Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BÓNG ĐỐI XUNG NỘI ĐỘNG MẠCH CHỦ SỚM
TRÊN CÁC BỆNH NHÂN NGUY CƠ CAO ĐƯỢC PHẪU THUẬT TIM HỞ
Lê Trung Hiếu*, Nguyễn Thị Quý**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sử dụng bóng đối xung sớm cho các bệnh nhân có nguy cơ cao cần phẫu thuật tim hở ngày
càng trở nên phổ biến trên thế giới.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả sử dụng BĐXNĐMC sớm có cải thiện về: tỉ lệ tử vong trong thời gian nằm
hồi sức và trong vòng 30 ngày đầu sau mổ, tỉ lệ nhiễm trùng, tỉ lệ suy thận cấp sau mổ, thời gian thở máy, thời
gian nằm hồi sức, tỷ lệ biến chứng do bóng so với nhóm bệnh nhân dùng BĐXNĐMC muộn hay không.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 200 ca, chia làm 2 nhóm, nhóm
đặt bóng sớm (đặt trước mổ hoặc trong mổ) và nhóm đặt bóng muộn (đặt bóng sau mổ). Phân tích thống kê và
xử lý số liệu 2 nhóm với phần mềm Stata.
Kết quả: Nhóm đặt sớm giảm nguy cơ tương đối về tử vong tại hồi sức 65% với RR = 0,344 ( KTC 95%
0,137 – 0,867 , p = 0,024 ), giảm 58% nguy cơ tử vong trong vòng 30 ngày sau mổ với RR = 0,411 ( KTC 95%
0,196 – 0,859, p = 0,018 ), giảm nhiễm trùng sau mổ: 26% so với 73% (p <0,001). giảm suy thận cấp sau mổ :
27% so với 49% (p = 0,002), giảm thời gian thở máy sau mổ: 3 ngày so với 9 ngày ( p < 0,001 ), giảm thời gian
nằm hồi sức sau mổ : 7 ngày so với 14 ngày ( p < 0,001 ).
Kết luận: sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ sớm rất hiệu quả với các bệnh nhân có nguy cơ cao
được phẫu thuật tim hở.
Từ khoá: bóng đối xung động mạch chủ, phẫu thuật tim hở
ABSTRACT
EFFICACY OF EARLY INTRA‐AORTIC BALLOON PUMPING IN HIGH‐RISK PATIENTS
UNDERGONE OPEN HEART SURGERY
Le Trung Hieu‐ Nguyen Thi Quy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 205 - 210
Background: Early intraaortic balloon pumping (IABP) in high ‐ risk patients having open heart surgery is
becoming more frequent over the world.
Objectives: determining the efficacy of IABP based on the following criteria: mortality in ICU, mortality
during 30 days after sugery, prevalence of infection, prevalence of acute renal insufficience, ventilation time, ICU
stay time, prevalence of complications.
Method: Retrospective cohort study, collected data for 200 patients, devided in 2 groups: early group (with
preoperative or intraoperative IABP) and late group (postoperative IABP). Statistic analysis with Stata software.
Results: in early group, risk of mortality in ICU reduced 65% with RR = 0.344 (95% CI: 0.137 – 0.867 , p
= 0.024 ), reduced 58% in risk of mortality during 30 days with RR = 0.411 (95% CI: 0.196 – 0.859, p = 0.018 ),
reduced postoperative infection: 26% vs 73% (p <0.001). reduced postoperative renal insufficience: 27% vs 49%
(p = 0.002), reduced ventilation time: 3 vs 9 days ( p < 0.001 ), reduced ICU stay time: 7 vs 14 days ( p < 0.001 ),
*Bệnh viện tim Tâm Đức‐TPHCM
** Viện Tim TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Lê Trung Hiếu ĐT: 0985734614
Email: ;
206
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
prevalence of complications in both group were the same.
