Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tỉ lệ sa sút trí tuệ và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân cao tuổi tại khoa lão Bệnh viện Nhân dân Gia Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.37 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

TỈ LỆ SA SÚT TRÍ TUỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN
CAO TUỔI TẠI KHOA LÃO BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Trần Thị Thanh Thảo*, Nguyễn Trần Tố Trân**, Nguyễn Văn Trí**, Nguyễn Minh Phụng ***

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sa sút trí tuệ (SSTT) là bệnh lý thường gặp ở bệnh nhân cao tuổi nằm viện tại khoa Lão. Tuy
nhiên, hiện chưa có nghiên cứu xác định tỉ lệ hiện mắc SSTT tại khoa Lão bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỉ lệ hiện mắc SSTT ở bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú tại khoa Lão, xác
định các yếu tố liên quan như tuổi, giới, trình độ học vấn, nguyên nhân nhập viện, thời gian nằm viện.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả gồm 433 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên nhâp khoa Lão bệnh viện
Nhân Dân Gia Định từ tháng 9/2015 đến tháng 5/2016. Chẩn đoán SSTT theo tiêu chuẩn DSM-V.
Kết quả: Tỉ lệ hiện mắc SSTT tại Khoa Lão là 36,3%. SSTT có mối liên quan với tuổi, trình độ học vấn, thời
gian nằm viện, nhâp viện vì viêm phổi, rối loạn nước và điện giải.
Kết luận: Bệnh nhân cao tuổi tại khoa Lão có tỉ lệ mắc SSTT rất cao. SSTT liên quan với nhập viện vì viêm
phổi, rối loạn nước và điện giải.
Từ khoá: sa sút trí tuệ, khoa Lão, DSM-V

ABSTRACT
PREVALENCE OF DEMENTIA AND RELATED FACTORS AMONG ELDERLY PAITENTS IN
GERIATRIC DEPARTMENT AT GIA DINH HOSPITAL
Tran Thi Thanh Thao, Nguyen Tran To Tran, Nguyen Van Tri, Nguyen Minh Phung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 184 - 188

Background: Dementia is prevalent in elderly patients, especially in geriatric departments.
However, few studies addressed the prevalence of dementia at geriatric department in Vietnam. Hence, it
is necessary to elucidate this issue.
Objectives: To determine the prevalence of dementia in elderly patients in geriatric department at


Gia Dinh hospital, and its related factors such as: age, sex, education, causes of hospital admission and
hospital length of stay.
Methods: A cross sectional study included 433 elderly patients in geriatric department from
September 2015 to May 2016. Diagnosis of dementia was undertaken using DSM-V criteria.
Results: the prevalence of dementia was 36.3%. Age, education were significantly associated with
dementia. Patients with dementia had longer hospital length of stay than patients without the condition.
The most common causes of hospitalization among them were pneumonia, dehydration and
electrolyte disorders.
Conclusions: The prevalence of dementia in geriatric department was high. The patients with
dementia had high risk of hospitalization due to pneumonia, dehydration and electrolyte disorders.
* Học viên cao học Lão khoa- đại học Y Dược TPHCM, ** Bộ môn Lão khoa- đại học Y Dược TPHCM,
*** Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: BS. Trần Thị Thanh Thảo ĐT: 0984993935.
Email:

184

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Keywords: dementia, geriatric department, DSM-V
ĐẶT VẤN ĐỀ

