Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.83 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

CAN THIỆP NỘI MẠCH THUYÊN TẮC
TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚU THẬN DẠNG AML
Nguyễn Ngọc Thái**, Đỗ Anh Toàn**, Nguyễn Tuấn Vinh*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Vũ Lê Chuyên*,
Đặng Đình Hoan*, Nguyễn Tiến Đệ*, Nguyễn Xuân Huy*, Đỗ Hoàng Dũng*, Phan Thành Thống*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bướu cơ mỡ mạch máu là bướu lành tính ở thận. Thuyên tắc động mạch nuôi bướu được tiến
hành trên những bệnh nhân có triệu chứng hoặc để phòng ngừa xuất huyết. Mục đích của nghiên cứu là để mô tả
và đánh giá một phương pháp can thiệp nút mạch sử dụng keo n-butyl cyanoacrylate (NBCA) và hạt
polyphosphazene microspheres.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Từ 07/2015 đến 05/2017 có 18 trường hợp (TH) được thực hiện.
Thông tin được thu thập qua bệnh án nghiên cứu. Các TH đều được siêu âm và chụp CTscan để đánh giá kích
thước trước và sau can thiệp. Số liệu được xử lý theo phần mềm SPSS 16.0.
Kết quả: Trong thời gian từ 07/2015 đến 05/2017, có 18 TH AML có chỉ định can thiệp. Tuổi trung bình 50
± 4,9 (26-67), bao gồm 02 nam, 16 nữ. Chúng tôi đã điều trị thành công cho 17/18 (TH) (94,4%). Một TH cần
thuyên tắc lại trong thời gian theo dõi bởi vì bệnh nhân tiểu máu dai dẳng. Kích thước trung bình của bướu AML
là 7,32 ± 6,2 cm (nhỏ nhất là 4 cm, lớn nhất là 16 cm). Các biến chứng nhẹ (hội chứng sau thuyên tắc). 14 bệnh
nhân được điều trị bằng biện pháp bảo tồn, có 01 TH tiểu máu kéo dài cần can thiệp lần 2 và 03 TH viêm thận bể thận. Mức giảm kích thước bướu AML trung bình sau 03 tháng là 2,29 ± 2,3 (giảm 31,3%).
Kết luận: Thuyên tắc mạch trong điều trị AML sử dụng keo NCBA và Embosphere là hiệu quả và an toàn.
Điều trị dự phòng cũng như trong trường hợp cấp cứu, giảm đáng kể kích thước khối u trong thời gian theo dõi.
Từ khóa: Bướu cơ mỡ mạch máu, thuyên tắc động mạch, n-butyl cyanoacrylate (NBCA).

ABSTRACT
ENDOVASCULAR EMBOLIZATION OF SYMPTOMATIC AND ASYMPTOMATIC RENAL
ANGIOMYOLIPOMAS
Nguyen Ngoc Thai, Do Anh Toan, Nguyen Tuan Vinh, Nguyen Phuc Cam Hoang, Vu Le Chuyen,
Dang Dinh Hoan, Nguyen Tien Đe, Nguyen Xuan Huy, Do Hoang Dung, Phan Thanh Thong


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 310 - 316
Introduction Angiomyolipoma (AML) is the most common benign renal tumor. Treatment should be
considered for symptomatic patients or for those at risk for complications. This study reports our single-center
experience with the use of selective arterial embolization (SAE) in the management of symptomatic and
asymptomatic renal AML. The aim of the study was to describe and evaluate a novel method of endovascular
embolization of varicoceles using n-butyl cyanoacrylate (NBCA) glue and polyphosphazene microspheres.
Material and Methods: All demographic and imaging data, medical records, angiographic features,
outpatient charts and follow-up visits of patients who underwent prophylactic or emergency SAE for AML
between July 2015 and May 2017 were reviewed. Tumor size and treatment outcomes were assessed at baseline
and after the procedure during follow-up. Computed tomography (CT), magnetic resonance imaging (MRI) or
ultrasonography was used to evaluate AML shrinkage. Renal function was measured pre- and post-procedure.
*Bệnh viện Bình Dân, Tp.HCM
**Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Nguyễn Ngọc Thái ĐT: 0947837378 Email :

