MỞ ĐẦU
Gạo tám xoan Hải Hậu là một sản phẩm truyền thống, đặc thù của
vùng sản xuất lúa nước thuộc đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, hiện nay
chất lượng gạo tám xoan Hải Hậu bị suy giảm do quá trình phát triển của
giống lúa qua một thời gian quá dài. Mặc dù từ năm 2003, nhóm nghiên cứu
của Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam trước kia, nay là Viện
Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn đã có những sự
trợ giúp nhằm phục hồi lại giống lúa tám, duy trì quy trình kỹ thuật sản xuất
truyền thống, tổ chức nông dân nhưng diện tích lúa tám xoan cũng mới chỉ đạt
đến 12% vào năm 2006. Ngoài ra những khó khăn của thị trường, quy hoạch
vùng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là những đòi hỏi mà huỵện
Hải Hậu nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung cần sự trợ giúp của các cơ
quan, tổ chức trong thời gian tới.
Xây dựng CDĐL ”Hải Hậu” cho sản phẩm gạo tám xoan có đặc thù
riêng so với các sản phẩm khác của Việt Nam, quá trình xây dựng được tiến
hành từ dưới lên, nghĩa là tổ chức nông dân tiến hành những hoạt động sản
xuất, quản lý chất lượng sau đó mới tiến hành đăng bạ. Vì thế, từ tháng
5/2007 thời điểm sản phẩm gạo tám được đăng bạ CDĐL đến nay, hệ thống
quản lý và sử dụng vẫn chưa được triển khai và đưa vào vận hành.
Cũng như nhiều địa phương khác, Nam Định cũng đang gặp phải những
khó khăn về quy trình, cách thức tổ chức của hệ thống quản lý và sử dụng
CDĐL. Từ thực tế đó, dự án “Quản lý và phát triển CDĐL ‘Hải Hậu’ cho sản
phẩm gạo tám xoan” được triển khai đã giúp cho Hải Hậu nói riêng và Nam
Định nói chung có được những sự hỗ trợ tích cực về mặt quản lý sản xuất,
chất lượng sản phẩm và phát triển thị trường, góp phần quan trọng trong sự
duy trì và phát triển ổn định một vùng sản xuất lúa truyền thống.
1
PHẦN III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN
III.1. Tổng quan về sản phẩm gạo tám xoan
Với mục tiêu tìm hiểu thực trạng sản xuất, tính đặc thù về tự nhiên,
con người và kỹ năng thực hành truyền thống trong sản xuất, kinh doanh sản
phẩm gạo tám xoan ở huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định; Xác định được các loại
đất trồng lúa tám có chất lượng cao nhằm khuyến cáo phục vụ cho việc phát
triển và quản lý sản xuất lúa tám ở địa phương; Tìm ra hướng giải pháp trong
việc duy trì và phát triển sản xuất lúa tám xoan của huyện Hải Hậu tỉnh
Nam Định. Từ đó xây dựng cơ sở khoa học cho các đề xuất liên quan đến
công tác quản lý, sử dụng và khai thác CDĐL “Hải Hậu” cho gạo tám xoan
trên thị trường. Đơn vị thực hiện đã tiến hành điều tra 90 hộ, trong đó có 51
hộ trong Hiệp hội và 39 hộ ngoài Hiệp hội. Các hộ được lựa chọn điều tra
theo phương pháp lấy xác suất ngẫu nhiên trên địa bàn 5 xã thuộc vùng mục
tiêu sản xuất lúa tám xoan của huyện Hải Hậu là Hải Anh, Hải Đường, Hải
Phong, Hải Toàn và Hải An. Đây cũng là các xã có các hội viên thuộc sự quản
lý của Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu. Ngoài ra còn phỏng vấn các chuyên
gia trong lĩnh vực thổ nhưỡng, giống cây trồng, các lão nông chi điền về các
đặc tính đặc thù của sản phẩm.