Conclusion: Early intraaortic balloon pumping (IABP) in high ‐ risk patients having open heart surgery
have good outcome.
Keywords: intraaortic balloon pumping, open heart surgery
ngắn hạn với BĐXNĐMC rất cần thiết. Tuy
MỞ ĐẦU
nhiên, vấn đề được đặt ra là cần phải dùng bóng
Bóng đối xung nội động mạch chủ
vào thời điểm nào là tốt nhất cho việc hồi sức
(BĐXNĐMC,
intra‐aortic
balloon
bệnh nhân. Vì thế , chúng tôi tiến hành nghiên
counterpulsation) là phương tiện hỗ trợ cơ học
cứu này để xem liệu việc sử dụng bóng sớm
thường được sử dụng nhiều nhất trong mổ tim.
trước hoặc trong mổ cho những trường hợp
Thực tế hiện nay bệnh tim cần phẫu thuật ngày
bệnh nặng như trên có giúp cải thiện tiên lượng
càng phức tạp hơn. Tỉ lệ bệnh nhân mổ bắc cầu
so với dùng bóng muộn sau mổ hay không.
chủ vành đơn thuần ngày càng ít dần, trong khi
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
đó tỉ lệ các trường hợp mổ mạch vành kết hợp
với mổ van tim ngày càng tăng. Hiện đã có
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đoàn hệ hồi
nhiều nghiên cứu chứng minh hiệu quả của
cứu và thu thập số liệu từ 200 ca nguy cơ cao từ
BĐXNĐMC trên các bệnh nhân phẫu thuật bắc
tháng 01/06/2004 đến 31/12/2011được phẫu
cầu động mạch vành. Tuy nhiên, vai trò của
thuật tim hở tại bệnh viện tim Tâm Đức và Viện
BĐXNĐMC đối với bệnh nhân có bệnh lý van
tim TPHCM (Bảng 1). Bệnh nhân được chia làm
tim bị suy tim nặng cần phẫu thuật thì chưa
02 nhóm. Nhóm được đặt bóng IABP sớm, có
được xác định (9). Hiện nay, các bệnh nhân cần
nghĩa là bệnh nhân được đặt bóng chủ động
được phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành thường
trước mổ vì tình trạng suy tim nặng, hoặc đặt
đã vào giai đoạn cuối của bệnh với tình trạng
bóng trong khi mổ vì khó cai máy tuần hoàn
thiếu máu cơ tim nặng do hẹp nhiều nhánh
ngoài cơ thể. Nhóm được đặt bóng IABP muộn
động mạch vành và chức năng tim kém. Vì thế,
là nhóm được đặt bóng tại hồi sức. Nguy cơ cao
tại bệnh viện tim Tâm Đức và Viện tim thành
được định nghĩa là có chức năng thất trái trước
phố Hồ Chí Minh, các bệnh nhân có nguy cơ cao
mổ hoặc sau mổ kém (với EF đo được trên siêu
như: chức năng thất trái kém, nhồi máu cơ tim
âm thành ngực hoặc qua thực quản < 30%), đau
cấp, đau thắt ngực không ổn định, hẹp thân
thắt ngực không ổn định không đáp ứng với
chung mạch vành trái, bệnh nhân có những
điều trị nội khoa hoặc nhồi máu cơ tim < 90 ngày
bệnh lý đi kèm theo như tăng huyết áp, tiểu
trước mổ phẫu thuật phức tạp (mổ bắc cầu chủ
đường , suy thận mạn tính, COPD…cần phẫu
vành kèm van tim), mổ cấp cứu.
thuật tim chiếm một tỉ lệ khá cao. Khi phẫu
Phân tích thống kê với phần mềm Stata.