310

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

Results: 18 cases age averaged 50 ± 4.9 (26-67). We have successfully treated 17/18 cases (TH) (94.4%).
One case needed re-embolization during follow-up because of persistance hematuria. The median size of AML
tumor was 7.32 ± 6.2 cm (rage from 4 cm to 16 cm). Minor complications (14 post-embolization syndrome)
affected 14 patients treated with conservative therapy (n = 14) with persistent hematuria (n = 01) requiring a
second intervention and pyelo-nephritis (n = 03). The mean reduction in AML tumor size after 3 months was 2.29
± 2.3 (31.3% reduction)

Conclusion: SAE is a safe and effective technique to manage renal AML as a preventive treatment as well as
in emergency setting, with signifcant reduction in tumor size during follow-up.
Key words: AML, embolization, n-butyl cyanoacrylate (NBCA).
không có mỡ, có xu hướng lớn lên và gây ra triệu
ĐẶT VẤN ĐỀ
chứng trong phần lớn trường hợp.
Angiomyolipoma (AML) là u lành tính
Vì là một tổn thương lành tính, phần lớn
thường gặp nhất ở thận, chiếm từ 0,3% đến 3%
AML thận không có triệu chứng, có tốc độ tăng
các khối u ở thận(5). AML bao gồm mỡ, mạch
trưởng chậm và ổn định và tỉ lệ mắc bệnh rất
máu và cơ trơn với số lượng thay đổi và thường
thấp. Tuy nhiên, bướu có thể gây đau hông lưng
được chia thành nhóm bệnh phát hiện ngẫu
và khối sờ được nhưng biến chứng chính là chảy
nhiên (sporadic) và nhóm không ngẫu nhiên
máu sau phúc mạc hay chảy máu vào hệ thống
(non-sporadic)(16). Nhóm bệnh phát hiện ngẫu
ống thu thập, có thể nguy hiểm đến tính mạng.
nhiên, chiếm khoảng 80% trường hợp, bao gồm
Khuynh hướng chảy máu liên quan đến thành
tổn thương đơn độc xảy ra chủ yếu ở phụ nữ
phần mạch máu của khối u bao gồm những
trung niên với tỉ lệ hiện mắc từ 0,22% đến 0,29%
mạch máu không đều và/hoặc phình mạch.
ở phụ nữ và 0,02% đến 0,1% ở nam giới(17).
Những yếu tố nguy cơ chủ yếu của chảy máu là
Nhóm không ngẫu nhiên có đặc điểm liên quan
kích thước khối u, mức độ của thành phần mạch

đến phức hợp xơ củ (tuberous clerosis – TSC) di
máu và sự hiện diện của TSC. Hiệp hội niệu
truyền trội nhiễm sắc thể thường, dẫn đến sự
khoa châu Âu đề nghị chủ động tầm soát phần
hình thành khối u lành tính với sự hoạt hóa đích
lớn AML và điều trị cho những trường hợp có
của con đường rapamycin ở động vật có vú
đau, chảy máu và nghi ngờ ác tính. Những thủ
(mTOR), và cũng thường gặp ở phụ nữ. Trong
thuật xâm lấn phòng ngừa ví dụ như thuyên tắc
nhóm này, AML phát triển trong 50% bệnh nhân
động mạch chọn lọc (TTĐMCL) và phẫu thuật
trong suốt cuộc đời họ, và thường to hơn, số
bảo tồn thận (NSS) có thể được cân nhắc đối với
lượng nhiều, hai bên, có triệu chứng và tổn
khối u lớn, phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ vì AML có
thương có khả năng lan rộng. TSC cũng có thể
xu hướng tăng lên về kích thước và vỡ ra trong
liên quan đến u cơ trơn bạch mạch
suốt thai kỳ vì sự nhạy cảm hormone và khi sự
(lymphangioleiomyomatosis), một bệnh lý tiến
tiếp cận với chăm sóc cấp cứu không đầy đủ(13).
triển liên quan đến lao, thường ảnh hưởng đến
TTĐMCL có thể được sử dụng để phòng ngừa
phổi của phụ nữ trẻ. Mặc dù phần lớn AML với
với khối u nguy cơ cao, để kiểm soát chảy máu
thành phần dạng biểu mô trung tâm là lành tính,
khối u cấp tính, để điều trị hỗ trợ trước phẫu
AML thận dạng biểu mô thuần túy (EAML),
thuật nhằm phòng tránh mất máu trong mổ. Kỹ

