Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Can thiệp nội mạch trong điều trị cấp cứu bệnh lý tiết niệu tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.17 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

CAN THIỆP NỘI MẠCH TRONG ĐIỀU TRỊ CẤP CỨU
BỆNH LÝ TIẾT NIỆU TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Trần Trọng Trí*, Nguyễn Thành Tuân**, Nguyễn Trọng Hiền*, Thái Kinh Luân**, Vũ Đức Huy*,
Quách Đô La*, Nguyễn Duy Điền*, Châu Quý Thuận*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Thi Văn Gừng***,
Nguyễn Huỳnh Nhật Tuấn***, Thái Minh Sâm*, Ngô Xuân Thái**

TÓM TẮT
Mở đầu: Can thiệp nội mạch có nhiều ứng dụng trong điều trị các bệnh lý Tiết Niệu nói riêng. Đặc biệt
thuyên tắc động mạch (Transarterial embolisation) là phương pháp hiệu quả trong điều trị chảy máu trong bệnh
lý Tiết Niệu. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kỹ thuật can thiệp nội mạch ngày càng hoàn thiện và có
thể thực hiện thuyên tắc mạch chọn lọc giúp bảo tồn phần mô xung quanh tổn thương cần can thiệp.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị các bệnh lý tiết niệu bằng can thiệp nội mạch tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo mô tả hàng loạt trường hợp.
Kết quả: Có 112 TH được điều trị can thiệp nội mạch tại khoa Tiết Niệu, bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng
01/2004 đến 12/2018, bao gồm 39 TH rò động tĩnh mạch thận, 05 TH phình động mạch thận, 57 TH chảy máu
từ động mạch thận, 06 TH do bướu thận xuất huyết, 02 TH chảy máu từ tuyến tiền liệt, và 03 TH chảy máu từ
động mạch vùng chậu. Tuổi trung bình 42,2 (12-84), bao gồm 43 nữ, 69 nam. Thời gian nằm viện trung bình là
06 ngày. Tỷ lệ tái phát là 8,03%. Có 09/112 TH chảy máu tái phát sau đó bao gồm: 04 TH sau đó can thiệp nội
mạch lại, 02 TH được ghép thận tự thân, 01 TH mổ cắt thận, 01 TH mổ mở để khâu cầm máu thận và 01 TH mổ
mở cột túi giả phình. Tỷ lệ điều trị thành công sau can thiệp nói chung là 103/112 TH (91,7%).
Kết luận: Can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị hiệu quả trong điều trị chảy máu trong các bệnh lý
tiết niệu.
Từ khoá: rò động-tĩnh mạch thận, can thiệp nội mạch, thuyên tắc động mạch

ABSTRACT
ENDOVASCULAR INTERVENTION FOR EMERGENT TREATMENT OF UROLOGICAL DISEASES
AT CHO RAY HOSPITAL


Tran Trong Tri, Nguyen Thanh Tuan, Nguyen Trong Hien, Thai Kinh Luan, Vu Duc Huy,
Quach Do La, Nguyen Duy Dien, Chau Quy Thuan, Hoang Khac Chuan, Thi Van Gung,
Nguyen Huynh Nhat Tuan, Thai Minh Sam, Ngo Xuan Thai
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 139 - 143
Background: Endovascular intervention is applied in urology treatment, especially transarterial
embolisation (TAE) is an effective method in control of haemorrhage irrespective of the nature of urological
emergency. As the technique and technology have evolved, it is now possible to perform highly selective
embolisation.
Objective: The study evaluates the results of endovascular intervention for urologic diseases at Cho
Ray hospital.
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Khoa Ngoại Tiết Niệu, bệnh viện Chợ Rẫy
***Khoa Chẩn Đoán Hình Ảnh, bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Trần Trọng Trí
ĐT: 0918086162
Email:

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học

139


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Methods: The study is a case series report.
Results: There were 112 cases of endovascular intervention for urologic diseases at Cho Ray hospital from
January 2004 to December 2018, including 39 cases of renal arteriovenous fistulas, 05 cases of renal aneurysm,
57 cases of injuries at the renal artery, 06 cases of hemorrhaging from kidney tumors, 02 case of hemorrhaging

from the prostate, and 03 cases of hemorrhaging from the pelvic artery. The average age in this study is 42.2 (1284), including 43 female patients and 69 male patients. The average hospitalized days is 06 days. The rate of
recurrence was 8.03%. There were 09/112 cases need to another treatments, including: 04 cases of re-intervention
in vascular, 02 cases of kidney transplantation, 01 case of nephrectomy, 01 case of open surgery to hemostatis and
01 case need surgery to fix pseudoaneurysm. In general, the successful rate of endovascular intervention was
91.7% (103/112 cases).
Conclusion: Endovascular intervention is the preferred treatment for haemorrhage irrespective of urologic
diseases.
Keywords: renal arteriovenous fistula, endovascular intervention, arterial embolization

ĐẶT VẤN ĐỀ

Phương pháp nghiên cứu

Từ những năm 1970, can thiệp nội mạch bắt
đầu được áp dụng trong y khoa nói chung và
trong Tiết Niệu nói riêng. Đặc biệt thuyên tắc
động mạch (Transarterial embolisation) là
phương pháp hiệu quả trong điều trị chảy máu
trong bệnh lý Tiết Niệu. Cùng với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, kỹ thuật can thiệp nội mạch
ngày càng hoàn thiện và có thể thực hiện thuyên
tắc mạch chọn lọc giúp bảo tồn phần mô xung
quanh tổn thương cần can thiệp(2,0,4,5,12).

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp
(case series).

Tuy nhiên các nghiên cứu về điều trị can
thiệp nội mạch trên bệnh lý Tiết Niệu ở nước ta

vẫn còn ít. Nhận thấy can thiệp nội mạch trong
bệnh lý Tiết Niệu là vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu nhằm điều trị tối ưu cho bệnh nhân
(BN) nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh
giá kết quả điều trị bằng can thiệp nội mạch
trong bệnh lý Tiết Niệu tại Bệnh viện Chợ Rẫy.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được điều trị các bệnh lý tiết niệu
bằng can thiệp nội mạch tại khoa Ngoại Tiết
Niệu, Bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian
từ tháng 01/2004 đến 12/2018.

Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có rối loạn đông cầm máu chưa
được điều trị, những trường hợp thiếu thông tin
hoặc mất theo dõi.

140

Các bước tiến hành
Chúng tôi báo cáo các trường hợp (TH) được
điều trị các bệnh lý tiết niệu bằng can thiệp nội
mạch tại khoa Ngoại Tiết Niệu, bệnh viện Chợ
Rẫy trong khoảng thời gian từ tháng 01/2004 đến
12/2018. Các trường hợp này đều được ghi nhận
triệu chứng lâm sàng, các dấu hiệu hình ảnh học
của chụp hình mạch máu kỹ thuật số xóa nền
(DSA). Qua đó chúng tôi thu thập các dữ liệu về:

triệu chứng lâm sàng, các dấu hiệu hình ảnh học,
phương pháp điều trị, tai biến, biến chứng của
quá trình điều trị.
Các bước tiến hành can thiệp nội mạch
Kiểm tra đầy đủ hồ sơ và đánh giá bệnh
nhân trước thủ thuật:
Đánh giá tiền căn: dị ứng thuốc cản quang,
suy thận, suy tim, tiểu đường, rối loạn đông
máu, hen phế quản.
Biên bản cam kết thực hiện thủ thuật của
bệnh nhân và thân nhân.
Biên bản hội chẩn.
Tình trạng BN hiện tại trước thủ thuật.
Xét nghiệm tiền phẫu.
Chuyển bệnh nhân vào phòng DSA sau khi
đã đầy đủ điều kiện làm thủ thuật.