thuật các bệnh nhân này, việc hỗ trợ tuần hoàn
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu
Nhóm sớm (n=98)
49,7 ± 14,6
55 (56,1)
43 (43,8)
20 (20,4)
23 (23,4)
31(31,6)
16 (16,3)
Tuổi (năm)*
Giới **
Nam
Nữ
Nhồi máu cơ tim**
Đau thắt ngực** không ổn định
Tăng huyết áp**
Đái tháo đường**
*TB ± ĐLC; **: Số trường hợp (%)
Nhóm muộn (n=102)
47,8 ± 16,6
55 (53,9)
47 (46,1)
19 (18,6)
18 (17,6)
25 (24,5)
13 (12,7)
Giá trị p
0.383
0,754
0,751
0,308
0,26
0,47
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
207
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Bảng 2: Đặc điểm tim mạch
Nhóm sớm
(n=98)
NYHA *
EuroSCORE
(TV-K tứ vị)
Tỷ số tim/lồng
ngực *
Phân suất tống
máu trước mổ(%) *
Độ thanh thải
cầu thận (ml/phút)*
Nhóm muộn
(n=102)
Giá trị p
2,64 ± 0,7
2,7 ± 0,7
0,538
7 (6 – 8)
6 (6 – 8)
0,047†
0,64 ± 0,1
0,67 ± 0,1
0,053
26,02 ± 5,5
36,63 ± 8,1
<0,001
69,45 ± 22,7
62,81 ± 19,8
0,02
†Phép kiểm Mann‐Whitney; *TB ± ĐLC
khoảng từ 300C đến 370C tùy theo phẫu thuật
viên. Bảo vệ cơ tim bằng dung dịch tinh thể lạnh
ngắt quãng theo đường antegrade hoặc
retrograde (Bảng 3)
Phương tiện: Bóng đối xung nội động mạch
chủ: chúng tôi sử dụng bóng đối xung nội động
mạch chủ loại 8F của Datascope hoặc 7F của
Insightra, đặt theo kỹ thuật có sheat hoặc không
sheat qua ngã động mạch đùi, sau đó kiểm tra
lại trên XQ để điều chỉnh vị trí đầu bóng khi có
điều kiện. Máy bơm bóng là Datascope CS100.
Bảng 4: Các kết quả nghiên cứu
Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 47 ‐ 49
tuổi. Trong cả 2 nhóm, tỉ lệ các bệnh nhân có các
yếu tố nguy cơ tim mạch kèm theo như nhồi
máu cơ tim, đau thắt ngực không ổn định,
tiểu đường, tăng huyết áp, hầu như không
khác biệt. Hầu hết những bệnh nhân trong
nghiên cứu đều suy tim trước mổ với phân độ
NYHA ≥ 3, EuroSCORE ≥ 6, và có chức năng
thận trước mổ tương đối tốt. Đặc biệt EF thất trái
trong nhóm sớm thấp hơn (26% vs 36%, p <
0,001) (Bảng 2).