phân nhóm nhỏ hiếm gặp, đặc trưng bởi những
thuật hình ảnh học can thiệp xâm lấn tối thiểu
tế bào biểu mô bắt màu với marker liên quan
này đang trở thành lựa chọn điều trị chính cho
đến melanoma, có thể xâm lấn tại chỗ và lan
AML từ vài năm trở lại đây vì ít xâm lấn hơn so
rộng vào tĩnh mạch thận và tĩnh mạch chủ dưới.
với can thiệp phẫu thuật và cho phép điều trị
Những biến thể dạng biểu mô “giống
trúng đích những mạch máu đang chảy với
carcinoma” này chứa nhiều tế bào, với rất ít hay
nguy cơ biến chứng thấp. Mục tiêu của nghiên

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

311


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

cứu này là trình bày 2 năm kinh nghiệm của
chúng tôi về TTĐMCL cấp cứu và phòng ngừa
có kế hoạch đối với AML thận bằng cách khảo
sát kết quả từ 18 bệnh nhân đồng thời đánh giá
biến chứng, kết quả và sự giảm kích thước khối
u sau TTĐMCL.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán bướu thận dạng
cơ mỡ mạch máu (AML: angiomyolipomas) có
kích thước > 4 cm hoặc có biến chứng được điều
trị với TTĐMCL trong bệnh viện của chúng tôi
đã được theo dõi trong 2 năm từ tháng 7 năm
2015 đến tháng 5 năm 2017.
Thông tin liên quan dịch tễ, lâm sàng và đặc
điểm sinh học
Chúng tôi đã khảo sát hồ sơ tất cả các đặc
điểm về mặt dịch tễ (tuổi và giới tính), vị trí và số
lượng các thương tổn, loại can thiệp (dự phòng
hoặc cấp cứu), triệu chứng lâm sàng và các biến
chứng xảy ra trong và sau phẫu thuật trong vòng
4 tuần sau khi TTĐMCL (dựa theo hệ thống
phân loại các biến chứng của Hiệp hội can thiệp
& chẩn đoán hình ảnh học quốc tế )(11), tái phát
(được định nghĩa có triệu chứng tái phát hay
tăng kích thước khối bướu > 2 cm đối với các
hình ảnh khảo sát được khi tái khám) (8) và yêu
cầu phải điều trị tích cực vì triệu chứng liên
quan. Nồng độ creatinine huyết thanh được đo
lường trước khi TTĐMCL và trong thời gian
theo dõi dựa trên quy định đánh giá của Hội
Bệnh Thận Mãn Tính & Dịch Tễ (CKD-EPI).
Chẩn đoán, đo lường kích thước khối bướu và
kỹ thuật thuyên tắc
Tất cả các bướu AML được chẩn đoán bằng
chụp cắt lớp vi tính (CT) và / hoặc cộng hưởng từ
(MRI) trên cơ sở có sự hiện diện mô mỡ mà

không có vôi hóa hoặc hoại tử. Mô mỡ đại thể có
xuất hiện ở những khu vực có đậm độ ít hơn -20
đơn vị Hounsfield (HU) trên CT không cản
quang hoặc trên hình ảnh MRI xóa tín hiệu
cường độ cao - T1W phát hiện được tín hiệu mô
mỡ bảo hòa. Ở bướu AML loại mô mỡ thấp có

