Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận Xử lý tình huống nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch ở ấp 7 Xáng II, xã Đông Hòa, huyện An Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.37 KB, 15 trang )

Lời cảm ơn
Qua thời gian học tập và nghiên cứu, tiếp thu kiến thức lớp bồi dưỡng  
quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên khóa 48 năm 2018 mở  tại Trường Chính 
Trị Tỉnh Kiên Giang đã được trang bị thêm những kiến thức rất cơ bản và quan 
trọng về QLNN trên nhiều lĩnh vực, nâng cao trình độ lỷ luận và nhận thức để 
phục vụ công tác ngày một tốt hơn.
Bản thân tự  nhận thấy rằng trong quả  trình tiếp thu những chuyên đề  về 
quản lý nhà nước và một sổ  kỹ năng do giảng viên truyền đạt hết sức là bổ  ít 
và tự  nhận thấy rằng bản thân có sự  tiến bộ  rõ rệt về  nhận thức và tích lũy 
được những kinh nghiệm bổ  ích trong công tác cải cách hành chính trong quản  
lý Nhà nước nói chung và cải cách hành chỉnh trong lĩnh vực Nông nghiệp nói 
riêng.
Để hiểu rõ hơn về những lý thuyết mà bản thân đã được học qua các thầy 
cô giảng dạy trong hoạt động Quản lý Nhà nước nay bản thân chọn tình huống 
“Xử  lỷ  tình trạng nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch ” trên địa bàn Xã Đông Hòa,  
huyện An Minh, làm cơ sở vận dụng kiến thức đã học vào thực tỉển.
Qua quả trình học tập và nghiên cứu, trình độ tiếp thu và nhận thức có giới  
hạn nên những kiến thức bản thân thể  hiện trong tiểu luận này không tránh  
khỏi những sai sót. Rất mong được sự  đóng góp ý kiến giúp đỡ  tận tình của  
thầy cô để bản thân có thêm kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ tốt hơn.
Tôi xỉn chân thành cảm  ơn Ban giảm hỉêụ  Trường Chính trị, quý thầy cô  
giảng dạy cùng ban tổ chức lớp học đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ cho em hoàn  
thành khóa học và hướng dẫn em hoàn thành tiểu luận tình huống cuối khóa.
Một lần nữa em xỉn chân thành cảm ơn./.


I. Lời mở đầu.
Huyện An Minh có diện tự  nhiên 72.604 ha; trong đó diện tích đất nông  
nghiệp   67.123   ha,   bao   gồm:   đất   sản   xuất   nông   nghiệp   45.615   ha,   đất   lâm 
nghiệp 18.932 ha, đất nuôi trồng thủy sản 2.575 ha (năm 2007) và các loại diện  
tích khác. Huyện có điều kiện tự nhiên với các tiểu vùng sinh thái đa dạng. Đối  


với tiểu vùng nước lợ ­ mặn thì hiện nay đã đa dạng hóa được đối tượng nuôi 
trên vùng quy hoạch tôm ­ lúa, vùng chuyên nuôi trồng thủy sản và vùng dưới 
tán rừng phòng hộ ven biển
Đồng thời huyện là một trong bốn vùng kinh tế của tỉnh nói riêng và vùng  u 
Minh Thượng nói chung, có thế mạnh về sản xuất nông­ngư­lâm nghiệp. Trong  
những năm qua, trên cơ sở các phương án quy hoạch sản xuất cho từng thời kỳ 
được UBND huyện phê duyệt và chỉ  đạo thực hiện, điều kiện sản xuất trong  
vùng được cải thiện, những tiềm năng, lợi thế được khơi dậy và phát huy hiệu 
quả, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, do hạn chế  bởi yếu tố 
tự  nhiên như  đất đai bị  nhiễm phèn, mặn và đặc biệt là chịu  ảnh hưởng của  
biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn trong những năm qua cộng với những yếu kém  
về  kết cấu hạ tầng, mặt bằng dân trí thấp nên sản xuất phát triển thiếu vững  
chắc và bị  lệ  thuộc nhiều vào yếu tố  tự  nhiên, cơ  cấu sản xuất chuyển dịch  
chậm, kinh tế nông nghiệp ­ nông thôn tăng trưởng thấp.
Căn cứ  Tờ  trình số  523/TS­KH ngày 14/11/2003 của sở  Thủy sản Kiên 
Giang về  việc sửa đổi, bổ  sung điều chỉnh lại quy hoạch nuôi tôm đã được sự 
thống nhất chủ trương của UBND tỉnh Kiên Giang tại phê duyệt. Trong đó giao  
cho sở Thủy sản chủ trì phối hợp với các ngành địa phương liên quan tiến hành 
diều chỉnh lại quy hoạch.
Căn cứ đề nghị của ƯBND huyện An Minh về việc xin mở rộng diện tích  
nuôi tôm phía bờ Đông đã được UBND tỉnh phê duyệt với diện tích cho phép là 
12.000 ha.
UBND huyện đã chỉ  đạo phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn phôi 
hợp phòng Tài chính huyện cùng với chính quyền các xã, thị trấn điều chỉnh bô 
sung quy hoạch sản xuất nông ­ lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong toàn 
huyện, trong đó có quy hoạch vùng nuôi tôm sú. Cộng với nỗ lực của nông dân 
phong trào nuôi trông thủy sản  ở  An Minh đã phát triên mạnh mẽ  đặc biệt là 
nuôi tôm sú.
Phong trào nuôi tôm phát triển khá mạnh và bên cạnh đó gia tăng tình trạng 
nuôi tôm tự  phát,  ồ   ạt ngoài vùng quy hoạch. Việc quy hoạch phát triển nuôi  

tôm sú chưa chặt chẽ; một số vùng chính quyền địa phương quy hoạch nuôi tôm 
sú nhưng nhiều hộ dân lại trồng lúa và ngược lại. Từ đó hàng năm luôn xảy ra 
tranh chấp nguồn nước ngọt, mặn trong những hộ dân trong việc đóng mở cống  
ngăn mặn. Việc phát triển nuôi tôm khá nhanh, có hiệu quả kinh tế nhưng mức  