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Đặt thông niệu đạo bàng quang, gây tê
hoặc mê nội khí quản, dùng Monitoring theo
dõi mạch, huyết áp, độ bão hòa oxy mao mạch,
nhịp tim.
Bộ dụng cụ sử dụng
Thuốc sát trùng Betadine, gòn, gạc, Kelly.
Xy lanh loại 03 ml, 05 ml, 10 ml, chạc 3.
Nước muối sinh lý pha với heparin
3000UI/500ml NaCl 0,9%.

Thuốc tê Lidocain 2% 4ml.
Thuốc cản quang Xenetix.
Bộ dụng cụ chọc dò: kim chọc dò, dao rạch
da, bộ sheath 6 – 8F, mini guidewire.
Bộ dụng cụ chụp mạch máu
Ống thông chẩn đoán 5F (Vertebral,
Simmons, JB2, …), guidewire 0,035 inches đầu
cong J.
Bộ dụng cụ can thiệp
Nếu can thiệp thả bóng đường động mạch:
01 bộ đường truyền áp lực có Heparin 3000 UI/
500 ml NaCl 0,9%, Y – adapter, Sheath 8F,
Guiding catheter 8F, bộ Microcatheter mang
bóng, bóng Goldbalt các kích thước.
Nếu can thiệp thả PVA, keo, spongel
đường động mạch: 01 bộ đường truyền áp lực
có Heparin 3000 UI/ 500 ml NaCl 0,9%,
Y–adapter, Sheath 6F, Guiding catheter 0036F,
Microcatheter 2,7F, Microguidewire 0,014
inches, PVA, keo, sponel.
Tiến hành thủ thuật
Sát trùng bằng Betadine vùng bẹn đùi 02 bên.
Trải drap vô trùng từ cổ tới phủ hết chân
bệnh nhân với bộc lộ vùng bẹn chỗ vị trí chọc dò.
Tiến hành gây tê tại chỗ và đặt sheath 6F
hoặc 8F vào động mạch đùi.
Đặt Guiding catheter 6F hoặc 8F (gắn đường
truyền áp lực có Heparin 3000 UI/ 500 ml NaCl
0,9%) vào động mạch thận cần can thiệp.
Chụp xác định tư thế thích hợp trước khi

tiến hành can thiệp.
Tiến hành thả bóng hay bơm keo, PVA,
spongel tùy theo đặc tính tổn thương động

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học

Nghiên cứu Y học

mạch thận.
Chụp kiểm tra trước khi kết thúc thủ thuật.
Kết thúc thủ thuật
Ghi nhận các dấu hiệu sinh tồn.
Rút toàn bộ hệ thống ống thông – dây dẫn ra
khỏi bệnh nhân theo thứ tự.
Rút sheath và băng ép tại chỗ hoặc sử dụng
dụng cụ đóng mạch máu.
Chuyển BN ra phòng hồi sức hậu phẫu.

KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2004 đến
12/2018 có 112 trường hợp được điều trị bằng
can thiệp nội mạch (CTNM) tại khoa Ngoại Tiết
Niệu, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Đặc điểm lâm sàng
Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 42
tuổi, trong đó nhỏ nhất là 12 tuổi và lớn nhất là
84 tuổi.
Tỷ lệ nữ là 38,4% (43 TH), tỷ lệ nam là 61,6%
(69 TH).
Bảng 1: Lý do nhập viện

Lý do nhập viện

Số trường hợp

Tỷ lệ (%)

Tiểu máu

87

77,7

Đau bụng

11

9,8

Tăng huyết áp

1

0,9

Chảy máu

9

8


Phát hiện tình cờ

4

3,6

Tổng cộng

112

100

Tiểu máu là lý do nhập viện thường gặp
nhất với tỷ lệ 77,7%. Tình cờ phát hiện chiếm
tỷ lệ 3,6% (Bảng 1).
Bảng 2: Chỉ định can thiệp nội mạch
Bệnh lý cần can thiệp nội
mạch
Rò động tĩnh mạch thận