Tiêu chẩn nhận vào

Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già

hoá dân số vào năm 2011, với tỉ lệ người từ 60
tuổi trở lên chiếm 10,1%. Đây là thách thức cho
nền y tế với sự thay đổi mô hình bệnh tật, nổi bật
là sự gia tăng các bệnh mạn tính và thoái hoá,
điển hình là SSTT. Đây là một trong những
nguyên nhân chính gây tàn phế, giảm chất
lượng sống ở NCT. SSTT làm tăng nguy cơ nhập
viện lên 3,6 lần(4), góp phần kéo dài thời gian
nằm viện, điều này giải thích cho lí do tại sao tỉ
lệ mắc SSTT trong bệnh viện lại cao hơn rất
nhiều tại cộng đồng. Nghiên cứu của tác giả
Mukadam tổng hợp các nghiên cứu về SSTT tại
bệnh viện tại khoa Cấp Cứu, khoa Nội, Khoa
Ngoại, khoa Lão…cho thấy tỉ lệ SSTT là từ 19
đến 63%, trong đó, tác giả nhận định tỉ lệ này ở
khoa Lão và các đơn vị Lão Khoa chiếm tỉ lệ cao
nhất(6). Tuy nhiên, tại nước ta, các nghiên cứu về
mô hình bệnh tật ở NCT nằm viện tại khoa Lão
lại ghi nhận một tỉ lệ rất thấp bệnh nhân cao tuổi
được chẩn đoán là SSTT, điều này cho thấy lĩnh
vực này chưa được quan tâm nhiều(11).Vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu xác định tỉ lệ
hiện mắc SSTT và các yếu tố liên quan trên bệnh
nhân cao tuổi tại khoa. Lão bệnh viện Nhân Dân
Gia Định nhằm mục đích nâng cao nhận thức về
bệnh lý này ở các bác sĩ Lão Khoa, góp phần
chẩn đoán sớm và điều trị SSTT một cách hiệu
quả hơn.

Các bệnh nhân ≥ 60 tuổi đang điều trị hoặc

mới nhập vào khoa, tự nguyện tham gia và hợp
tác trong quá trình khám lâm sàng và làm trắc
nghiệm thần kinh tâm lý.

Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ SSTT ở bệnh nhân cao tuổi tại
khoa Lão bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Xác định mối liên quan của SSTT với một số
yếu tố: tuổi, giới, trình độ học vấn, nguyên nhân
nhập viện, thời gian nằm viện.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú tại khoa
Lão từ tháng 9/2015 đến 5/2016.

Thần kinh

Tiêu chuẩn loại trừ
Có tình trạng bệnh lý nội khoa nặng như
phải đặt sonde dạ dày, mở khí quản…
Bệnh nhân bị thất ngôn, khiếm khuyết về thị
lực, thính lực và không hợp tác đầy đủ.
Bệnh nhân bị sảng, đột quị cấp, trầm cảm
nặng, tâm thần phân liệt.

Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả, cắt ngang.
Cỡ mẫu

Công thức tính cỡ mẫu N= Z1-

/2 2

p(1-p)/ d2

Với: Z1- /2 = 1,96 (độ tin cậy 95%).
p = tỉ lệ bệnh trong dân số, ước lượng 0,5, d =
sai số = 0,05.
Tính được n = 384 người từ 60 tuổi trở lên.
Chúng tôi thu thập kết quả của 433 người.

Quy trình tiến hành
Bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu sẽ được
đánh giá chức năng nhận thức bằng thang tầm
soát tâm thần thu gọn MMSE(5) (Mini Mental
Statement Examination), được xem là bất thường
khi MMSE <24 điểm (bệnh nhân biết chữ)(7), hoặc
< 18 điểm (bệnh nhân mù chữ)(1,3) và bảng đánh
giá khả năng độc lập trong cuộc sống hằng ngày
IADL (instrumental activities of daily living) với
hạn chế từ 1 hoạt động IADL được xem là
bất thường(2,4).
Chẩn đoán sa sút trí tuệ theo tiêu
chuẩn DSM-V.

Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng
phần mềm SPSS phiên bản 20.0.


185


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Dùng phép kiểm T-test, phép kiểm χ² để tìm
mối liên quan giữa SSTT với các yếu tố: tuổi,
giới, học vấn, thời gian nằm viện, nguyên nhân
nhập viện.

Bảng 2: Mối liên quan giữa SSTT và nguyên nhân
nhập viện

Giá trị p<0.05 được xem là có ý nghĩa
thống kê.

Viêm phổi
Rối loạn nước và
16 (10,2)
điện giải
Đau thắt ngực 10(6,4)
Nhiễm trùng tiểu 8(5,1)
Đau lưng
6(3,8)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 433 bệnh nhân tham gia nghiên cứu.


Đặc điểm dân số
Tuổi trung bình là 78,06 ± 8,92 tuổi, trong đó,
nữ giới chiếm 71,4%, tỉ lệ mù chữ là 36,4%. Thời
gian nằm viện trung bình là 11,86 ± 6,7 ngày. Các
nguyên nhân nhập viện hàng đầu ở bệnh nhân
cao tuổi là viêm phổi (50,3%), rối loạn nước và
điện giải (11%), đau thắt ngực(7,4%), nhiễm
trùng tiểu(4,6%).