rủi ro cao gây tình trạng người nuôi tôm bán đất, bán nhà,...
Sau vài năm thực hiện, phương án quy hoạch nuôi tôm được thể hiện dần  
trong thực tế với những kết quả bước đầu đạt được phản ánh sự  phù hợp của  
quy hoạch, xong cũng đặt ra một số  vấn đề  cần phải nghiên cứu xác định. 
Trong khi đó, ở vùng không quy hoạch nuôi tôm lại phát huy tình trạng nuôi tôm 
tự phát trên diện rộng, gây xáo trộn cơ cấu và mùa vụ  sản xuất, đồng thời gây 
khó khăn cho công tác quản lý, chỉ  đạo điều hành nghiệp vụ  phát triển kinh tế 
xã hội của các cấp chính quyền địa phương ngành chức năng. Từ  đó đẫn đến 
một thực trạng đang tranh chấp giữa nuôi tôm và trồng lúa của chính người dân 
nơi đây đã gây tổn thất không nhỏ về kinh tế cho địa phương và ngay chính bản 
thân họ.
Để  làm rõ những vấn đề  trên, tôi vận dụng những kiến thức học hỏi và 
thực tế trình bày tình huống: “ Xử lý tình huống nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch  
ở ấp 7 Xáng II, xã Đông Hòa, huyện An Minh”.
II. Mô tả tình huống
Ông Phạm Văn Hùng, Bí thư   ấp 7 Xáng II cho biết, trên địa bàn  ấp hình  
thành 2 vùng sản xuất. Một là sản xuất lúa 2 vụ/năm tuyến giáp với xã An Minh  
Bắc (U Minh Thượng), hai là 1 vụ  lúa ­ 1 vụ  tôm. Những năm gần đây, do giá  
lúa bấp bênh lợi nhuận thấp và sản xuất lúa gặp rất nhiều khó khăn, nhất là  
trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp. Tiếp đến, giá  
trị kinh tế của con tôm so với lúa cao hơn gấp nhiều lần.
Đên với khu vực kinh KT1, xã Đông Hòa (An Minh) những ngày này mới  
thấy sự  nghịch lý, bất cập và hạn chế  trong sản xuất nông nghiệp. Một bên 
người trồng lúa tranh thủ, tận dụng nguồn nước trời mưa xuống giống vụ Hè 

Thu; một bên, người nuôi tôm cải tạo đồng ruộng, thiết kế  đầm vuông, bơm  
nước mặn vào thả tôm nuôi. Ông Trần Thanh s, ấp 7 Xáng 2, xã Đông Hòa nói: 
hơn 3 hecta đất của gia đình những năm qua sản xuất lúa 02 vụ  còn nhiều hạn  
chế  nguyên nhân xuất phát từ  việc có 02 trường hợp lân cận tự  ý phá vỡ  quy  
hoạch vùng lúa 02 vụ, cố tình đưa nước mặn vào để nuôi tôm, nên năm nay đất 
còn bỏ  trống, chưa gieo sạ  do nước nhiễm mặn từ  các vuông nuôi tôm. Năm 
nay, tiếp tục phát sinh thêm hàng chục hộ nuôi tôm, với diện tích ngày càng lớn  
hơn nên lượng nước mặn bơm vào vuông nuôi tôm quá nhiều làm nhiễm mặn 
cả  vùng lúa không sống nổi. Tương tự, Nguyễn Văn D ngụ  cùng địa chỉ  trên 
xuống giống hơn 2 hacta, lúa được khoảng 30 ngày tuổi không phát triển mà 
theo ông do nước mặn ở các vuông nuôi tôm xâm nhập vào gây thiệt hại lúa.
Từ những lý do trên nên nhiều hộ dân tự phát chuyển đổi đất trồng lúa 
sang nuôi tôm trong nhiều năm qua. Cụ thể là vùng ven sông Xáng xẻo Rô trên 
địa bàn xã hiện đã chuyển đổi sang nuôi tôm khoảng 5.200 ha và hiệu quả của 
con tôm mang lại là rât lớn... Sức hút nuôi tôm càng lớn hơn so với trồng lúa khi 
những hộ nuôi tôm vùng ven sông Xáng xẻo Rô đã trúng đậm vào mùa tôm, 


ngoài ra còn có thu nhập thêm từ đôi đượng cua biên, tôm càng xanh. Không ít 
hộ nuôi tôm ở đây vụ mùa thu về từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đồng 
trên hacta tôm nuôi. Vì vậy, hình thành nên “cơn sóng” chuyển đổi đất trồng lúa 
sang nuôi tôm trong một bộ phận nông dân.
Bức xúc trước tình trạng đó đại diện cho những hộ dân nói trên là ông Trần 
Thanh s ở ấp 7 xáng II, xã Đông Hòa, huyện An Minh đã mang đơn đến UBND  
xã Đông Hòa, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn và phòng tiếp dân của  
huyện. Anh Trần Thanh s bảo rằng nếu huyện giải quyết không thỏa đáng thì 
anh sẽ  mang đơn lên tuyến tỉnh để khiếu nại và sẽ  tiếp tục khiếu nại cho đến  
khi nào vấn đề được giải quyết hợp lý.
Huyện An Minh nói chung và xã Đông Hòa nói riêng, vấn đề  nuôi tôm 
ngoài vùng quy hoạch không còn là vấn đề  xa lạ  với chúng ta, tình trạng này 

