu Âu, thời gian bắt đầu nuôi dưỡng ở
bệnh nhân CTSN nặng nên càng sớm càng tốt,
trong vòng 24 giờ sau khi nhập viện. Phương
pháp nuôi dưỡng có thể chọn là tiêu hóa, hoặc
tĩnh mạch, hoặc cả hai tùy theo tình trạng bệnh
nhân(1,10). Trong nghiên cứu này, chúng tôi nuôi
dưỡng bằng đường tiêu hóa là chủ yếu. Nuôi
dưỡng tĩnh mạch thường được chỉ định vì 2
nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là nuôi
dưỡng trong vòng 24 giờ đầu nhập viện đối với
bệnh nhân CTSN nặng có đa chấn thương chưa
loại trừ chấn thương đường tiêu hóa hoặc có
nguy cơ phẫu thuật. Nguyên nhân thứ hai là
nuôi dưỡng hỗ trợ khi bệnh nhân suy dinh

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định năm 2016

201


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016

dưỡng nặng, cân bằng nitrogen âm hoặc kém
hấp thu (11%).
Các trường hợp CTSN nặng được nuôi
dưỡng dựa theo nhu cầu dự đoán với mức năng
lượng là 30 kcal/kg/ngày, và nhu cầu đạm là 1,5

g/kg/ngày theo cân nặng lý tưởng, cộng thêm
40% do tình trạng stress nặng(1,10). Kết quả nghiên
cứu cho thấy, mức năng lượng cung cấp trong
ngày đầu là thấp hơn so với nhu cầu dự đoán,
nhưng các ngày sau đều được nuôi đủ, và cao
hơn nhu cầu dự đoán khoảng 500 kcal/ngày.
Tương tự, lượng đạm cung cấp trong ngày đầu
cũng thấp hơn nhu cầu, nhưng các ngày còn lại
thì cao nhơn nhu cầu dự đoán từ 20 – 60 g/ngày.
Có rất nhiều nghiên cứu so sánh độ chính
xác của các phương pháp đánh giá tình trạng
dinh dưỡng ở bệnh nhân nặng(2,13,8,Error! Reference
source not found.,8,5,Error! Reference source not found.,11,8,Error! Reference

. Chúng tôi chọn đánh giá suy dinh
dưỡng dựa vào thang điểm CONUT. Đối với
bệnh nhân CTSN nặng, phương pháp đánh
giá dinh dưỡng dựa vào BMI, và vòng cánh
tay có nhiều hạn chế. Thứ nhất, đánh giá theo
BMI cần phải đo được cân nặng và chiều cao
chính xác, nhưng bệnh nhân CTSN nặng, nằm
bất động, hôn mê thì không thể thực hiện
được; do đó kết quả sẽ bị sai số rất nhiều. Thứ
hai là đánh giá dựa vào vòng cánh tay,
phương pháp nặng cũng bị hạn chế và nhiều
sai số do thước đo, kỹ thuật đo, và quan trọng
là bệnh nhân nằm bất động, phù sẽ làm sai
lệch kết quả; và đây cũng là nguyên nhân
khiến cho cân nặng ước lượng bị sai lệch và
đưa tới sai số khi đánh giá bằng BMI.


source not found.)

Các nghiên cứu về đánh giá cho bệnh nhân
nặng tại hồi sức đã đưa ra nhiều phương pháp
dựa vào mức độ sụt cân, các chỉ số sinh hóa như
albumin, prealbumin, số tế bào lympho trong
máu, cholesterol máu, … Tuy nhiên, đánh giá
dinh dưỡng theo CONUT được chứng minh là
có giá trị, độ chính xác và giá trị dự báo cao(Error!
Reference source not found.,11). Tại khoa hồi sức ngoại, đánh
giá dinh dưỡng theo CONUT là biện pháp thích
hợp nhất cho bệnh nhân CTSN nặng.