Tỉ lệ mắc SSTT

Nguyên nhân
nhập viện

Không
SSTT
p
OR
(276)
79(50,3) 98(35,5) 0,003 1,84(1,24-2,74)
SSTT
(157)

14 (5,07) 0,043 2,1 (1,04-4,62)
21(7,6) 0,631 1,20(0,58-2,47)
12(4,3) 0,722 0,85(0,36-2,04)
21(7,6) 0,117 1,99(0,82-4,83)

Tỉ lệ nhập viện vì viêm phổi, rối loạn nước
và điện giải ở nhóm bệnh nhân SSTT cao hơn

nhóm bệnh nhân không SSTT, p<0,05.
Bảng 3: Mối liên quan giữa SSTT và thời gian nằm
viện
Thời gian
nằm viện
Dài nhất
Ngắn nhất
Trung bình

SSTT (ngày)
38
2
14,21 ± 7,7

Không SSTT
(ngày)
17
2
10,53 ± 5,6

p

<0,001

Tỉ lệ SSTT là 36,3%, trong đó, chỉ có 7% (11
trường hợp) đã được chẩn đoán và đang điều
trị SSTT.

Thời gian nằm viện của nhóm bệnh nhân
SSTT dài hơn nhóm bệnh nhân không SSTT là 4

ngày, p<0,001.

Các yếu tố liên quan đến SSTT

BÀN LUẬN

Bảng 1: Mối liên quan giữa SSTT và các yếu tố dịch
tễ

Tỉ lệ SSTT

Nhóm tuổi

SSTT n(%)

Không SSTT
n(%)
Tuổi trung bình 82,13±7,56 tuổi 75,74± 8,91
tuổi
60-69(75)
10 (13,3)
65 (86,7)
70-79(164)

43(26,2)

< 0,001

121 (73,8)


80-89(150)

81(54)

69(46)

≥90(44)

23(52,3)

21(47,7)

nam

52(41,9)

72(58,1)

Nữ

105(33,9)

204(66,1)

Trình độ Biết
học vấn chữ

chữ

70(25,5)


204(74,5)

87(54,7)

72(45,2)

Giới

p

0,12
< 0,001

Tuổi càng cao thì tỉ lệ mắc SSTT càng tăng.
Bệnh nhân từ 80 tuổi trở lên có tỉ lệ mắc SSTT
trên 50%. Tỉ lệ mắc SSTT ở nam (41,9%) cao hơn
ở nữ (33,9%), sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Bệnh nhân mù chữ mắc SSTT
cao hơn bệnh nhân biết chữ, p<0,001.

186

Tỉ lệ mắc SSTT ở bệnh nhân cao tuổi nằm
viện là 36,3%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn khi so sánh với nghiên cứu của Trần
Công Thắng là 51,94%(10). Điều này có thể giải
thích do đối tượng nghiên cứu của tác giả là
nhóm bệnh nhân cao tuổi mắc đái tháo đường,
và phải nhập viện vì kiểm soát đường huyết

không tốt, đây là một yếu tố nguy cơ của SSTT.
Tỉ lệ SSTT ở bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên là
38,4%, tương tự với kết quả nghiên cứu của
Marengoni tiến hành tại đơn vị chăm sóc Lão
khoa tại Ý, trên đối tượng bệnh nhân từ 65
tuổi trở lên là 38,9%. Tuy nhiên, nghiên cứu
của chúng tôi ghi nhận chỉ có 7% trường hợp
đã được chẩn đoán SSTT trước đó, thấp hơn
rất nhiều tỉ lệ 19,5% bệnh nhân đã được chẩn
đoán SSTT của tác giả. Điều này cho thấy SSTT
hiện chưa được quan tâm đúng mức trên
người cao tuổi, sẽ bỏ sót nhiều trường hợp

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
mắc SSTT. Việc chẩn đoán SSTT phụ thuộc
nhiều vào bác sĩ lâm sàng có nghi ngờ hay
không để tiến hành tầm soát.