vẫn đang tiếp diễn. Mặc dù đang trong giai đoạn quy hoạch nhưng nhiều nơi  
trên địa bàn vẫn luôn có sự  tranh chấp giữa người nuôi tôm và người trồng lúa  
vì một số hộ dân không chịu chuyển đổi cơ cấu sản xuất.
Bên cạnh đó các vấn đề xảy ra giúp ta suy ngẫm lại cần phải có biện pháp 
để tình trạng này không còn hoặc kéo dài người dân đi khiếu nại, khiếu kiện về 
một vấn đề  chung là tranh chấp giữa hộ  nuôi tôm và trồng lúa. Tình trạng này 
mỗi năm đều được giải quyết thế  nhưng tình trạng khiếu nại giữa những hộ 
trồng lúa và nuôi tôm nằm ngoài vùng quy hoạch vẫn tiếp tục kéo dài, phải  
chăng cách xử lý của các ngành có chức năng chưa mang tính triệt để, chưa phù 
hợp với tình hình thực tế, do cơ  chế  chưa rõ ràng hay do trình độ  chuyên môn,  
nghiệp vụ  của một bộ  phận cán bộ  cấp cơ  sở  còn hạn chế, phân bổ  cán bộ 
không đúng chuyên môn dẫn đến việc giải quyết không triệt để  dẫn đến việc 
khiếu nại, tố cáo ngày càng nhiều và vượt cấp.
Đồng thời huyện An Minh là một huyện chủ yếu là sản xuất theo hướng 
nông ­ ngư ­ lâm nghiệp là chủ yếu, nhưng chủ lực vẫn là nuôi tôm ­ lúa là hai 
đối tượng sản xuất chủ lực của huyện, mô hình tôm­lúa giúp cho bà con nơi đây 
nâng cao hiệu quả sản xuất và cải thiện cuộc sống, nhiều hộ đã khá lên nhờ hai 
đối tượng này chính vì thế người dân cần phải tuân theo những quy định chung 
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đê làm giàu chính
đáng không trái với những quy định và những cơ chế đưa ra.
Chính vì thế ngành chuyên môn phải tìm ra biện pháp khắc phục hữu hiệu  
như có chế tài xử lý khả thi và mang tính khách quan, thiết thực để người dân ý 
thức được tác hại của việc không tuân thủ pháp luật nói chung và việc nuôi tôm 
ngoài vùng quy hoạch nói riêng. Vì thế  việc tuyên truyền pháp luật của Nhà  
nước của các cấp cơ  sở  đến với người dân là rẩt cần thiết và thiết thực để 
người dân tự ý thức được thì vấn đề  mới được giải quyết triệt để  hoặc xin ý 
kiến nhân dân trong khu vực về chuyển dịch sang mô hình nuôi tôm ­ lúa và trình  
UBND huyện xin ý kiến chỉ  đạo của cấp trên. Bản thân tôi mong rằng với 



những phương án, tình huống xử  lý mà bản thân đưa ra dưới đây có thể  giúp 
giải quyết hiệu quả  những vấn đề  được đề  cập và sẽ  không còn những tình  
trạng người trồng lúa khiếu nại người nuôi tôm và tránh những sự  việc đáng 
tiếc xảy ra khi chúng ta đưa ra các biện pháp xử lý quá muộn.
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống.
ủy ban nhân dân xã khẩn trương điều tra, rà soát lại quy hoạch sản xuất  
toàn địa bàn nhất là những khu tranh chấp giữa trồng lúa và nuôi tôm cũng như ở 
kinh KT 1 thuộc  ấp 7 Xáng II. Những tiểu vùng nào có đủ  điều kiện sản xuất 
luân canh lúa ­ tôm, nông dân đồng thuận thì chuyển đổi theo yêu cầu của người  
dân.
Đồng thời sẽ xử lý những tiểu vùng không đủ điều kiện như là người dân 
không đồng thuận thì sẽ  có biện pháp, chế  tài xử  lý những hộ  nuôi tôm ngoài 
vùng quy hoạch nhằm bảo đảm sản xuất có hiệu quả,  ổn định vững chắc và 
đảm bảo môi trường sinh thái phát triển bền vững, duy trì ổn định trật tự xã hội 
trong vùng.
Tạo môi trường, điều kiện thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu sản xuất và 
cơ  cấu sản xuất nông nghiệp ­ nông thôn phát triển theo hướng tốt, góp phần 
cải thiện nâng cao điều kiện sống và sinh hoạt của người dân;
Thông qua việc xử lý, lập lại kỷ luật, kỷ cương trong việc thực hiện các 
quy định quản lý Nhà nước; từng bước nâng cao ý thức chấp hành của mọi tổ 
chức cũng như cá nhân trong việc thực hiện các quyêt định quản lý Nhà nước và 
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan Nhà nước trên các lĩnh vực 
của đời sống kinh tế ­ xã hội.
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả.
1. Phân tích nguyên nhân.

Tình trạng nuôi tôm tự  phát ngoài vùng quy hoạch trên diện rộng trong 
những năm qua, nhất là từ  những năm gần đây có nhiều nguyên nhân khách 
quan, chủ quan, song chủ yếu là:
Trong điều chỉnh bổ sung quy hoạch sản xuất nông ­ ngư ­ lâm nghiệp nuôi 

trồng thủy sản đến năm 2001­2010 được UBND tỉnh và Sở thủy sản Kiên Giang 
phê duyệt, khu vực nào điều kiện đất đai, địa hình, kết cấu hạ  tầng khá thuận 
lợi cho sản xuất nông nghiệp và nơi đây sản xuất cơ  bản  ổn  định, nhất là  
những cây trồng, vật nuôi truyền thống như: lúa, mía, cá, ...Do  ảnh hưởng của 
biến đổi khí hậu, nắng hạn kéo dài, ít mưa dẫn đến thiếu nước ngọt để  sản  
xuất nông nghiệp những năm gần đây nên các hộ xung quanh giữ nước mặn để 
nuôi tôm làm toàn vùng bị mặn xâm nhập mặn ảnh hưởng đến diện tích của các  
hộ  dân canh tác lúa và tạo áp lực và cơ  hội dẫn đến việc tranh chấp làm cho  
người dân trong vùng chuyển đổi diện tích sản xuất sang nuôi tôm­lúa.
Nhận thức của người dân về  quy hoạch và việc tuân thủ  quy hoạch chưa 