III.1.1.Tính đặc thù của lúa tám xoan Hải Hậu
Trên cơ sở sưu tập các giống lúa tám lưu truyền trong dân, các tài liệu
ghi chép lại trước đây về đặc tính lúa tám xoan Hải Hậu. Thông qua hội thảo
của các nhà khoa học, các lão nông chi điền và chính quyền địa phương được
tiến hành vào năm 2003 2004, từ năm 2006 đến 2009 RUDEC kết hợp với
Trung tâm hệ thống cây nông nghiệp Viện cây lương thực và cây thực phẩm
đã tiến hành phục tráng, theo dõi và tổng hợp các biểu hiện đặc trưng của
2
giống lúa tám xoan Hải Hậu được mô tả bằng 37 tính trạng cảm quan sử
dụng để phân biệt với các giống lúa khác trong bảng 1:
Bảng 1: Các tính trạng đặc trưng của lúa tám xoan Hải Hậu
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
qua các giai đoạn
Giai đoạn
Tính trạng
10
40
40
40
40
40
40
5060
5060
Mức độ biểu
hiện
Xanh
Tím nhạt
Xanh trung bình
Trung bình
Không có
Có
Xẻ
Dài:35,5 – 45 cm
Trung bình: 12 cm
6090
Nửa thẳng
(ngày)
Lá mầm: Màu
Lá gốc (lá dưới cùng)
Lá: Mức độ xanh
Lá: Lông ở phiến lá
Lá: tai lá
Thìa lìa
Lá: hình dạng thìa lìa
Lá: Chiều dài phiến lá
Lá: chiều rộng phiến lá
Lá đòng: trạng thái phiến lá
(quan sát sớm)
Khóm: Gốc thân ( thế cây)
Thời gian trỗ: (50% số cây
40
55
có bông trỗ)
Vỏ trấu: màu sắc (trừ mỏ
hạt)
Hạt thóc: màu của mỏ hạt
Thân: đường kính thân
Thân: chiều cao thân (không
Vàng nâu
8090
65
Vàng
Trung bình: 68mm
17
Bông: Chiều dài trục chính
7290
18
Bông: trạng thái trục chính
90
19
Bông: Số bông / cây
70
20
Bông: trạc ba điểm phân
70
nhánh đầu tiên
3
15/10
6590
70
tính bông)
Đứng: < 300
Muộn (mạnh): sau
Rất cao > 120cm
Trung bình: 26
30cm
Gục xuống
Trung bình (6
bông/khóm)
Có
21
Hạt: Mức độ lông của vỏ
6080
Trung bình
6092
90
90
90
Vẹo
Ít
Xoè
Thoát hoàn toàn
Trung bình: 1,6
22
23
24
25
trấu
Hạt: vẹo đầu
Bông: Mức độ gié thứ cấp
Bông: trạng thái của bông
Bông: thoát cổ bông
26
Mày hạt: Chiều dài
92
27
Mày hạt: màu sắc
Hạt thóc: khối lượng 1000
90
2,5mm
Vàng nhạt
92
Rất thấp < 20g
28
29
hạt
Hạt thóc: sự sắp xếp của
7092
hạt thóc
30
Hạt thóc: chiều dài hạt thóc
92
31
Hạt thóc: màu hạt thóc
92
32
Hạt gạo lật: chiều dài
92
33
34
35
Hạt gạo lật: chiều rộng
Hạt gạo lật: dạng hạt: D/R
Hạt gạo lật: màu sắc
92
92
92
36
Hạt gạo sát: Độ bạc bụng
92
37
Hạt gạo lật: hương thơm
92
Hạt gối liêên tiếp
nhau
Trung bình: 6,51 –
7,6 mm
Nâu cánh gián
Ngắn: 4,51 5,5
mm
Hẹp: <2,5mm
Thon dài: ≥3
Trắng
Không có hoặc rất
nhỏ: <5%
Thơm
(Nguồn: Bản mô tả tính trạng của Trung tâm phát triển nông thôn, 2009)
4
HÌNH DẠNG HẠT THÓC VÀ GẠO GIỐNG LÚA TÁM XOAN
HẢI HẬU QUA CÁC GIAI ĐOẠN
Hình dạng lúa tám xoan được chọn lọc tại địa phương và sản xuất tại Hiệp hội
5