Số trường hợp Tỷ lệ (%)
39

34,8

Phình động mạch thận

5

4,5


Chảy máu từ động mạch thận

57

50,9

Bướu thận xuất huyết

6

5,4

Chảy máu từ tuyến tiền liệt
(TLT) sau sinh thiết TLT

2

1,8

Chảy máu từ động mạch vùng
chậu

3

2,6

Tổng cộng

112


100

141


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học
Điều trị

Can thiệp nội mạch
Bảng 3: Phương pháp can thiệp nội mạch
Chất liệu dùng để thuyên tắc mạch
Spongel
Keo
Bóng
Coil
PVA
Coil + PVA
Amplatzer + Coil
Không can thiệp được
Tổng số

Số TH Tỷ lệ (%)
25
22,3
44
39,2
8

7,1
24
21,4
5
4,5
3
2,8
1
0,9
2
1,8
112
100

Kết quả can thiệp nội mạch
Trong mẫu nghiên cứu 112 TH được can
thiệp nội mạch, trong đó thành công là 103/112
TH (92%) và thất bại là 9/112 TH (8%). Thời gian
tiến hành can thiệp nội mạch ít nhất là 0,5 giờ,
nhiều nhất là 2,25 giờ. Thời gian nằm viện trung
bình là 6 ngày.
Trong số 9/112 TH thất bại thì 4 TH được can
thiệp nội mạch lại, 2 TH được ghép thận tự thân,
1 TH mổ cắt thận, 1 TH mổ mở để khâu cầm
máu thận và 1 TH mổ mở cắt túi giã phình.

BÀN LUẬN
Chụp X quang mạch máu với kỹ thuật xóa nền
(DSA)
Tất cả các TH trong nghiên cứu của chúng

tôi đều được chẩn đoán xác định tổn thương
mạch máu liên quan đến hệ tiết niệu trên chụp
hình mạch máu với kỹ thuật xóa nền (DSA).
Chụp hình mạch máu xóa nền (DSA) vẫn là tiêu
chuẩn vàng trong chẩn đoán tổn thương mạch
máu giúp xác định vị trí và số lượng các nhánh
động mạch cấp máu cho vùng tổn thương, ngoài
ra trong quá trình chụp động mạch chúng ta còn
có thể điều trị bằng cách bơm các vật liệu thuyên
tắc ngăn chặn chảy máu(1,2,6,8).
Riêng trường hợp rò động tĩnh mạch, chụp
động mạch của một rò động tĩnh mạch thận
(RĐTMT) thể hiện trực quan chất cản quang
nhanh chóng vào trong tĩnh mạch chủ dưới
trong vòng vài giây sau tiêm chất cản quang vì
luồng thông nhanh chóng giữa máu từ hệ thống

142

động mạch với hệ thống tĩnh mạch(1,9,11,15). Giảm
đậm độ trên nephrogram cũng có thể xuất hiện
đầu xa của các RĐTMT. Trong nghiên cứu
chúng tôi, vị trí RĐTMT thường gặp nhất là cực
giữa với tỉ lệ 38,5%. Các nghiên cứu về RĐTMT
khác ghi nhận RĐTMT tại rốn thận có lưu lượng
rất lớn, ảnh hưởng nhiều lên huyết động của cơ
thể, từ đó gây suy tim và thường kèm giãn lớn
tĩnh mạch thận nên cho rằng vị trí RĐTMT tại
rốn thận hay không phải tại rốn thận là yếu tố
cần xem xét khi chọn lựa phương pháp điều trị.