đầy đủ. Phần lớn quan tâm đến lợi ích kinh tế  trước mắt, ít quan tâm đến lợi 
ích tổng thể, lâu dài kể cả về  kinh tế  ­ xã hội và môi trường sinh thái. Một bộ 
phận hộ dân ý thức chấp hành cũng chưa tốt, thậm chí còn cố  tình không chấp 
hành cho dù đã được nhắc nhở, kể cả bị xử phạt vi phạm hành chính.
Ông Ngyễn văn p, chủ  tịch UBND huyện cho biết, vùng trọng điểm An  
Minh là sản xuất nông nghiệp gần như  phụ  thuộc vào thiên nhiên, nông dân 
hoàn toàn bị động trong trồng lúa. Nguyên nhân do hai cống thủy lợi quy mô lớn  
trên sông Cái Lớn và kinh xáng xẻo Rô chưa được đầu tư  xây dựng; tuyến đê 
ven biển An Minh ­ An Biên đang trong tình trạng sạt lở  nghiêm trọng nhưng  
việc đầu tư  xây dựng, nâng cấp triển khai quá chậm, còn  ở  điểm xuất phát  
thấp. Tiếp đến, 30 cống thỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt trên tuyến đê biển An Minh  
­ An Biên được đâu tư băng nguôn vôn Trung ương hô trợ có mục tiêu hàng năm, 
những chỉ  triển khai được 6 cống. Do đó, vùng sản xuất nông nghiệp trọng 
điểm Ư Minh Thượng thời gian qua luôn nổi lên việc tranh chấp giữa trồng lúa 
và nuôi tôm.
Mặc khác nuôi tôm sớm cho đời sống kinh tế   ổn định hơn so với trồng 
rừng và nhiều cây trồng khác và lợi nhuận thu được cũng sẽ  cao hơn nếu nuôi 
theo hướng bền vững một vụ  tôm một vụ  lúa...đã kích thích địa phương  ồ   ạt  

chuyển sang nuôi tôm trong khi những điều kiện cần và đủ hầu như chưa có và  
cũng chưa lường tới những hậu quả  lâu dài có thể  xảy ra. Chính quyền địa 
phương vận động người dân không bỏ  lúa để  nuôi tôm, tuy nhiên lúng túng 
trong định hướng hiệu quả  kinh tế  nên nhiều người dân không đưa nước mặn 
vào ban ngày mà lén lúc đưa vào ban đêm.
Quản lý Nhà nước về  quy hoạch, kế  hoạch chưa  được quan tâm đúng 
mức, nhất là trong tuyên truyền giải thích để  cho người dân hiểu rõ nội dung  
quy hoạch, từ đó vận động tổ chức nhân dân thực hiện theo đúng quy hoạch. Có 
nơi buôn lỏng quản lý, thiếu kiên quyết trong chỉ đạo điều hành và những biểu  
hiện thực tế  là: Trong khi vùng quy hoạch chưa được thực hiện đúng theo kế 
hoạch như  chưa lấy  ý kiến trong dân và trình lãnh đạo cấp huyện về  việc 
chuyển dịch vùng sản xuất, chưa được ý kiến chỉ  đạo và chưa được tổng kết  
đánh giá đầy đủ  cả  về  hiệu quả  kinh tế  và về  nuôi trồng sinh thái (nuôi tôm ­  
trồng lúa) thì lại để  phát sinh nuôi tôm tự  phát ngoài vùng quy hoạch nhưng  
không được xử lý sớm, dứt điểm để lan ra diện rộng không kiểm soát được.
2. Phân tích hậu quả.

Việc chuyển nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch, mặt nào đó thể hiện sự tích 
cực của người dân trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất dựa trên những lợi thế và 
những hạn chế của điều kiện tự nhiên: 6 tháng nước mặn, 6 tháng nước ngọt 
phù hợp với việc nuôi trồng 1 vụ tôm, 1 vụ lúa với mong muốn có cuộc sống 
khá lên từ thực tế chuyển nuôi tôm bước đầu giúp nhiều hộ dân sử dụng lao 
động nông nhàn, có được thu nhập khá và đời sống nâng lên. Song đã làm nảy 
sinh những mâu thuẫn, khó khăn trước mắt và đang đặt ra nhiều vấn đề cần 


phải giải quyêt đó là: ở những vùng đã sản xuât lúa 2 vụ ôn định xuât hiện 
những mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ nhân dân giữa người trồng lúa và 
người nuôi tôm gây mất trật tự xã hội thậm chí làm thiệt hại sản xuất cho cả 
hai phía.

Do nuôi tự  phát không nằm trong vùng quy hoạch nên kết cấu hạ  tầng 
không đáp ứng được trong sản xuất từng hộ phải đầu tư chi phí lớn, kiểm soát 
dịch bệnh, môi trường khó khăn dẫn đến hiệu quả thấp, tỷ  lệ rủi ro cao nhiều  
hộ dân không được hổ  trợ về khoa học ­ kỹ thuật thiếu kinh nghiệm trong sản  
xuất nên nuôi tôm bị  thiệt hại, đời sống gia đình gặp khó khăn hon. Việc nuôi 
tôm ngoài vùng quy hoạch đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây hậu quả không tốt tới 
việc chỉ  đạo thực hiện các nhiệm vụ  phát triển kinh ­ tế  xã hội của từng địa  
phưong và chung cả  huyện trong năm nay, có thể   ảnh hưởng trong vài ba năm  
tới, do xem xét điều chỉnh lại cơ  cấu sản xuất, quy mô, cơ  cấu đầu tư  về  lâu 
dài việc phát triển nuôi tôm tự phát ngoài vùng quy hoạch nếu không được xử lý 
phù hợp sẽ  làm xáo trộn đời sống  ảnh hưởng tới đời nền kinh tế  trên địa bàn 
huyện nói chung và  đời  sống người  dân nói riêng. Bởi vậy, cần thiết phải  
nghiên cứu đưa ra các phương án giải quyết tình hình trên.
IV. Xây dựng phương án, giải quyết và lựa chọn phương án.
1. Xây dựng phương án
1.1. Phương án 1.

Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ  thống cống, đập ngăn mặn ven biển 
Giúp nhân dân chủ  động trong việc lấy nước phục vụ  sản xuất. Đầu tư  xây 
dựng hoàn thành đồng bộ hệ thống các công trình thủy lợi và đê biển, hệ thống 
thủy lợi nội đồng là hết sức cần thiết và cấp bách. Qua đó giúp người nông dân  
có thể hạn chế thấp nhất những mâu thuẫn có thể phát sinh trong quá trình sản  
xuất.
* Cơ sở đề xuất phương án này:

Nhằm chủ động trong việc điều tiết nước mặn phục vụ cho nhu cầu sản  
xuất. Đồng thời việc đầu tư  xây dựng hệ  thống cống thủy lợi và đê biển là 
cần thiết nhằm khép kín tuyến đê biển, đáp ứng mục tiêu kiểm soát mặn, ứng  
phó với những bất lợi do biến đổi khí hậu và nước biển dâng hên địa bàn tỉnh.  
Qua đó, vừa ngăn mặn, giữ ngọt, chủ động nguồn nước cho sản xuất an toàn,  

bền vững, hiệu quả vừa bảo vệ cơ sở hạ tầng, cộng đồng dân cư, phát triển 
kinh tế ­ xã hội vùng ven biển và các địa bàn lân cận.
* Mặc tích cực của phương án này:

Điều này vừa đáp ứng mục tiêu kiểm soát mặn, quy hoạch vùng sản xuất  
nông nghiệp an toàn, bền vững đồng thời giải quyết dứt điểm tranh chấp giữa  
người trồng lúa và người nuôi tôm.
Đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi nội đồng hoàn chỉnh, vừa đảm bảm  


cho nông dân sản xuất hiệu quả, thu về hai nguồn kinh tế là lúa và tôm, vừa  
giải quyết được mâu thuẫn “mặn, ngọt” đan xen trên đồng đất.
ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng diễn biến phức 
tạp và sản xuất nông nghiệp an toàn, bền vững, hiệu quả cho vùng sản xuất Ư 
Minh Thượng. Cùng với đó, rà soát lại quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp 
vùng U Minh Thượng đang bị ảnh hưởng đên biên đôi khí hậu nhiêu nhât, bô trí 
cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi thích hợp, giúp nông dân sản xuất đạt kết 
quả, tạo ra sản phẩm nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế cao.
* Những khó khăn, hạn chế:
­ Thu hồi đất: Tiểu dự án sẽ có tác động tái định cư cho 58 hộ với 132.240  

m2 đất nông nghiệp và 6.882 m2 đất ở ­ Tiểu dự án được đề xuất không có tác  
động thu hồi đất của người dân tộc thiểu số.
­ Tái định cư: Di dời các hộ đang xây dựng nhà tạm trên tuyến đê biển.
­ Tác động đến sinh kế: Một số hộ gia đình có thể  bị ảnh hưởng tới hoạt  

động sản xuất nông nghiệp trong quá trình xây dựng hoặc cản trở  đi lại; Tiêu 
thoát nước cũng bị ảnh hưởng trong quả trình thi công cống mới.
* Giải pháp chủ yếu:
­ Có chính sách tạo việc làm cho người bị  thu hồi đất như: Là tạo điều 


kiện và phát huy tiềm lực sẳn có của địa phương nhằm tạo ra những việc làm 
ổn định thỏa mãn nhu cầu cho đời sống hàng ngày cho người bị thu hồi đất.
­ Hỗ  trợ  tái định cư  bằng cách giao đất  ở  hay đất nông nghiệp...tối thiểu  

phải đảm bảm diện tích đất cho mỗi hộ tái định cư tương tương với mức trung  
bình của hộ   ở  tại địa phương (theo quy định Luật hỗ  trợ  bồi hoàn của Nhà 
nước).
­ Bên cạnh đó phải tạo sinh kế  cho người dân như: Trạm Khuyến nông 

huyện chỉ  đạo tổ  Kinh tế  kỹ  thuật định hướng mô hình nông hộ  cho nông dân 
tạo nguồn sinh kế ổn định phát triển lâu dài cho hộ dân.
1.2. Phương án 2.

Rà soát lại quy hoạch sản xuất trên địa bàn, nhất là khu vực tranh chấp 
trồng lúa và nuôi tôm như ấp 7 Xáng II. Tiểu vùng nào có đủ điều kiện sản xuất 
luân canh lúa ­ tôm, nông dân đồng thuận thì chuyển đổi sang sản xuất lúa ­ tôm.
Cơ sở đề xuất phương án này:
Nông dân đã chuyển đổi từ sản xuất hai vụ lúa năng suất thấp sang mô 
hình luân canh tôm ­ lúa đạt hiệu quả kinh tế khá cao. Với  ưu điểm cho sản  
phẩm sạch, rủi ro dịch bệnh thấp, hiệu quả kinh tế cao và bền vững, mô hình  
tôm ­ lúa đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong sản xuất nông  
nghiệp địa phương.


Để  cho việc ít xảy ra tranh chấp, thưa kiện trong nội bộ nhân dân mặt 
khác do sản xuất nông nghiệp thiếu  ổn định đa số  người dân muốn chuyển  
nuôi tôm thì việc chấp thuận cho chuyển đổi không làm phát sinh mâu thuẫn 
và bất đồng mới trong nhân dân là cần thiết.
* Mặc tích cực của phương án này:

Việc quy hoạch lại vùng nuôi tôm ­ lúa sẽ  dẫn đến không xảy ra “xung  
đột” trong quá trình sản xuất đó là mô hình “thông minh”. Vào mùa khô, nước  
ngoài sông, rạch mặn thì lấy vào nuôi tôm, khi mưa xuống nước ngọt thì đưa 
vào trồng lúa.
Thực tế  cho thấy phát triển mô hình 1 vụ  lúa ­ 1 vụ  tôm mang lại hiệu 
quả kinh tế cao gấp 2,2 lần so với sản xuất 2 vụ lúa, góp phần quan trọng tạo  
sự bền vững môi trường.
Luân canh tôm ­ lúa một lần nữa chứng minh sự  phát triển sản xuất bền  
vững, là mô hình chủ  lực trong định hướng chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  tại địa 
phương.
Thành công của việc chuyển đổi mô hình này hoàn hoàn phù hợp với tình 
hình thực tế của tỉnh trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay.
Riêng vấn đề  nghiên cứu lai tạo những loại giống lúa mới có khả  năng 
chịu mặn cao để thích ứng với môi trường đất đai nhiễm phèn, nhiễm mặn cũng  
được tỉnh Kiên Giang chú trọng. Công tác nghiên cứu lai tạo, nhân giống lúa 
được thực hiện bởi Trung tâm giống nông lâm ngư  nghiệp, Trung tâm Khuyến 
nông và 3 hệ  thống mạng lưới cơ  sở  sản xuất giống tư  nhân, HTX, THT với 
tổng diện tích khoảng 3.500 ha/vụ, khả  năng cung  ứng giống xác nhận cấp 1  
với số  lượng 15.000 tấn, chiếm 40% và giống xác nhận cấp 2 với số  lượng  
5.000 tấn chiếm 10% nhu cầu giống lúa toàn tỉnh. Ngoài nghiên cứu lai tạo, 
nhân giống lúa xác nhận, Trung tâm Giống nông lâm ngư nghiệp cũng tập trung  
nghiên cứu giống lúa có nhiều đặc tính tốt, phù hợp với mô hình tôm ­ lúa và  
giống   lúa   GKG1   đã   được   chọn   tạo   thành   công   đạt   tiêu   chuẩn   QCVN   01­
54:2011/BNNPTNT.
* Những khỏ khăn, hạn chế:

Điều kiện để nuôi tôm chưa bảo đảm tỷ  lệ  rủi ro cao và một số  bộ  phận  
nhân dân đời sống khó khăn hơn. Những nơi nuôi tôm tiếp giáp vùng sản xuất 
nông nghiệp hoặc lấy nước mặn qua vùng sản xuất đất nông nghiệp có khả 
năng gây  ảnh hưởng xấu tới sản xuất đất nông nghiệp. Môi trường vùng nuôi 

tôm này càng bị  nhiễm mặn, khó có khả  năng cải tạo đa dạng hóa sản xuất 
hoặc chuyển đổi sản xuất khi nuôi tôm gặp bất lợi. Vùng trồng lúa phải đắp 
đập giữ nước ngọt hàng năm sẽ bị áp lực đòi chuyển đổi nuôi tôm và việc đắp  
đập là rất khó khăn.
* Giải pháp chủ yếu:


Các   cấp   ủy   Đảng,   chính   quyền   từ   huyện   đến   cơ   sở   phải   cụ   thể   hóa 
phương   pháp  thực   hiện  quy  hoạch,  coi  đây  là  nhiệm  vụ   trọng  tâm  của   địa 
phương, tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, kịp thòi tháo gỡ  khó khăn, mạnh 
dạn tham mưu chính sách phù hợp để  thực hiện mô hình tôm lúa đạt hiệu quả 
cao nhất. Các   ấp  được  giao chỉ  tiêu tiếp tục phối hợp chặt chẽ  với ngành  
chuyên môn của xã rà soát nắm bắt tình hình kịp thời báo ngay về tổ chỉ đạo để 
có hướng xử lý kịp thời trong cách tổ chức thực hiện. 
Xây dựng đội ngũ cán bộ  kỹ  thuật tuyên truyền, tập huấn hướng dẫn kỹ 
thuật; thực hiện các mô hình trình diễn làm điểm nhân rộng; hỗ  trợ  cho bà con  
nông dân về con giống, thức ăn, phân bón. Đặc biệt để kiểm soát quan trắc môi 
trường nước đầu nguồn, vùng nuôi, phòng trừ  dịch bệnh. Liên kết với trạm  
Chăn nuôi ­ Thú y huyện chủ động đề xuất hỗ trợ chlorine xử lý nước trước khi 
thả nuôi, nâng cao ý thức "phòng bệnh hon chữa bệnh" đối với người nuôi tôm.
Khoanh bao khu vực được nuôi tôm bằng hệ  thống kênh mương, bờ  bao 
hiện có hoặc làm mới và phải nằm trong vùng quy hoạch . Đồng thời thực hiện  
triệt để  việc nuôi một vụ  tôm, một vụ  lúa để  bảo đảm tính bền vững của mô  
hình.
1.3. Phương án 3.

Xử lý kiên quyết, dứt điểm không cho nuôi tôm ở khu vực đất lúa 2 vụ/năm
* Cơ sở đề xuất:
­ Không cho nuôi tôm trên đất 2 vụ  lúa nhằm không làm xáo trộn cơ  cấu 
sản xuất đã định hình và đời sống nhân dân những nơi đây cơ  bản đã ổn định, 

tránh được hiện tượng sản xuất “ da beo” tôm ­ lúa do còn bộ phận lớn hộ dân 
chưa đồng ý chuyển đổi và giữ được môi trường sinh thái tốt cho sản xuất đời  
sống dân cư.
* Mặc tích cực của phương án này:

Diện tích đất nông nghiệp ngày càng hẹp lại nhưng nhờ  áp dụng tiến bộ 
kỹ  thuật nên năng xuất lúa ngày cao, sản lượng lúa không ngừng tăng lên, bộ 
phận hộ dân khá lên nhờ chuyển đổi sản xuất làm lúa cao sản, cánh đồng mẫu  
lớn có hiệu quả trong một vài năm nay.
Sản xuất 2 vụ  lúa còn giảm được chi phí sản xuất: Công lao động, phân 
bón, giống, thuốc trừ sâu....Đất có thời gian nghĩ ngơi, cắt được mầm móng sâu 
bệnh, tiết kiệm nước góp phần khắc phục tình trạng thiếu nước gây mất mùa 
vào vụ Hè Thu đồng thời chủ động được thời vụ sản xuất.
* Những khỏ khăn, hạn chế:

Hệ  thống thuỷ lợi của vùng dù được đầu tư  khá nhiều nhưng lại chưa có  
quy trình vận hành cụ thể và có công trình chưa đi vào sử dụng, nước mặn vào  
ra thường xuyên, kể cả trong mùa mưa nên không đảm bảo ngăn mặn, giữ ngọt 
cho vùng. Trong khi đó, hệ thống đê bao trong vùng hiện nay hầu như không có,  


chỉ có các tuyến lộ chính đóng vai trò là bờ bao. Tuy nhiên, hệ thống bờ bao trên 
các sông trục hiện nay đã không còn đủ  cao, vào mùa mưa thường bị  tràn và  
ngập úng trong thời gian dài.
Bên canh đó, giá lúa thương phẩm hiện  ở mức khá thấp nhưng vật tư đầu 
vào lại tăng cao là một trong những nguyên nhân chính khiến cho diện tích lúa 2 
vụ của huyện những năm gần đây đạt thấp, chỉ khoảng 50% so với cùng kỳ  và 
đang có dấu hiệu giảm dần theo từng năm.
Tuy nhiên, với nhiều nguyên nhân trên dần dần diện tích đất lúa, nhất là 
đất lúa 2 vụ/năm sẽ  bị thu hẹp lại. Từ những thực tế quá trình ữiển khai vùng  