Bảng 3: Đặc điểm phẫu thuật
Nhóm sớm Nhóm muộn
(n=98)
(n=102)
Giá trị p
Số trường hợp Số trường hợp
(%)
(%)
Phẫu thuật van
tim
60 (61,2)
69 (67,6)
0,343
Phẫu thuật bắc
cầu chủ vành
25 (25,5)
7 (6,8)
<0,001
Phẫu thuật
van+bắc cầu chủ
vành
13 (13,2)
26 (25,5)
0,029
Phần lớn bệnh nhân được phẫu thuật van
tim và bắc cầu động mạch vành. Trong đó chiếm
tỉ lệ nhiều nhất là phẫu thuật sửa và/hoặc thay
02 van bao gồm van 2 lá và van động mạch chủ
(60% và 69%), các bệnh nhân mổ bắc cầu động
mạch vành có hoặc không có kệt hợp với phẫu
thuật van tim chiếm tỷ lệ thấp hơn. Tất cả các
bệnh nhân đều được sử dụng tuần hoàn ngoài
cơ thể trong lúc mổ, với nhiệt độ cơ thể trong
208
Nhóm sớm
(n=98)
Nhóm muộn
Giá trị p
(n=102)
Tử vong tại hồi
sức**
6 (6,1)
19 (18,6)
0,0075
Tử vong trong
vòng 30 ngày**
10 (10,2)
25 (24,5)
0,0078
Nhiễm trùng sau
mổ**
26 (26,5)
75 (73,5)
<0,001
Suy thận cấp sau
mổ**
27 (27,5)
50 (49)
0,002
Thời gian thở máy
(TV-KTV)
3 (1 – 7)
9 (6 – 15)
<0,001†
Thời gian nằm hồi
sức (TV-KTV)
7 (4 – 11)
14 (10 – 25) <0,001†
† Phép kiểm Mann‐Whitney; ** Số trường hợp (%)
Kết quả cho thấy có sự giảm đáng kể về tử
vong tại hồi sức (6,1% so với 18,6%, p = 0,0075),
giảm tử vong trong vòng 30 ngày (10,2% so với
24,5%, p = 0,0078), giảm nhiễm trùng sau mổ
(26% so với 73%; p <0,001), giảm tỷ lệ suy thận
cấp sau mổ ( 27% so với 49%, p = 0,002 ). Tương
tự, khi so sánh về thời gian thở máy và thời gian
nằm hồi sức, kết quả phân tích cho thấy có giảm
có ý nghĩa thời gian thở máy (3 ngày so với 9
ngày, p<0,001) và thời gian nằm hồi sức (7 ngày
so với 14 ngày, p<0,001) ở nhóm dùng
BĐXNĐMC sớm so với nhóm dùng muộn.
Phân tích nguy cơ tương đối tử vong tại hồi
sức RR = 0,328 với khoảng tin cậy 95% là 0,137 –
0,788 ( p = 0,0075 ), điều này có nghĩa là dùng
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
bóng sớm sẽ giảm được khoảng 67% nguy cơ tử
vong tại hồi sức. Tương tự, nguy cơ tương đối
tử vong 30 ngày sau mổ RR = 0,416 với khoảng
tin cậy 95% là 0,211 – 0,82 ( p = 0,0078 ), điều
này có nghĩa là dùng bóng sớm sẽ giảm được
khoảng 58% nguy cơ tử vong trong vòng 30
ngày sau mổ. Tuy nhiên, có những yếu tố có thể
ảnh hưởng đến tử vong của bệnh nhân như:
nhiễm trùng sau mổ, suy thận cấp sau mổ, thời
gian tuần hoàn ngoài cơ thể, PSTM trước mổ,
phân độ EuroSCORE. Vì vậy, các yếu tố này cần
được đưa vào phương trình phân tích hồi quy
đa biến để có thể kiểm soát các yếu tố gây nhiễu
có thể ảnh hưởng đến tử vong của bệnh nhân.
Kết quả phân tích cho thấy, sau khi kiểm soát
các yếu tố nhiễm trùng sau mổ suy thận cấp sau
mổ, thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể, EF trước
mổ và phân độ EuroSCORE, việc đặt bóng sớm
làm giảm khoảng 68% nguy cơ tử vong tại hồi
sức với RR = 0,325 với khoảng tin cậy 95% là 0,11
– 0,95 ( p = 0,042 ), và giảm 58% nguy cơ tử vong
trong vòng 30 ngày sau mổ với RR = 0,418 với
khoảng tin cậy 95% là 0,18 – 0,95 ( p = 0,039 )
(Bảng 5)
Bảng 5: Nguy cơ tương đối (RR) về tử vong
Đặt sớm so với
đặt muộn
RR đơn biến
(KTC 95%)
Giá trị p
RR đa biến
(KTC 95%)
Giá trị p
Tử vong tại hồi
sức
0,328
(0,13 – 0,78
0,0075
0,325
(0,11 – 0,95)
0,042
Tử vong trong 30
ngày
0,416
(0,21 – 0,82)
0,0078
0,418
(0,18 – 0,95)
0,039
Bên cạnh đó, việc dùng bóng sớm cũng
không làm tăng nguy cơ mắc phải các biến
chứng do bóng, với tỷ lệ biến chứng ở 2 nhóm
không khác biệt ( 3% so với 6% với p = 0,499). Có
3 biến chứng gặp phải là: thiếu máu cục bộ chi,
nhiễm trùng chân bóng và giảm tiểu cầu, tuy
nhiên phân tích cho thấy không có khác biệt
giữa 2 nhóm về các biến chứng (Bảng 6).