* Các yếu tố tạo nên tính đặc thù của lúa tám xoan, gạo tám xoan và
cơm tám xoan được thể hiện ở hình dáng, màu sắc, mùi, vị và một số đặc
điểm khác được thể hiện ở bảng 2:
Bảng 2: Những đặc thù về cảm quan của gạo tám xoan Hải Hậu
Chỉ tiêu
Hình dáng
Màu sắc
Mùi
Vị
Đặc điểm
khác
Lúa tám xoan
Hạt thóc thưa, nhỏ,
tỷ lệ dài rộng 3,11,
rong lượng 1000
hạt là 18,24g
Gạo tám xoan
Cơm tám xoan
Hạt gạo hơi
Hạt cơm nhỏ dài,
dài, thon nhỏ,
không bị nát
vẹo một đầu
Hạt gạo có Hạt cơm có màu hơi
mầu trong xanh bóng
Ngay khi nấu chín, cơm
Mùi thơm dịu, có mùi thơm đặc trưng,
Mùi thơm đặc
tự nhiên và đặc sau khi nấu 5 6 giờ vẫn
trưng
trưng
giữ được mùi thơm và
cơm không bị khô.
Vị ngọt dịu, đậm (vị
ngọt hậu)
Tỷ lệ từ thóc xay
Hạt gạo chắc,
chế biến thành gạo
đều, không bị Cơm dẻo, giòn
thấp, hạt khó rụng
vỡ khi xay xát
khi tuốt
Màu vàng cánh dán
(Nguồn: Kết quả hội thảo chuyên gia địa phương)
* Phân tích các chỉ tiêu chất lượng về gạo tám xoan được chỉ ra trong
bảng 3:
Bảng 3: Các chỉ tiêu phân tích chất lượng về gạo tám xoan Hải Hậu
Hàm lượng các chất và các đặc
Chỉ tiêu
điểm của gạo
1. Hàm lượng protein tổng số %
2. Hàm lượng tinh bột tổng số %
3. Hàm lượng Amylose tổng số %
4. Nhiệt độ hoá hồ
5. Chiều dài hạt trung bình
6. Chiều rộng hạt trung bình
7. Tỷ lệ dài rộng
8. Hình dạng hạt
9,79
88,43
20,34
Thấp
7,81
2,47
3,11
Thon nhỏ, hơi vẹo một đầu
6
9. Độ bạc bụng
0
Như vậy qua so sánh và phân tích có thể cho thấy:
+ Giống lúa tám xoan là loại giống cổ truyền được sản xuất tại huyện
Hải Hậu cho chất lượng cao nhất so với các loại giống tám khác
+ Chất lượng của lúa tám xoan có sự sai khác cơ bản so với các giống
lúa tám khác trong vùng và các khu vực lân cận
+ Những đặc điểm có thể phân biệt được giống lúa tám xoan với các
giống lúa tám khác được thể hiện khá rõ ràng với các đặc điểm về sinh thái
và hình dạng của cây lúa, sản phẩm thu hoạch
+ Những yếu tố ảnh hưởng đến lúa tám xoan và quyết định đến chất
lượng của lúa tám xoan được khẳng định đó là:
Điều kiện về thời tiết khí hậu: với đặc điểm lúa tám xoan phải được
trồng trong vụ mùa, thời gian vào hạt phải có gió mùa đông bắc, biên độ
chênh lệch ngày và đêm cao
Lúa phải được tưới phù sa ít nhất 14 lần/vụ, đồng thời phải đảm bảo
thoát nước trước 10 ngày trước khi gặt
Yếu tố sản xuất: phải được bón phân chuồng hoặc phân xanh để làm
tăng quá trình trao đổi chất, tăng thêm độ thơm của sản phẩm
III.1.2. Thực trạng sản xuất lúa tám xoan ở Hải Hậu
Lúa tám xoan là sản phẩm mang tính hàng hoá, hầu hết sản phẩm được
sản xuất ra đều được bán đi là chủ yếu, người trồng lúa rất ít khi sử dụng
sản phẩm này vì giá của loại gạo này luôn cao hơn các giống lúa khác.