nuôi trồng thuỷ  sản luôn  ở  mức  ổn định, đòi sống người dân từng bước được 
nâng cao. Trong khi vùng ngọt hoá lại liên tục biến động, trồng lúa năng suất  
thấp, giá lúa bấp bênh, đặc thù sản xuất lúa 2 vụ/năm hoàn toàn phụ thuộc vào 
nước mưa..., vì thế khiến người nông dân ở những vùng ngọt hóa dần dà "quay  
lưng" với cây lúa.
* Giải pháp:
Trước thực trạng trên, huyện An Minh đã ra công văn yêu cầu các  ấp trên 
địa bàn có vùng ngọt hóa khẩn trương có biện pháp ngăn chặn ngay tình trạng  
người dân tự ý đưa nước mặn vào vùng quy hoạch lúa 2 vụ/năm để  nuôi tôm, 
đồng thòi đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân ý thức được tác hại  
của nước mặn xâm hại vùng ngọt hoá; công khai quy hoạch để người dân hiểu,  
tự  giác chấp hành thực  hiện quy hoạch; giữ  nguyên hiện trạng vùng, khẩn 
trương rà soát điều chỉnh tái cơ  cấu ngành nông nghiệp gắn với biến đổi khí  
hậu.
Để  khắc phục tình trạng thiếu nước ngọt đối với vùng này cần trữ  nước  
mưa và tận dụng tối đa nguồn nước ngọt từ Sông Hậu về  thông qua Sông Cái 
Lớn; Hoàn thiện hệ  thống đê biển, tiếp tục xây dựng tuyến đê dọc sông Cái 
Lớn; Xây dựng hệ thống các cống ven biển Tây, cống xẻo Rô và hệ thống cống  
ngăn mặn ven Sông Cái Lớn; tăng khả năng tiêu úng xổ phèn.
2. Lựa chọn phương án
Phương án 2: Rà soát lại quy hoạch sản xuất trên địa bàn, nhất là khu vực 
tranh chấp trồng lúa và nuôi tôm như ấp 7 Xáng II, xã Đông Hòa. Tiểu vùng nào 
có để  diều kiện sản xuất luân canh lúa ­ tôm, nông dân đồng thuận thì chuyển  
đổi sang sản xuất lúa­tôm.
Nuôi tôm quảng canh cải tiến và 1 vụ  lúa (tôm­lúa), phát triển 5 năm nay, 
có nhiều thay đổi, cải tiến về  kỹ  thuật và đang đi sâu vào vùng lúa năng suất  
thấp ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu. Thường từ tháng 1 đến 8 là nuôi 
tôm, tháng 9 ­ 1 2  làm lúa. Luân canh tôm ­ lúa cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn 
chuyên canh tôm hoặc lúa.
Khảo sát nuôi tôm quảng canh cải tiến và 1 vụ lúa (tôm­lúa): tỉnh Bạc Liêu 



thu 77,8 triệu đồng/ha/năm, lời 55,4 triệu; Cà Mau thu 54,2 triệu đồng/ha, lời 
39,1 triệu; Kiên Giang thu 81,4 triệu đồng/ha, lời 50,9 triệu. Thu nhập  ở  tỉnh  
Bạc Liêu và Cà Mau cao hơn vì có thả  kết hợp tôm càng xanh. Xét tỷ  suất lợi 
nhuận trên đồng vốn đầu tư, có thể thấy là khá cao 1,67 ­ 2,59 lần.
về  hiệu quả  xã hội và môi trường, nuôi tôm quảng canh cải tiến và 1 vụ 
lúa (tôm­ lúa) là bền vững nhất hiện nay; đầu tư  thấp nên phù hợp với điều  
kiện tài chính và trình độ  của đa số  nông hộ. Mức độ  rủi ro cũng thấp hơn các  
mô hình chuyên tôm hoặc lúa. Nghiên cứu năm 2004, số  hộ  bị  lỗ   ở Cà Mau và 
Bạc Liêu chỉ khoảng 3 ­ 6%, thấp hơn rất nhiều nuôi tôm bán thâm canh và lúa 
ở  tỉnh Sóc Trăng là 14 ­ 21%. Nuôi tôm thưa, lượng thức ăn bổ  sung thấp nên  
còn được xem là mô hình canh tác thông minh dưới tác động của biến đổi khí  
hậu, cả ba mặt: an ninh lương thực, khả năng thích ứng và giảm phát thải.
VI. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án được lựa chọn.
Quan điểm của tỉnh sẽ tập trung giải quyết vấn đề thủy lợi theo hướng hài 
hòa lợi ích, tránh xung đột trong sản xuất trồng lúa và phát triển nuôi tôm nước  
lợ. Quy hoạch thủy lợi đảm bảo nguồn nước ngọt phục vụ  sản xuất nông 
nghiệp; đảm bảo nguồn cấp nước mặn cho nuôi trồng thủy sản; tiêu thoát nước  
cho vùng trũng, thoát nước cho vùng nuôi trồng thủy sản ven biển; đầu tư  hệ 
thống đê bao, ô bao, trạm bơm điện phục vụ sản xuất nông nghiệp. Những quan 
điểm, định hướng này sẽ là nội dung của Dự án rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy 
hoạch thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2020 và 
định hướng đến năm 2030. Hàng năm tỉnh sẽ  bố  trí nguồn vốn cân đối từ  ngân 
sách địa phương, vốn TW hỗ  trợ  có mục tiêu, đặc biệt nguồn vốn trái phiếu  
Chính phủ cho dự án đầu tư xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy  
sản 2 ô thủy lợi huyện An Biên và An Minh.
Sở Nông nghiệp và PTNT chỉ đạo cho Trung tâm Khuyến Nông phối kết 
hợp với phòng Nông nghiệp và PTNT khẩn trương tổ chức tập huấn kỹ thuật 
cho các hộ nông dân đang nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch; cử cán bộ theo dõi 