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
Nghiên cứu Y học
Bảng 6: Các biến chứng của BĐXNĐMC
Nhóm sớm Nhóm muộn Giá trị p
(n=98)
(n=102)
Số trường
Số trường
hợp (%)
hợp (%)
Thiếu máu cục bộ
chi
Nhiễm trùng chân
catheter
Giảm tiểu cầu
Biến chứng chung
2 (2)
1 (1)
0,58
1 (1)
0
0,32
3 (2,9)
6 (5,8)
2 (2)
3 (3)
0,68
0,49
BÀN LUẬN
Nhóm đặt bóng sớm rút ngắn đáng kể thời
gian thở máy. Trước đây, khi bệnh nhân chưa
được dùng bóng BĐXNĐMC, chúng tôi thường
phải duy trì máy thở cho bệnh nhân đến khi nào
thấy cải thiện chức năng tim trên lâm sàng và
trên siêu âm, khi đó mới cai máy thở. Bởi lẽ, như
chúng ta đều biết, khi bệnh nhân thở máy, công
của tim được giảm đi 1 cách đáng kể, nhờ đó tim
có cơ hội để hồi phục chức năng. Nhưng nhiều
tác giả(11) cũng chứng minh rằng bệnh nhân ở
hồi sức thở máy trên 48 giờ thì nguy cơ nhiễm
trùng phổi cũng gia tăng 1 cách đáng kể theo
thời gian thở máy. Nghiên cứu của tác giả
Jayshree(9) cho thấy thời gian thở máy trung bình
ở nhóm đặt bóng sớm là 1 ngày, còn nhóm đặt
bóng muộn là hơn 4 ngày ( 99 giờ). Nghiên cứu
của tác giả Arafa(2) cho thấy thời gian thở máy
trung bình của những bệnh nhân có đặt
BĐXNĐMC là 5,38 ± 4 ngày. Khi dùng bóng
chủ động, chúng tôi cố gắng cai máy thở sớm
cho bệnh nhân mà không sợ ảnh hưởng đến
chức năng thất trái, vì bóng đối xung là 1 trong
những phương tiện hỗ trợ thất trái rất hiệu quả.
Việc cai thở máy sớm rất có ý nghĩa trong việc
phòng ngừa và kiểm soát viêm phổi thở máy đối
với bệnh nhân nằm hồi sức.
Ở nhóm sử dụng bóng sớm nhiễm trùng
cũng giảm 1 cách rõ rệt (26%) so với nhóm dùng
bóng muộn là 73% (p < 0,001). Nhiễm trùng ở
đây chúng tôi định nghĩa là những ca có kết quả
cấy định danh được vi trùng ( cấy đàm, cấy
máu, cấy chân catheter, chân điện cực…). Điều
này có được là do chủ động rút ngắn thời gian
thở máy, cho bệnh nhân ngồi dậy ( mặc dù còn
209
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
đang dùng BĐXNĐMC ), ho khạc, vận động và
tập vật lý trị liệu sớm, kết hợp với thường xuyên
chăm sóc những vị trí xâm lấn dễ có nguy cơ
nhiễm trùng như chân catheter, điện cực… Tác
giả Jayshree và cộng sự(9) tiến hành phân tích
trên 2 nhóm bệnh nhân có dùng BĐXNĐMC
trước mổ và sau mổ, tỷ lệ viêm phổi ở nhóm
dùng BĐXNĐMC trước mổ là 10% so với nhóm
dùng BĐXNĐMC sau mổ là 25% (p = 0,045). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả
tương đồng.