Theo điều tra của RUDEC, lúa tám xoan ngày càng giảm về diện tích,
kéo theo vai trò của lúa tám xoan cũng giảm đi trong cơ cấu thu nhập của các
hộ nông dân. Trong số các hộ tham gia trồng lúa tám được điều tra, cơ cấu
đóng góp vào thu nhập của các hộ rất nhỏ (năm 2008 là 7.39%) trong khi số
hộ trồng lúa tám xoan chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 4% dân số, vậy lúa tám xoan chỉ
đóng vai trò rất nhỏ trong cơ cấu thu nhập của huyện Hải Hậu.
7
Năm 2000 diện tích lúa tám xoan chiếm 14%, năm 2005 chiếm 5%, năm
2008 là 4.3% và năm 2009 chỉ còn 4% trong cơ cấu diện tích lúa của huyện
Hải Hậu. Sự giảm sút về diện tích lúa tám xoan có 4 nguyên nhân chính đó là:
Thứ nhất: Phương thức canh tác thay đổi: Hải Hậu với đặc thù là vùng
đồng bằng chiêm trũng ven biển rất phù hợp cho cây lúa tám xoan phát triển.
Trước đây, sản xuất nông nghiệp ở Hải Hậu chủ yếu mang tính quảng canh,
năng suất thấp, tận dụng sự phì nhiêu của đất có được nhờ được hệ thống
sông ngòi bồi đắp hàng năm. Trong điều kiện đó, giống lúa tám xoan có tính
thích phổ rộng, cho chất lượng cao và được người dân địa phương coi là cây
trồng chủ lực vào vụ lúa mùa (năm 1993: lúa tám chiếm 60%/ vụ mùa). Bắt
đầu từ những năm 2000 sản xuất nông nghiệp đã chuyển dần theo hướng
thâm canh, tăng năng suất trong khi năng suất lúa tám xoan có giới hạn thấp.
Thứ hai: Chất lượng gạo tám xoan Hải Hậu bị suy giảm do người dân lưu
truyền trong quá trình lịch sử lâu đời, các kỹ thuật chọn lọc giống được thực hiện
theo phương pháp truyền thống theo hướng năng suất, không quan tâm đến nâng
cao chất lượng sản phẩm, làm cho giống lúa tám xoan đã bị thoái hoá và giảm dần
về chất lượng. Từ năm 2003 đến nay, chính quyền địa phương kết hợp với các
nhà khoa học thuộc Viện khoa học nông nghiệp trước đây, nay là Trung tâm phát
triển nông thôn – Viện Chính sách và chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn
đã tiến hành cải tạo và phục hồi lại chất lượng. Tuy nhiên, chất lượng gạo tám
xoan thực tế vẫn chưa được khẳng định vì nhiều nguyên nhân tác động.
Thứ ba: Hiệu quả kinh tế không cao: những năm gần đây, do thời tiết
bất lợi, năng suất lúa tám xoan rất thấp (70 – 80kg/sào), trong khi giá cả của
gạo tám xoan chưa có sự chênh lệch lớn so với các sản phẩm gạo khác do
trên thị trường có sự lẫn lộn và pha trộn vì thế gạo tám xoan đang dần mất đi
thị trường và mất lòng tin của người tiêu dùng.