hướng dân kỹ thuật ở những địa bàn nuôi tập trung, điêu kiện sản xuât có nhiều 
khó khăn.
­ UBND huyện giao Phòng NN & PTNT huyện chủ  trì, phối họp với các 

phòng, ban và chính quyền địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả nội dung  
quy hoạch, định kỳ  hàng quý báo cáo kết quả  thực hiện về  UBND huyện để 
theo dõi và có hướng chỉ đạo.
­ Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện phối hợi trạm Khuyến Nông huyện  

chỉ  dạo tổ  Kinh Tế  kỹ  Thuật và phối kết hợp với chính quyền địa phương  
hướng dẫn, kiểm tra thực hiện; báo cáo thường trực UBND huyện theo quy 
định để có biện pháp chỉ đạo xử lý những vướng mắc, phát sinh.
­ UBND xã tuyên truyền cho những hộ  dân đã chuyển nuôi tôm thực hiện 

các giải pháp bảo đảm an toàn sản xuất cho các hộ  dân khu vực xung quanh  


không nuôi tôm và phải tự thỏa thuận bồi hoàn thiệt hại (nếu có). Trường họp 
hộ  dân không tự thỏa thuận, chính quyền địa phương phải có trách nhiệm giải 
quyết, không để xảy ra khiếu kiện vượt cấp, làm mất ổn định chính trị ­ kinh tế 
­ xã hội trong cộng đồng dân cư.
­ Công bố  lịch thời vụ  và tuyên truyền, giải thích cho người dân nuôi tôm 

ngoài vùng quy hoạch thấy rủi ro,  ảnh hưởng của nuôi tôm  ồ   ạt, tự  phát. Trên 
ruộng luân canh tôm ­ lúa chỉ thả tôm từ tháng 2 đến tháng 8 dương lịch, trồng 
lúa từ tháng 9 đến tháng 01 dương lịch năm sau. Xử  lý những hộ  nuôi trái thời 
vụ một cách triệt để.
VII. Kết luận và kiến nghị.
Việc nuôi tôm tự  phát ngoài vùng quy hoạch trong thời gian qua, cho dù 
chưa hiệu quả hay có hiệu quả đều là biểu hiện vi phạm quy định Quản lý Nhà 

nước về  quy hoạch, kế  hoạch cần phải xem xét xử  lý theo quy định xử  lý vi  
phạm hành chính. Trong việc này, đối tượng vi phạm chủ  yếu là người dân, 
nhận thức còn hạn chế, động cơ vi phạm xuất phát từ nguyện vọng chính đáng 
là muốn chuyển đổi cơ  cấu sản xuất  để  có cuộc sống khá hơn; Mặt khác, 
phương án quy hoạch không phải là cố định mà luôn được nghiên cứu, bổ sung 
hoàn thiện dựa trên những định hướng phát triển sản xuất đúng đắn, phù hợp.  
Thông qua đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điếu hành của cơ quan Quản  
lý Nhà nước. Bởi vậy trong các phương án xử lý, một mặt cơ quan Quản lý Nhà  
nước cần tăng cường quản lý quy hoạch, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục  
người dân thực hiện theo chủ  trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà 
nước quy định; Mặt khác phải tìm hiểu nghiên cứu thực tế, phân tích có cơ  sở 
khoa học các vấn đề phát sinh để bổ sung, điều chỉnh quy hoạch. Đồng thời với  
việc thực thi quyết định Quản lý hành chính Nhà nước, cần phải nghiên cứu  
chỉnh lý, bổ sung quyết định cho phù hợp với tình hình thực tế.
Biện pháp xử lý nêu trên mới giải quyết trước mắt tình hình nuôi tôm ngoài  
vùng quy hoạch, chưa thể  giải quyết một cách toàn diện, cơ  bản, lâu dài cho 
vấn đề quy hoạch và thực hiện quy hoạch muôi tôm của huyện. Bởi vậy riêng 
bản thân sẽ đưa ra một số kiến nghị sau:
­ Sở  Nông nghiệp và PTNT chỉ  đạo cho Trung tâm Khuyến Nông nghiên 

cứu đánh giá hiệu quả các vụ lúa sau vụ tôm, xây dựng và hướng dẫn quy trình  
kỹ thuật canh tác lúa sau vụ nuôi tôm (sử  dụng giống cao sản, chất lượng cao)  
đạt hiệu quả.
UBND huyện ra quyết định, văn bản xử lý rõ ràng đối với những trường  
hợp vi phạm nhằm tăng hiệu lực công tác quản lý.
­

Phòng Nông nghiệp và PTNT phối hợp cùng phòng Thống kê tiến hành 
điều tra kinh tế của những hộ nuôi tôm qua những năm chuyển đổi cơ cấu sản 
xuất để  có chủ  trương, giải pháp trong quy hoạch và đầu tư  phát triển những  

năm tới phù hợp, có hiệu quả.
­


Phòng Công thương, phòng Tài nguyên ­ Môi trường nghiên cứu đánh 
giá tác động của việc nuôi tôm đến môi trường đất, nước, hệ sinh thái khu vực  
nuôi tôm và vùng phụ cận để có các giải pháp bảo đảm cho môi trường sinh thái 
phát triển bền vững.
­

UBND các xã, thị trấn căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và phạm vi quản lý 
nhà nước của địa phương có trách nhiệm tổ chức thực hiện hiệu quả. Bên cạnh  
đó cần theo dõi sát tình hình sản xuất, diễn biến trong dân để có hướng xử lý./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tờ trình số 215/TT­VP huyện ngày 29 tháng 12 năm 2003 về việc xin 
chuyển đổi quy hoạch vùng sản xuất huyện An Minh.
2. Báo cáo số 55/BC­ƯBND huyện ngày 04 tháng 07 năm 2006 về việc kết 
quả chuyên dịch nuôi trông thủy sản trên địa bàn huyện An Minh giai đoạn 
2001­ 2005.
3. Báo cáo số 25/BC­ƯBND xã ngày 15 tháng 11 năm 2004 về việc kiểm 
tra tình hình các hộ dân nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch.
4. Tờ trình số 24/TT­VP xã ngày 20 tháng 02 năm 2005 về việc xin chuyển 
đối quy hoạch vùng sản xuất trên địa bàn xã Đông Hòa



×