Qua hình ảnh DSA, dấu hiệu rò động tĩnh mạch
thường gặp nhất là dấu hiệu thuốc hiện sớm ở
tĩnh mạch thận và tĩnh mạch chủ dưới trong thì
động mạch, chiếm tỉ lệ 100%. Dấu hiệu “nidus”
trên phim DSA chiếm tỉ lệ 50%. Đây là những
dấu hiệu giúp chẩn đoán xác định RĐTMT(2).
Dấu hiệu ít gặp nhất là dấu thuốc cản quang
thoát mạch với tỉ lệ 15,4%, dấu hiệu này cho thấy
chảy máu đang diễn tiến. Về bất thường mạch
máu khác đi kèm với RĐTMT thì hình ảnh giả
phình chiếm tỉ lệ cao nhất với tỉ lệ 42,3%.
Can thiệp nội mạch
Phân tích việc chọn lựa chất liệu thuyên tắc
của các TH trong nghiên cứu như sau:
Spongel là chất thuyên tắc tạm thời nên
không phải là giải pháp triệt để trong điều trị rò
động - tĩnh mạch thận. Trong nghiên cứu có 1
trường hợp được sử dụng spongel trong điều trị
rò động - tĩnh mạch thận mắc phải và đây là một
trong số các trường hợp can thiệp nội mạch thất
bại(10,14).
Keo (n-butyl cyanoacrylate) bình thường ở
dạng lỏng, khi gặp các ion trong máu thì xảy ra
phản ứng trùng hợp trở thành dạng đặc. Phản
ứng này đồng thời sinh nhiệt làm tổn thương
lòng mạch, góp phần thuyên tắc mạch máu. Đây
là chất liệu thuyên tắc mạch được sử dụng nhiều
nhất vì có ưu điểm trong việc thuyên tắc các
nhánh động mạch nhỏ(7,10).
Bóng thường được sử dụng trong các trường

hợp rò động - tĩnh mạch thận có lưu lượng lớn
nhờ khả năng gia tăng thể tích cho phù hợp với
đường kính nhánh động mạch cần thuyên tắc.

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Ngoài ra có nghiên cứu nhận thấy rằng biến
chứng thuyên tắc phổi ít gặp khi thuyên tắc
bằng bóng. Tuy nhiên bóng có khuyết điểm là
không sử dụng được cho ống thông nhỏ nên
không thể tiếp cận được các động mạch nhỏ và
không được sử dụng cho rò động - tĩnh mạch
thận có “nidus”(10,13).
Coil cũng là một chọn lựa tốt cho các rò động
- tĩnh mạch thận có kích thước lớn có kèm theo
giả phình. Ngoài ra với kĩ thuật thuyên tắc mạch
chọn lọc cho phép thả coil vào chính xác nhánh
động mạch cấp máu, tránh được biến chứng
thuyên tắc nhầm chỗ. Tuy nhiên coil vẫn không
phải là chất thuyên tắc có thể tiếp cận được cấu
trúc “nidus” nên ít khi được sử dụng cho rò
động - tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng ngoài
thận(10,14).
PVA (polyvinyl alcohol) được sử dụng cho
4,5% các trường hợp can thiệp nội mạch. PVA
gây ra phản ứng viêm tại chỗ, khởi động quá
trình hình thành huyết khối từ đó gây thuyên tắc
mạch. PVA có kích thước hạt nhỏ nên chỉ phù

hợp cho rò động - tĩnh mạch thận có lưu lượng
thấp. Nhiều nghiên cúu ghi nhận PVA có hiệu
quả không cao trong thuyên tắc mạch máu
lớn(10,14).

KẾT LUẬN
Can thiệp nội mạch có thể được dùng trong
điều trị trong bệnh lý đường Tiết Niệu với ưu
điểm của một phương pháp điều trị ít xâm hại
và có tỷ lệ thành công cao. Tuy nhiên để kết luận
về vai trò của các phương pháp này trong thực
tế lâm sàng tại Việt Nam thì chúng ta cần những
nghiên cứu trên số lượng bệnh lớn hơn và thời
gian theo dõi lâu dài hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

Abdel-Gawad EA, Housseini AM, Cherry KJ, Bonatti H, Maged
IM, Norton PT, Hagspiel KD (2009). CT angiography of renal
arteriovenous fistulae: a report of two cases. Vasc Endovascular
Surg, 43:416–420.
Chimpiri AR, Natarajan B (2009). Renal vascular lesions:
diagnosis and endovascular management. Seminars in
Interventional Radiology, 26(3):253–261.