202

Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở ngày thứ nhất là 96%
(nhẹ - 22%; trung bình – 48%, và nặng – 16%). Tỷ
lệ suy dinh dưỡng mới mắc ở bệnh nhân CTSN
nặng theo CONUT sau 7 ngày điều trị là 7%. Tỷ
lệ suy dinh dưỡng ở ngày thứ 7 cũng là 96%. Tuy
nhiên mức độ suy dinh dưỡng có khác biệt (nhẹ
- 40%, trung bình – 40%, và nặng – 10%). Sau 7
ngày, tỷ lệ suy dinh dưỡng mức độ trung bình
và nặng có giảm thấp hơn so với lúc nhập viện.
Mặc dù tỷ lệ suy dinh dưỡng chung không
khác nhau giữa thời điểm nhập viện và sau 7
ngày, nhưng mức độ nặng có khác, và điểm
CONUT cũng có thay đổi giữa thời điểm nhập
viện và sau 7 ngày (7 điểm so với 5 điểm, p = 0,02).

Nguyên nhân tỷ lệ suy dinh dưỡng chung
sau 7 ngày đầu CTSN nặng không thay đổi là do
tình trạng dị hóa tăng cao. Mặc dù bệnh nhân đã
được nuôi dưỡng với mức năng lượng và đạm
dự đoán là 140%. Tình trạng tăng dị hóa thể hiện
qua kết quả cân bằng nitrogen được đo vào ngày
thứ ba và thứ bảy sau nhập viện. Mức cân bằng
nitrogen vào ngày thứ ba là -1 (-7/2); và ngày thứ
bảy là -4 (-11/1). Sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê, p = 0,2. Tình trạng tăng dị hóa do bệnh
nhân chấn thương nặng, mức độ dị hóa cao hơn
ở bệnh nhân có phẫu thuật, hoặc có nhiễm trùng
nặng (viêm phổi, nhiễm trùng huyết) trong 7
ngày đầu điều trị.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
tỷ lệ suy giảm các yếu tố điện giải là cao. Trong
đó tỷ lệ giảm canxi máu, phosphate máu, và
magnesium máu là cao nhất (> 65%).
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
tình trạng suy dinh dưỡng ở bệnh nhân CTSN
nặng chiếm tỷ lệ rất cao (đặc biệt là ngay từ lúc
nhập viện). Nguyên nhân có thể do bệnh nhân
đang tuổi lao động, thường xuyên uống rượu,
chế độ dinh dưỡng kém dẫn đến tình trạng suy
dinh dưỡng tăng cao. Đây là vấn đề cần được
quan tâm và đánh giá đầy đủ nhằm có hướng
can thiệp thích hợp. Với chế độ nuôi dưỡng hiện
tại, tỷ lệ suy dinh dưỡng mới mắc tuy thấp,
nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng hiện mắc vẫn còn


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016
rất cao. Do đó, việc nuôi dưỡng cần được tính
toán và tăng thêm nhằm cải thiện tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở bệnh nhân CTSN nặng.
Tóm lại, bệnh nhân CTSN nặng cần phải
được nuôi dưỡng đầy đủ, sớm trong vòng 24 giờ
với mức năng lượng cao (140%); trong đó nhu
cầu đạm tăng rất cao. Do đó, khẩu phần dinh
dưỡng phải tăng thêm đạm; và phối hợp nuôi
dưỡng đạm truyền tĩnh mạch nếu bệnh nhân có
tình trạng kém hấp thu hoặc mức dị hóa tăng
cao, và vấn đề này cần nghiên cứu thêm để có
khẩu phần dinh dưỡng thích hợp.

6.

7.

8.

9.

10.

KẾT LUẬN
Bệnh nhân CTSN nặng tại hồi sức ngoại có tỷ
lệ suy dinh dưỡng mới mắc thấp. Điểm số

CONUT sau 7 ngày có giảm hơn so với thời
điểm nhập viện. Bệnh nhân đã được cung cấp
năng lượng với mức là 140% so với nhu cầu. Tuy
nhiên, mức độ dị hóa tăng cao, đặc biệt là với
bệnh nhân đa chấn thương, phẫu thuật, có
nhiễm trùng kèm theo; cần phải tăng lượng đạm
trong chế độ dinh dưỡng. Trong tương lai, cần
xây dựng một chế độ dinh dưỡng giàu đạm và
nghiên cứu thêm để giúp cho việc nuôi dưỡng
đạt hiệu quả, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh
nhân CTN nặng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

Brain Trauma Foundation (2007). "Guidelines for the
management of severe traumatic brain injury". J Neurotrauma,
24 Suppl 1, S1-106.
Bùi Xuân Phúc & Tạ Thị Tuyết Mai (2015). "Điểm cắt chẩn
đoán suy dinh dưỡng của phương pháp FNA, SGA, sinh hóa
tổng hợp albumin và pre-albumin ở bệnh nặng". Tạp chí y học
TP HCM, 19 (5), 73-83.