Chúng tôi thấy có sự cải thiện có ý nghĩa về
suy thận cấp sau mổ giữa nhóm đặt bóng sớm
và nhóm đặt bóng muộn ( 27% so với 49%, p =
0,002 ). Điều trị suy thận cấp sau mổ thường
phải kết hợp nhiều yếu tố như: cải thiện huyết
động, cải thiện cung lượng tim, giảm thiểu các
tác nhân gây độc cho thận, bên cạnh việc tiến
hành thẩm phân phúc mạc hoặc lọc thận liên
tục. Trên thực tế, khi không có hỗ trợ của
BĐXNĐMC, việc cải thiện huyết động chủ yếu
dựa vào thuốc vận mạch, nhưng 1 số trong
những thuốc này ( ví dụ: noradrenaline) lại làm
giảm tưới máu thận, do đó tình trạng suy thận
cấp sẽ lâu hồi phục. Khi có bóng đối xung hỗ
trợ, huyết động được cải thiện khá tốt, cung
lượng tim mau hồi phục hơn, bên cạnh việc
dùng ít thuốc vận mạch và với liều thấp, đó là
những yếu tố góp phần giúp cải thiện tình trạng
suy thận cấp sau mổ.
Việc rút ngắn thời gian thở máy, giảm tỉ lệ
nhiễm trùng, giảm bớt tình trạng suy thận cấp
sau mổ, giảm thời gian dùng thuốc vận mạch
sau mổ, vật lý trị liệu sớm …như đã trình bày ở
trên sẽ rút ngắn thời gian nằm hồi sức của bệnh
nhân. Nhóm đặt bóng sớm có thời gian nằm hồi
sức trung bình là 7 ngày, so với nhóm đặt bóng
muộn là 14 ngày ( với p < 0,001 ). Tác giả
Jayshree và cộng sự(9) trong nghiên cứu của
mình đã cho thấy thời gian nằm hồi sức trung
bình ở nhóm dùng bóng sớm là 3,5 ngày so với
6,5 ngày ở nhóm dùng bóng muộn. Tác giả
Karimi(10) phân tích 475 bệnh nhân có đặt
BĐXNĐMC chứng tỏ rằng thời gian nằm hồi
210
sức trung bình là 12,52 ± 0,91 ngày. Thời gian
nằm hồi sức rút ngắn sẽ làm giảm đáng kể chi
phí điều trị cho các bệnh nhân nặng, trong đó
phải kể đến chi phí do dùng thuốc vận mạch và
thuốc kháng sinh. Giảm thời gian nằm hồi sức
và nằm viện còn giúp giảm nguy cơ nhiễm
trùng bệnh viện cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân
có cơ hội hồi phục nhanh hơn.
Về tử vong, có thể lý giải rằng sau khi đã
kiểm soát các yếu tố gây nhiễu như nhiễm trùng
sau mổ, suy thận cấp sau mổ, thời gian tuần
hoàn ngoài cơ thể thì viêc dùng bóng sớm sẽ
giảm được nguy cơ tử vong tại hồi sức là 65% và
giảm 59% nguy cơ tử vong trong vòng 30 ngày
đầu sau mổ, sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt
thống kê. Nghiên cứu của tác giả Barron và cộng
sự(3) trên 23180 bệnh nhân nhồi máu cơ tim bị
sốc tim, trong đó có 7268 bệnh nhân được dùng
BĐXNĐMC cho thấy tỉ lệ tử vong sớm ở nhóm
bệnh nhân được điều trị tiêu sợi huyết và và
dùng BĐXNĐMC là 49%, trong khi đó ở các
bệnh nhân không dùng bóng là 67% ( p < 0,001 ).