Các yếu tố dịch tễ liên quan đến SSTT
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tuổi
càng cao thì tỉ lệ mắc SSTT càng tăng. Cứ mỗi 10
năm, tỉ lệ này tăng lên gấp đôi, và hơn ½ bệnh
nhân bị SSTT là ở nhóm đại lão. SSTT không có
mối liên quan với giới tính, nhận định này tương
tự với nghiên cứu Rottetdam, tỉ lệ mắc SSTT ở
nam và nữ khác nhau không có ý nghĩa thống
kê, RR=1, CI 95% là 0,8- 1,24. Tuy nhiên, khi phân

chia dưới nhóm SSTT như bệnh Alzheimer và
SSTT mạch máu lại cho kết quả khác nhau có ý
nghĩa thống kê. Nghiên cứu của chúng tôi một
lần nữa khẳng định mối liên quan giữa SSTT và
trình độ học vấn. Tỉ lệ SSTT cao ở nhóm mù chữ
có thể giài thích do dự trữ nhận thức thấp, kiểm
soát kém các yếu tố nguy cơ mạch máu, gặp khó
khăn trong quá trình đánh giá nhận thức.

Mối liên quan giữa SSTT và nguyên nhân
nhập viện
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy bệnh
nhân SSTT nhập viện vì viêm phổi chiếm hơn
50%, cao hơn so với nhóm không SSTT là 35,5%,
p<0,05. Kết quả này tương tự với Samspon, tỉ lệ
bệnh nhân SSTT nhập viện vì viêm phổi là
23,8%, cao hơn so với 8,2% ở nhóm không SSTT,
p<0,05(8). Tương tự, nghiên cứu của Torian cho
thấy 41,1% bệnh nhân nhập viện vì viêm phổi
mắc SSTT, tỉ lệ này ở nhóm bệnh nhân không
SSTT là 13,2%, p= 0,015(9). Suy yếu hệ thống miễn
dịch làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý nhiễm
trùng ở NCT. Đặc biệt, ở bệnh nhân SSTT, nguy
cơ này càng cao hơn. Thứ nhất, bệnh nhân SSTT
tiếp xúc nhiều hơn các tác nhân do chịu ảnh
hưởng các yếu tố như giảm vận động, thiếu
nước, hạn chế hoạt động chức năng…Thứ hai,
bệnh nhân SSTT có xu hướng giảm hay trì hoãn
các hành vi tìm kiếm trợ giúp vì chậm phát hiện
các triệu chứng bệnh hay hạn chế trong kỹ năng

giao tiếp. và hậu quả là, bệnh nhiễm trùng sẽ
không được chẩn đoán ở bệnh nhân SSTT cho

Thần kinh

Nghiên cứu Y học

đến khi triệu chứng bệnh trầm trọng hoặc xảy ra
các triệu chứng như mê sảng, sẽ gây nhầm lẫn
cho người chăm sóc và nhân viên y tế, xem đó là
một triệu chứng của bệnh SSTT hơn là đi tìm
nguyên nhân thúc đẩy tình trạng này.
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tỉ lệ
nhập viện vì rối loạn nước và điện giải (mất
nước, hạ Natri, tăng Natri, tăng Kali máu) ở
nhóm SSTT cao hơn ở nhóm không SSTT (10,2%
so với 5,7%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của tác giả Natalwala cũng nhận
định tương tự, tỉ lệ này ở nhóm SSTT là 3,08%,
cao hơn nhiều nhóm không SSTT là 0,3%,
p<0,001(9). Giải thích cho lí do tại sao bệnh nhân
SSTT lại có nguy cơ nhập viện vì rối loạn nước
và điện giải nhiều hơn, câu trả lời có liên quan
đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Bệnh nhân
SSTT giảm khả năng cảm nhận đói và khát, giảm
nhạy cảm mùi vị và cần trợ giúp trong việc tự ăn
uống, do đó, tăng tỉ lệ mất nước, hạ Natri. Điều
này đòi hỏi cần có những chương trình giáo dục
dinh dưỡng cho bệnh nhân SSTT. Ngược lại, rối
loạn nước và điện giải làm nặng thêm tình trạng

SSTT, tăng nguy cơ té ngã và nhiễm trùng.
Kết quả của chúng tôi chưa tìm thấy mối liên
quan giữa SSTT và nhiễm trùng tiểu. Trái ngược
với chúng tôi, các nghiên cứu trên thế giới đều
ghi nhận sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê tỉ
lệ nhập viện vì nhiễm trùng tiểu ở nhóm bệnh
nhân SSTT là cao hơn nhóm không SSTT(7,8). Sự
khác biệt này có thể giải thích do trong nghiên
cứu của chúng tôi, số lượng bệnh nhân nhập
viện vì nhiễm trùng tiểu chiếm tỉ lệ thấp nên
chưa có tính đại diện.
Nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy
mối liên quan giữa SSTT và các nguyên nhân
nhập viện thường gặp khác như đau thắt
ngưc, đau lưng. Kết quả này cũng tương tự
với các nghiên cứu khác(7,9).