312

quá trình chuyển hoá diễn ra sẽ cho hình ảnh T1
như trên không rõ ràng.
Các chất liệu gây tắc mạch khác được sử dụng
đơn độc hay có thể kết hợp cùng các hạt được
định cỡ: polyphosphazene microspheres 100-400
μm (Embosphere® / EmboGold®, Biosphere
Medical Inc.-Merit Medical Inc.,Rockland, MA,
Hoa Kỳ; keo acrylic (N-butyl 2-cyanoacrylate,
Glubran 2®, GEM Srl, Viareggio, Ý) trộn với dầu
ethiod (Lipiodol® Ultra-Fluid, Guerbet, Aulnaysous-Bois, Pháp) theo tỷ lệ 1: 3. Các chất thuyên
tắc được bơm dưới hướng dẫn của tia X. Các
nhánh phụ bàng hệ được thuyên tắc có chọn lọc
đến khi tắc mạch hoàn toàn. Thành công về mặt
kỹ thuật được xác định có sự ngưng trệ của dòng
chảy trong các mạch nuôi bướu trên hình ảnh
chụp mạch sau TTĐMCL.
Sau thủ thuật, nhóm bệnh nhân được thuyên
tắc với mục đích dự phòng được chuyển về đơn
vị can thiệp mạch tiết niệu sinh dục theo dõi và
thường xuất viện vào ngày hôm sau. Theo dõi
dấu hiệu sinh tồn và hội chứng sau thuyên tắc

(Sốt nhẹ, đau và nôn/ buồn nôn 3-7 ngày sau khi
TTĐMCL), nếu có sẽ được điều trị nội khoa.
Theo dõi
Hồ sơ bệnh án, sổ khám bệnh ngoại trú, các
lần tái khám tiếp theo và hình ảnh học đều được
xem xét. CT hoặc MRI được theo dõi sau 03
tháng sau can thiệp và hàng năm nếu không có
thay đổi hoặc giảm kích thước. Để đo lường,
chúng tôi dựa trên hình ảnh cuối cùng có sẵn
(CT, MRI hoặc Siêu âm).
Phân tích số liệu thống kê
Phần mềm SPSS 16.0

KẾT QUẢ
Trong 2 năm nghiên cứu, 18 bệnh nhân đã
được điều trị TTĐMCL trong trường hợp khẩn
cấp vì AML xuất huyết (Hình 1) hoặc điều trị dự
phòng bướu AML có nguy cơ cao (kích cỡ khối
bướu > 4 cm).
Chúng tôi đã điều trị thành công cho 17/18
trường hợp (TH) (94,4%), và 01 TH cần thuyên

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

tắc lại trong thời gian theo dõi bởi vì thuyên tắc


(n = 1) cần can thiệp lần 2 và viêm thận - bể thận

không đầy đủ do túi giả phình và AML xuất

(n = 03). Kích thước khối bướu sau TTĐMCL

huyết lần 2. Tổn thương giả phình được tìm thấy

được đo bằng chụp CT scan. Mức giảm kích

trong 05 TH.

thước bướu AML trung bình sau 3 tháng là 2,29
± 2,3 (giảm 31,3%) (Bảng 2).
Bảng 1. Dịch tễ nhóm nghiên cứu và lâm sàng
Số TH
Giới
Nam
Nữ
Tuổi trung bình
Thuyên tắc
Không cấp cưu (> 4 cm)
Cấp cứu
Triệu chứng
Không (> 4 cm)
Đau
Xuất huyết
Bướu 1 bên
Bướu 2 bên