Một nghiên cứu phân tích gộp trên 1034 bệnh
nhân có đặt bóng và 1329 bệnh nhân không có
đặt bóng trước khi phẫu thuật bắc cầu chủ vành
của tác giả Adel và cộng sự(1) cho thấy việc sử
dụng BĐXNĐMC trước mổ giúp giảm được
đáng kể tỉ lệ tử vong trong giai đoạn hậu phẫu ở
những bệnh nhân có nguy cơ cao. Feola và cộng
sự(7) đã ghi nhận trong số lượng bệnh nhân được
mổ bắc cầu chủ vành có chức năng thất trái thấp,
các bệnh nhân được đặt bóng BĐXNĐMC trước
mổ có tỉ lệ nhồi máu cơ tim và tử vong sau mổ
thấp hơn 1 cách đáng kể so với nhóm không có
BĐXNĐMC. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng đã
chứng minh hiệu quả rõ rệt của việc dùng bóng
BĐXNĐMC trước mổ. Trong 1 nghiên cứu đoàn
hệ về nhồi máu cơ tim cần phải mổ bắc cầu chủ
vành, Creswell và cộng sự(5) đã chứng minh
khuynh hướng dùng bóng BĐXNĐMC trước
mổ có thể làm giảm tỉ lệ bệnh tật và tử vong giai
đoạn sau mổ. Một nghiên cứu đoàn hệ khác của
Dietl và cộng sự(6) chứng minh lợi ích sống còn
của việc dùng bóng BĐXNĐMC trước mổ trên
những bệnh nhân có phân suất tống máu thất
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
trái EF trước phẫu thuật nhỏ hơn 25%. Thêm
vào đó, các tác giả còn chọn ra nhiều yếu tố dự
đoán cho việc cần thiết sử dụng bóng trong và
sau mổ trên những bệnh nhân này như: mổ lại,
đau thắt ngực không ổn định, hẹp thân chung,
nhồi máu cơ tim cấp trong vòng 7 ngày, bệnh
nhân có NYHA III‐IV. Điều này chứng tỏ rằng
các bệnh nhân bắc cầu chủ vành có phân suất
tống máu dưới 25% và 1 hay nhiều hơn các yếu
tố kể trên là những bệnh nhân cần được đặt
bóng trước mổ.
Những yếu tố bất lợi lớn của việc dùng
BĐXNĐMC là các biến chứng của bóng. Xét về
các biến chứng, dùng bóng có thể sẽ có 3 nhóm
biến chứng chính như sau: biến chứng mạch
máu, biến chứng nhiễm trùng và biến chứng
giảm tiểu cầu(8, 12). Trong 2 nhóm bệnh nhân của
chúng tôi, tỉ lệ các biến chứng gặp phải tương
đối thấp và không có sự khác biệt về tỉ lệ biến
chứng giữa 2 nhóm (3 ca ở nhóm dùng bóng
sớm chiếm 3% so với 6 ca chiếm 5,8% ở nhóm
còn lại, p = 0,499 ), trong đó chúng tôi gặp chủ
yếu là biến chứng giảm tiểu cầu 5 ca ( có thể do
bóng hoặc do sử dụng Heparin ), 3 ca nhiễm
trùng do bóng, chỉ có 1 trường hợp bệnh nhân bị
thiếu máu cục bộ ở chân có dùng bóng. Trong 1
nghiên cứu tiến cứu mới đây trên tổng số 1119
bệnh nhân có sử dụng bóng đối xung nội động
mạch chủ, Cohen và cộng sự(4) đã báo cáo tỉ lệ
biến chứng là 15% với 46 bệnh nhân cần phẫu
thuật vì biến chứng, và chỉ có 5 ca chết do biến
chứng.
mạch chủ, qua đó giúp cho nhiều bệnh nhân có
cơ hội hồi phục tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Adel MD, Richard PW, Lalib LA, et al (2008) ʺPreoperative
IABP in patients undergoing CABG: Asystematic review and
meta analysisʺ. J Card Surg, 23, 79‐86.