Cederholm T, Bosaeus I, Barazzoni R, et al. (2015). "Diagnostic
criteria for malnutrition - An ESPEN Consensus Statement".
Clin Nutr, 34 (3), 335-340.
Chan PO, Clara MLB, Dumia Ii MV, et al. (2011). "Association
Between Hypoalbuminemia and Failure to Wean from
Mechanical Ventilator, A Cross-sectional Study". Phillipine
Journal of Internal Medicine, 49 (3), pp 123-129.
Detsky AS, Smalley PS, Chang J (1994). "The rational clinical
examination. Is this patient malnourished?". JAMA, 271 (1),
54-58.

11.

12.

13.

14.

15.
16.

17.

Nghiên cứu Y học

Dhanpadani SS, Manju D, Sharma BS et al. (2007). "Clinical
malnutrition in severe traumatic brain injury: factors
associated and outcome at 6 months". Indian Journal of
Neurotrauma, 4 (1), 35-39.

Dương Minh Trí & Tạ Thị Tuyết Mai (2015). "Giá trị chẩn
đoán suy dinh dưỡng của phương pháp sinh hóa tổng hợp ở
bệnh nhân phổi tắc nghẽn mạn tính". Tạp chí y học TP HCM,
19 (5), 40-47.
Ferro-Luzzi A & James WP (1996). "Adult malnutrition:
simple assessment techniques for use in emergencies". Br J
Nutr, 75 (1), 3-10.
Guigoz Y, Vellas B & Garry PJ (1996). "Assessing the
nutritional status of the elderly: The Mini Nutritional
Assessment as part of the geriatric evaluation". Nutr Rev, 54 (1
Pt 2), S59-65.
Huỳnh Huyền Trân & Tạ Thị Tuyết Mai (2015). "Điểm cắt
chẩn đoán suy dinh dưỡng của phương pháp sinh hóa tổng
hợp albumin và pre-albumin ở bệnh nhân lão khoa". Tạp chí y
học TP HCM, 19 (5), 55-62.
Ignacio De Ulibarri J, Gonzalez-Madrono A, De Villar NG, et
al. (2005). "CONUT: a tool for controlling nutritional status.
First validation in a hospital population". Nutr Hosp, 20 (1), 3845.
Kaiser MJ, Bauer JM, Ramsch C, et al. (2009). "Validation of
the Mini Nutritional Assessment short-form (MNA-SF): a
practical tool for identification of nutritional status". J Nutr
Health Aging, 13 (9), 782-788.
Mcclave SA, Martindale RG, Vanek VW, et al. (2009).
"Guidelines for the Provision and Assessment of Nutrition
Support Therapy in the Adult Critically Ill Patient: Society of
Critical Care Medicine (SCCM) and American Society for
Parenteral and Enteral Nutrition (A.S.P.E.N.)". JPEN J Parenter
Enteral Nutr, 33 (3), 277-316.
Nguyễn Thị Diệu Hiền, Lưu Ngân Tâm & Trần Quang Vinh
(2014). "Một số đặc điểm dinh dưỡng ở bệnh nhân chấn

thương sọ não nặng tại Bệnh viện Chợ Rẫy". Tạp chí y học TP
HCM, 18 (2), 426.
Sobotka L (2012). Basic Clinical Nutrition. In: GALEN (ed.) 4
ed.
Taylor SJ, Fettes SB, Jewkes C, et al. (1999). "Prospective,
randomized, controlled trial to determine the effect of early
enhanced enteral nutrition on clinical outcome in
mechanically ventilated patients suffering head injury". Crit
Care Med, 27 (11), 2525-2531.
Teasdale G & Jennett B (1974). "Assessment of coma and
impaired consciousness. A practical scale". Lancet, 2 (7872), 8184.

Ngày nhận bài báo:

15/08/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

21/09/2016

Ngày bài báo được đăng:

15/11/2016

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định năm 2016

203




×