Giá trị
18
3 (16,7%)
15(83,3%)
50 ± 4,9 (26-67)
14
4
8
6
4
15
3

Bảng 2. Kết quả và theo dõi sau 3 tháng
Giá trị
Kích thước AML trước TTĐMCL 7,32 ± 6,2 (4,3 – 15,4) cm
Kích thước AML nhóm có triệu
11,3 ± 3 (7,4 -16) cm
chứng (bao gồm TH cấp cứu)
Kích thước AML giảm
2,29 ± 2,3 (2,3 – 4,5) cm
Can thiệp lần 2
1
Biến chứng nhẹ
Hội chứng sau thuyên tắc (đau lưng, sốt)
14
Tiểu máu dai dẳn
1
Viêm thận – bể thận

3

BÀN LUẬN
Trước năm 1976, hơn 90% trường hợp AML
điều trị bằng phương pháp cắt thận toàn phần vì
chưa loại trừ được tổn thương ác tính(3). Với sự
Hình 1. Bệnh nhân nữ 62 tuổi được điều trị
TTĐMCL nhánh nuôi bướu (trước và sau can thiệp)

tiến bộ của điện toán cắt lớp, thậm chí những
trường hợp ít mỡ, AML được chẩn đoán với

Kết quả chung, thời gian theo dõi và thay đổi

MRI với độ đặc hiệu lên đến 99%(15). Từ báo cáo

kích cỡ khối bướu được trình bày trong Bảng 2.

đầu tiên của Adler năm 1984(1), thuyên tác động

Kích thước trung bình của bướu AML là 7,32 ±

mạch ngày càng phát triển và trở thành phương

6,2 cm (nhỏ nhất là 4 cm, lớn nhất là 16 cm). Các

pháp chuẩn mới để ngăn ngừa và điều trị cấp

biến chứng nhẹ (hội chứng sau thuyên tắc) đã


cứu AML với can thiệp tối thiểu mạch máu nuôi

ảnh hưởng tới 14 bệnh nhân được điều trị bằng

chọn lọc(4). Y văn so sánh cắt thận hay cắt thận

biện pháp bảo tồn (n = 14) có tiểu máu dai dẳng

bán phần với TTĐMCL trong diều trị AML vẫn

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

313


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

còn giới hạn về phân tích hiệu quả y học, kinh tế

tích nhiều hơn so với AML ít mỡ).

so với thuyên tắc mạch trong bệnh thận AML

Nghiên cứu gần dây gợi ý rằng kích thước u

hoặc nguy cơ biến chứng AML. Can thiệp nội

quan trọng, kích thước liên quan đến phình


mạch trong điều trị AML ít tử vong sau mổ

mạch. Yamakodo et al(19) cho thấy sử dụng điểm

(6,9%) so với cắt thận bán phần (12%) với can

cắt ở 4 cm có độ đặc hiệu thấp (38%) so với túi

thiệp tối thiểu và thời gian nằm viện ngắn hơn .

phình >= 5mm (86%) và kích thước túi chỉ có liên

Điều này cho phép can thiệp nhanh chóng ở

quan đến nguy cơ vở túi. Phình mạch đánh giá

những trường hợp chảy máu cấp cứu với bảo

qua siêu âm tuy nhiên những túi phình kích

tồn tối đa nhu mô thận và chức năng thận. Phẫu

thước nhỏ đánh giá dễ dàng qua động mạch đồ.

thuật cho phép lấy trọn u và làm giải phẫu bệnh

Trong nghiên cứu của chúng tôi, phình mạch

để xác định chẩn đoán nhưng vẫn còn khó đối


liên quan nhiều đến tình trạng chảy máu của

với AML trong một vài ca phức tạp mạch máu,

bệnh nhân (p=0,0086) điều này xác định tầm

vị trí rốn hoặc TSC kết hợp AML bởi vì đa dạng

quan trọng của cấu tạo của u.