Arafa O, Pedersen T, Svennevig J, Fosse E, Geiran O (1998)
ʺIntraaortic balloon pump in open heart operations: 10 year
follow‐up with risk analysisʺ. Ann Thorac Surg 65, 741–7.
Barron HV, Every NR, Parsons LS, et al (2001) ʺThe use of
IABP in patients with cardiogenic shock complicating acute
myocardial infraction: data from the National Registry of
Myocardial Infraction ‐ 2ʺ. Am Heart J, 141, 933‐939.
Cohen M, Dawson M, Kopistansky C, McBride R (2000) ʺSex
and
other
predictors
of
intra‐aortic
balloon
counterpulsationrelated complications: prospective study of
1119 consecutive patientsʺ. Am Heart J 139, (56), 282–7.
Creswell L, Moulton M, Cox J, Rosenbloom M (1995)
ʺRevascularization after acute myocardial infarctionʺ. Ann
Thorac Surg, 60, 19–26.
Dietl C, Berkheimer M, Woods E, Gilbert C, Pharr W, Benoit
C (1996) ʺEfficacy and cost‐effectiveness of preoperative IABP
in patients with ejection fraction of 0.25 or lessʺ. Ann Thorac
Surg 62, 401‐409.
Feola M, Wiener L, Walinsky P, et al (1977) ʺImproved
survival after coronary bypass surgery in patients with poor
left ventricular function: role of intraaortic balloon
counterpulsionʺ. Am J Cardiol, 39, 1021–6.
Isner J, Cohen S, Virmani R, Lawrinson W, Roberts W (1980)
ʺComplications of the intra‐aortic balloon counterpulsation
device: clinical and morphologic observations in 45 necropsy
patientsʺ. Am J Cardiol 45, (57), 260–8.
Jayshree D. LavanaMBBS, John F. Fraser, Susan E. Smith,
Lesley Drake, Peter Tesar, Daniel V. Mullany (2010)
ʺInfluence of timing of intraaortic balloon placement in
cardiac surgical patientsʺ. The Journal of Thoracic and
Cardiovascular Surgery, 140, (1), 80‐85.
Karimi A, Movahedi N, Salehiomran A, et al (2008) ʺMortality
in open heart surgery with intra ‐ aortic balloon pump
supportʺ. Asian Cardiovasc Thorac Ann, 16, 301‐304.
Mastropierro R, Bettinzoli M, Bordonali T, et al (2009)
ʺPneumonia in a Cardiothoracic Intensive Care Unit:
Incidence and Risk Factorsʺ. Journal of Cardiothoracic and
Vascular Anesthesia, 23, (6 (December)), 780‐788.
Sirbu H, Busch T, Aleksic I, Friedrich M, Dalichau H (2000)
ʺIschemic complications with intra‐aortic balloon
counterpulsation: incidence and managementʺ. Cardiovasc
Surg 8, (58), 66–71.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
hiệu quả của việc sử dụng bóng đối xung nội
động mạch chủ sớm và chủ động cho những
trường hợp cần phải phẫu thuật tim nhưng có
nguy cơ cao là tốt. Việc sử dụng bóng theo chiến
lược như vậy không những giúp giảm tỉ lệ tử
vong, mà còn rút ngắn thời gian điều trị 1 cách
đáng kể. Mặc dù đây chỉ là 1 nghiên cứu với số
bệnh nhân còn hạn chế, thiết nghĩ rất cần có
những nghiên cứu lớn và toàn diện hơn trong
việc sử dụng thích hợp bóng đối xung nội động
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
Nghiên cứu Y học
12.
Ngày nhận bài báo:
01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
29/11/2013
Ngày bài báo được đăng :
05/01/2014
211