Mối liên quan giữa SSTT và thời gian
nằm viện
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy SSTT
làm kéo dài thời gian nằm viện, p < 0,001,

187


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

nhận định này tương tự nghiên cứu của

Lyketsos Samspon(3,8). Lý do của việc kéo dài
thời gian nằm viện ở bệnh nhân SSTT vẫn
chưa rõ ràng, nhiều nghiên cứu cho thấy có
mối liên quan giữa SSTT và hạn chế hoạt động
chức năng, tăng nguy cơ sảng và cần nhiều
thời gian hồi phục bệnh cấp hơn, ngoài ra,
bệnh nhân SSTT thường được trì hoãn xuất
viện vì khó khăn trong việc đánh giá thời
điểm an toàn thích hợp để xuất viện.

KẾT LUẬN
SSTT là bệnh thường gặp ở bệnh nhân cao
tuổi nằm viện tại khoa Lão bệnh viện Nhân Dân
Gia Định, với tỉ lệ hiện mắc là 36,3%, tuy nhiên,

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

chỉ có 7% bệnh nhân đã được chẩn đoán. Do đó,


9.

cần

10.

tiến hành tầm soát SSTT ở bệnh nhân cao

tuổi điều trị nội trú tại khoa Lão. Chúng tôi tìm
thấy mối liên quan giữa SSTT với tuổi, trình độ
học vấn. SSTT cũng làm kéo dài thêm thời gian
nằm viện, tăng nguy cơ nhập viện vì viêm phổi,
rối loạn nước và điện giải.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Aprahamian I, Martinelli JE, Cecato J, Yassuda MS
(2011),”Screening for Alzheimer's disease among illiterate
elderly: accuracy analysis for multiple instruments", J
Alzheimers Dis. 26(2), tr. 221-9.

188

11.

Lawton MP và Brody EM (1969),”Assessment of older people:
self-maintaining and instrumental activities of daily living",
Gerontologist. 9 (3), tr. 179-86.

Lyketsos CG, Sheppard JM và Rabins PV (2000),”Dementia in
elderly persons in a general hospital", Am J Psychiatry. 157(5), tr.
704-7.
Maslow K. (2004),”Dementia and serious coexisting medical
conditions: A double whammy", Nursing Clinics of North
America. 39(3), tr. 561-79.
Mitchell AJ (2009),”A meta-analysis of the accuracy of the minimental state examination in the detection of dementia and mild
cognitive impairment.", J Psychiatr Res. 43(4), tr. 411-31.
Mukadam N và Sampson EL (2011),”A systematic review of
the prevalence, associations and outcomes of dementia in older
general hospital inpatients", Int Psychogeriatrics. 23(3), tr. 344-55
Natalwala A, Potluri R, Uppal H, Heun R (2008),”Reasons for
Hospital Admissions in Dementia Patients in Birmingham, UK,
during 2002–2007”, Dement Geriatr Cogn Disord. 26, tr. 499-505
Sampson EL và Blanchard MR (2009),”Dementia in the acute
hospital: prospective cohort study of prevalence and mortality",
Br J Psychiatry 195(1), tr. 61-6.
Torian L and et al (1992),”The effect of dementia on acute care
in a geriatric medical unit", Int Psychogeriatrics. 4(2), tr. 231-9.
Trần Công Thắng và Tống Mai Trang (2011),”Khảo sát thay đổi
trí nhớ và suy giảm nhận thức trên bệnh nhân đái tháo đường",
Tạp chí y học. 15(2), tr. 81-83
Võ Văn Tỵ và Trần Mạnh Hùng (2012),”Khảo sát mô hình bệnh
tật và tử vong tại bệnh viện Thống Nhất năm 2010", Nghiên cứu
Y học. 16(Phụ bản của Số 1), tr. 11-6.

Ngày nhận bài báo:

18/11/2016


Ngày phản biện nhận xét bài báo:

15/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017

Chuyên Đề Nội Khoa



×