(1)

sang thương. Trong những trường hợp thất bại
nguyên phát hoặc tái TTĐMCL, phẫu thuật thận
được chỉ định.
Ở mỗi trường hợp, thảo luận giữa bác sĩ chẩn
đoán hình ảnh và ngoại niệu để đưa ra phương
pháp điều trị tối ưu. Trong nhiều năm, ngưỡng
kích thước cho điều trị phòng ngừa là 4 cm vì
Osesterling et al(10) cho thấy nếu lớn hơn 4 cm,
82-94% có triệu chứng và 50-60% chảy máu tự
nhiên. Hocquelet et al(7) xác định tỉ lệ phần trăm
mỡ trước TTĐMCL được xem là yếu tố tiên
lượng giảm thể tích, việc giảm thể tích này có ý
nghĩa quan trọng ở bệnh nhân AML ít hơn 50%
mỡ so với những bệnh nhân có nhiều hơn 50%
mỡ (84% so với 50%, p<0,00001). Ở nhiều nghiên
cứu phân tích, giá trị của tiên lượng giảm thể tích
là tỉ lệ phần trăm mỡ (R2 = 0,62, p<0,0001). Chúng

tôi tin tưởng rằng kích thước của AML giữ vai
trò quan trọng trong chỉ định và hiệu quả của
thuyên tác mạch bởi vì thành phần mạch máu cơ
(angiomyogenic) là nguyên nhân chính dẫn đến
biến chứng mạch máu và là vị trí để thuyên tắc
mạch. Planché et al(12) quan sát thấy rằng cấu trúc
của angiomyo biến mất nhanh hơn sau khi
thuyên tắc (AML nhiều mỡ cho thấy giảm thể

314

Không có bệnh nhân có creatinine huyết
thanh thay đổi trước và sau thuyên tắc.
Trong các trường hợp của chúng tôi, có 2
bệnh nhân có biểu hiện AML lớn với sự can
thiệp chỉ TTĐMCL. Ở 16 bệnh nhân được
thuyên tắc mạch AML, William et al(18) tìm thấy
không có ý nghĩa thống kê về sự thay đổi GFR
sau khi thuyên tác mạch, giá trị đo được sau 23
tháng trung bình 95,75 ml/phút. Nghiên cứu của
họ thể hiện sự an toàn và hiệu quả của TTĐMCL
trong điều trị AML ở bệnh nhân TSC bằng việc
bảo vệ chức năng thận, còn tình trạng tăng GFR
vẫn chưa được làm rõ điều này đã được bắt đầu
tìm hiểu. Chúng tôi quan sát thấy giảm kích
thước có ý nghĩa ở bệnh nhân không TSC sau
TTĐMCL (p = 0,022) so với bệnh nhân kèm TSC,
điều này cho thấy rằng mức độ quan trọng giữa
việc kiết hợp các phhương pháp điều trị cho
cùng một kết quả ở bệnh nhân có TSC.

Chúng tôi mô tả tỉ lệ biến chứng thấp ở
những trường hợp trên (bảng 2). 1 TH tiểu máu
dai dẳn sau thuyên tắc do tồn tại túi giả phình.
Như mong muốn, hội chứng đáp ứng viêm là
một tình trạng đáp ứng viêm kéo dài nhiều ngày
sau TTĐMCL là biến chứng nhỏ chính. Mỗi

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

bệnh nhân đau hoặc sốt dễ dàng điều trị với

chúng tôi. Tuy nhiên không có bệnh nhân nào bị

thuốc hạ sốt. Bissler và cộng sự mô tả dùng tiều

mất theo dõi. Thời gian theo dõi là 01 năm vì thời

ngắn prednisone trong vòng 2 tuần sau

gian giảm kích thước AML diễn ra trong năm đầu

TTĐMCL của AML thay vì acetaminophen và

sau TTĐMCL. Trong lần báo này chúng tôi báo


làm giảm biểu hiện của hội chứng đáp ứng viêm,

cáo sớm vào thời điểm theo dõi sau 03 tháng. Mức

cải thiện tình trạng nhân.

giảm kích thước bướu AML trung bình sau 03

(2)

Han(6), Lee và cộng sự(9) sử dụng dầu iod trộn
với dung dịch ethanol ở 90 bệnh nhận của họ.

tháng là 2,29 ± 2,3 (giảm 31,3%).