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học


3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.

15.

Nghiên cứu Y học

Đỗ Anh Toàn, Đặng Đình Hoan, Nguyễn Tuấn Vinh, Vĩnh
Tuấn, Nguyễn Văn Ân, Hoàng Thiên Phúc, Vũ Lê Chuyên

(2010). Can thiệp nội mạch trong niệu khoa: kết quả bước đầu
qua 14 trường hợp tại bệnh viện Bình Dân. Y Học Thành Phố Hồ
Chí Minh, 14(1):14.
Fan CM and Poplausky MR (1999). Transcatheter renal artery
embolization: Indications and technical considerations.
Techniques in Vascular and Interventional Radiology, 2(2):114-122.
Hà Văn Ngạc, Trịnh Xuân Hội (1991). Một trường hợp thông
động mạch thận với tĩnh mạch chủ bụng làm thiếu máu thận
gây tăng huyết áp. Y Học Thực Hành, Hà Nội, 6:32-33.
Lee BB, Baumgartner I, Berlien H, Bianchini G, Burrows P, Do Y,
Ivancev K, Kool L, Laredo J and Loose D (2013). Consensus
Document of the International Union of Angiology (IUA)-2013
Current concepts on the management of arterio-venous
malformations. Int Angiol, 32(1):9-36.
Lê Thanh Dũng, Ngô Lê Lâm, Nguyễn Duy Huề, Đỗ Ngọc Sơn,
Nguyễn Vũ Khải Ca (2008). Điều trị thông động tĩnh mạch thận
bằng phương pháp điều trị can thiệp nội mạch nhân 3 trường
hợp. Y học Việt Nam, 2(349): 5-9.
Loffroy R, Lambert A, Mousson C, Tanter Y, Martin L, Cercueil
JP and Krausé D (2007). Management of post-biopsy renal
allograft arteriovenous fistulas with selective arterial
embolization: immediate and long-term outcomes. Clinical
Radiology, 63(6):657-665.
Lorenzen J, Schneider A, Körner K, Regier M, Adam G and
Nolte-Ernsting C (2012). Post-biopsy arteriovenous fistula in
transplant kidney: Treatment with superselective transcatheter
embolisation. European Journal of Radiology, 81(5):721-726.
Matsumaru Y, Hyodo A, Nose T, Hirano T and Ohashi S (1997).
“Embolic materials for endovascular treatment of cerebral
lesions”. J Biomater Sci Polym Ed, 8(7):555-569.

Nguyễn Phước Bảo Quân, Phan Trọng An, Hoàng Minh Lợi,
Nguyễn Trọng Khoan (2001). Vài nhận xét nhân hai trường hợp
dị đạng động tĩnh mạch thận bẩm sinh. Y Học Việt Nam, 11(1):
79-83.
Somani BK, Nabi G, Thorpe P, McClinton S (2006).
Endovascular control of haemorrhagic urological emergencies:
an observational study. BMC Urology; 6(1):27.
Seitz M, Waggershauser T, Khoder W (2008). Congenital
intrarenal malformation presenting with gross hematuria after
endoscopic intervention: a case report. J Med Case Reports,
2:326.
Takebayashi S, Hosaka M, Kubota Y, Ishizuka E, Iwasaki A,
Matsubara S (1998). Transarterial embolization and ablation of
renal arteriovenous malformations: efficacy and damages in 30
patients with long-term followup. J Urol Mar; 159(3):696-701.
Trần Ngọc Sinh, Dương Thị Kim Cúc, Dư Thị Ngọc Thu, Trần
Trọng Trí, Chu Quí Thuận, Nguyễn Thị Thái Hà (2010). Ghép
thận tự thân trong hẹp và dò động tĩnh mạch thận: nhân một
trường hợp. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 14(1): 22-26.

Ngày nhận bài báo:

01/04/2019

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

05/05/2019

Ngày bài báo được đăng:


10/06/2019

143



×