KẾT LUẬN

Nhiều tác giả đã từ bỏ phương pháp này cho đến

Thuyên tắc động mạch thận chọn lọc điều trị

khi Rimon và cộng sự(14) đạt 94% thành công sau

bướu AML là kĩ thuật an toàn và hiệu quả trong

khi thêm Polyvinyl alcohol (PVA). Nhiều nghiên

xử trí chảy máu và phòng ngừa xảy ra biến

cứu cho thấy không có sự khác biệt kích thước


chúng với những trường hợp bướu có kính

chất gây tắc mạch làm giảm thiểu kích thước u

thước lớn.

hoặc làm lại tắc mạch. Tuy nhiên, chúng tôi sử
dụng nhiều N butyl 2 cyanoacrylate glue và hạt

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

embosphere. Đặc tính hạt cho tắc động mạch
thường là đến điểm cuối của mạch máu, hậu quả

2.

là nhu mô u hoặc sang thương mạch máu ở đầu
tận như là AML sẽ được gắn kết với hạt, làm xơ

3.

cứng u và làm thiếu máu toàn bộ u. Ưu điểm của
keo là hiệu quả tắc thì nhanh, tắc nghẽn hoàn toàn
mạch máu và lâu dài. Rẻ tiền dễ thấy tác dụng của

4.

keo ở mạch máu nuôi và quan sát thấy dòng trào

ngược dọc theo microcatheter, điều này giảm

5.

nguy cơ keo dính vào đầu của microcatheter và
tiêm keo vào nhu mô thận bình thường.

6.

Nghiên cứu này có vài giới hạn. Thứ nhất là
nghiên cứu hồi cứu kích thước nhỏ do đó hiếm
AML có triệu chứng hoặc lớn. Dân số của chúng

7.

tôi không đồng nhất với vài trường hợp (n=18)
(tắc mạch phòng ngừa và cấp cứu).
Thứ 2, những nghiên cứu khác, chúng tôi có

8.

nhiều khó khăn trong đo chính xác kích thước
AML và sự liên hệ với xuất huyết sau phúc mạc,
đặc biệt có nhiều phương tiện sử dụng (siêu âm,

9.

CT, MRI). Khó khăn trong việc đo AML vỡ trong
cấp cứu. Thêm vào đó, theo dõi hình ảnh ở những
bệnh viện khác với phương tiện khác so với


10.
11.

Adler J, Greweldinger J, Litzky G (1984). “Macro” aneurism in
renal angiomyolipoma: two cases, with therapeutic
embolization in one patient. Urol Radiol;6:201-3.
Bissler JJ, Racadio J, Donnelly LF, Johnson ND (2002).
Reduction of postembolization syndrome after ablation of
renal angiomyolipoma. Am J Kidney Dis;39:966-71.
Castle SM, Gorbatiy V, Ekwenna O, Young E, Leveillee RJ
(2012). Radiofrequency ablation (RFA) therapy for renal
angiomyolipoma (AML): an alternative to angioembolization
and nephron-sparing surgery. BJU Int;109:384-7.
Chick CM, Tan BS, Cheng C, Taneja M, Lo R, Tan YH (2010).
Long-term follow-up of the treatment of renal
angiomyolipomas after selective arterial embolization with
alcohol. BJU Int;105:390-4.
Hajdu SI, Foote FW (1969). Angiomyolipoma of the kidney:
report of 27 cases and review of the literature. J Urol;102:396401.
Han YM, Kim JK, Roh BS, Song HY, Lee JM, Lee YH, Chung
GH, Kim CS, Sohn MH, Choi KC (1997). Renal
angiomyolipoma:
selective
arterial
embolization-effectiveness and changes in angiomyogenic components in
long-term follow-up. Radiology;204:65-70.
Hocquelet A, Cornelis F, Le Bras Y, Meyer M, Tricaud E,
Lasserre AS, Ferrière JM, Robert G, Grenier N (2014). Longterm results of preventive embolization of renal
angiomyolipomas: evaluation of predictive factors of volume

decrease. Eur Radiol;24:1785-93.
Kothary N, Soulen MC, Clark TW, Wein AJ,
ShlanskyGoldberg RD, Stavropoulos SW (2005). Renal
angiomyolipoma:
long-term
results
after
arterial
embolization. J Vasc Interv Radiol;16:45-50.
Lee W, Kim TS, Chung JW, Han JK, Kim SH, Park JH (1998).
Renal angiomyolipoma: embolotherapy with a mixture of
alcohol and iodized oil. J Vasc Interv Radiol;9:255-61.
Oesterling JE, Fishman EK, Goldman SM, Marshall FF (1986).
The management of renal angiomyolipoma. J Urol;135:1121-4.
Omary RA, Bettmann MA, Cardella JF, Bakal CW,
Schwartzberg MS, Sacks D, Rholl KS, Meranze SG, Lewis CA

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

315


Nghiên cứu Y học

12.

13.

14.


15.

316

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

(2003). Society of Interventional Radiology Standards of
Practice Committee. Quality improvement guidelines for the
reporting and archiving of interventional radiology
procedures. J Vasc Interv Radiol;14:S293-5.
Planché O, Correas JM, Mader B, Joly D, Méjean A (2011).
Prophylactic embolization of renal angiomyolipomas:
evaluation of therapeutic response using CT 3D volume
calculation and density histograms. J Vasc Interv
Radiol;22:1388-95.
Preece P, Mees B, Norris B, Christie M, Wagner T, Dundee P
(2015). Surgical management of haemorrhaging renal
angiomyolipoma in pregnancy. Int J Surg Case Rep;7C:89-92.
Rimon U, Duvdevani M, Garniek A, Golan G, Bensaid P,
Ramon J, Morag B (2006). Large renal angiomyolipomas:
digital subtraction angiographic grading and presentation
with bleeding. Clin Radiol; 61:520-6.
Sasiwimonphan K, Takahashi N, Leibovich BC, Carter RE,
Atwell TD, Kawashima A (2012). Small (<4 cm) renal mass:
differentiation of angiomyolipoma without visible fat from
renal cell carcinoma utilizing MR imaging. Radiology; 263:1608.

16.

17.


18.

19.

Sherman JL, Hartman DS, Friedman AC, Madewell JE, Davis
CJ, Goldman SM (1981). Angiomyolipoma: computed
tomographic-pathologic correlation of 17 cases. AJR Am J
Roentgenol;137:1221-6.
Steiner MS, Goldman SM, Fishman EK, Marshall FF (1993).
The natural history of renal angiomyolipoma. J Urol;150:17826.
Williams JM, Racadio JM, Johnson ND, Donnelly LF, Bissler JJ
(2006). Embolization of renal angiomyolipomata in patients
with tuberous sclerosis complex. Am J Kidney Dis;47:95-102.
Yamakado K, Tanaka N, Nakagawa T, Kobayashi S,
Yanagawa M, Takeda K (2002). Renal angiomyolipoma:
relationships between tumor size, aneurism formation, and
rupture. Radiology; 225:78-82.

Ngày nhận bài báo:

22/11/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

30/12/2018

Ngày bài báo được đăng:

25/03/2018


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018



×