Thứ tư: Chuyển dịch cơ cấu cây trồng bất lợi cho sản xuất lúa tám
xoan : Sản xuất nông nghiệp của địa phương có xu hướng chuyển biến mạnh
về cơ cấu, nhiều diện tích được chuyển sang trồng cây vụ đông, trong khi đó
8
lúa tám xoan là một giống lúa dài ngày nên việc bố trí cơ cấu mùa vụ có
những bất cập cho sự phát triển của sản xuất.
Vụ mùa năm 2009 đánh dấu một tín hiệu đáng mừng cho sản xuất và
kinh doanh gạo tám xoan. Với năng suất bình quân toàn bộ diện tích lúa tám
xoan năm 2009 đạt 105 kg/sào, chất lượng gạo thơm ngon, giá cả trên thị
trường có sự chênh lệch lớn so với các giống lúa khác là những thông tin tích
cực cho sản phẩm gạo tám xoan mang CDĐL :
Năm 2009, toàn huyện Hải Hậu ước tính có khoảng 90ha lúa tám.
Trong đó có 65ha trồng lúa tám xoan theo giống của Hiệp hội gạo tám xoan
Hải Hậu đã được chọn lọc, 25ha còn lại là các hộ trồng các giống lúa tám
tiêu, tám cổ ngỗng.... Các hộ sử dụng giống lúa tám xoan có năng suất bình
quân đạt 105kg/1sào, đặc biệt có một số hộ canh tác tốt, đúng kỹ thuật năng
suất đạt 130 kg/sào tương đương với năng suất của các giống lúa khác (bắc
thơm số 7 năng suất trung bình 110kg/sào) trong khi năng suất thấp hơn 5% so
với bắc thơm thì giá lúa tám xoan cao hơn 66% (giá lúa tám xoan12.000đ/kg so
với 7.200đ/kg của bắc thơm). Đây là một động lực quan trọng cho việc tăng
quy mô sản xuất lúa tám xoan trong thời gian tới.
III.1.3. Nhu cầu sản xuất lúa tám xoan
Để tiến hành điều tra thu thập thông tin đơn vị thực hiện đã lựa chọn
nhóm hộ sản xuất lúa tám xoan ở 5 xã trọng điểm trong vùng quy hoạch của
huyện là xã Hải Anh, Hải Đường, Hải Phong, Hải Toàn và Hải An. 5 xã
trọng điểm này chiếm diện tích gần 80% diện tích trồng lúa tám xoan còn lại
trên địa bàn huyện Hải Hậu.
Các hộ được lựa chọn được phân theo tiêu chí sản xuất lúa tám xoan và
tham gia hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu; Sản xuất lúa tám xoan và không
tham gia hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu.
Trong các hộ tham gia hiệp hội: có những hộ đã tham gia hiệp hội trong
nhiều năm (thuộc xã Hải Đường, Hải Toàn, Hải Phong, Hải Anh) và có các
9
hộ thuộc những xã chỉ mới tham gia vào Hiệp hội trong năm 2008 (Hải An).
Nhưng chung quy lại đó đều là những hộ đã có truyền thống trồng lúa tám
xoan từ lâu đời trên địa bàn huyện Hải Hậu. Việc lựa chọn mẫu điều tra trên
đây mang tính đại diện cho các nhóm hộ điều tra và so sánh. Kết quả điều tra
được tổng hợp theo các nội dung sau: (có báo cáo chuyên đề kèm theo)
Trình độ văn hoá của chủ hộ
Tình trạng kinh tế của các nhóm hộ điều tra
Tình hình lao động của các hộ điều tra
Tình hình đất đai của các nhóm hộ điều tra
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sản xuất lúa tám xoan của
người dân
Điều kiện về tư liệu phục vụ sản xuất
Mức độ áp dụng các tiến bộ khoa học được triển khai vào sản xuất
Những thay đổi trong cơ cấu đầu tư sản xuất lúa tám xoan
Qua quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy:
Yếu tố dễ canh tác là quan trọng nhất trong việc lựa chọn cây trồng
lúa tám xoan. Đối với một số diện tích đất trũng thuộc xã Hải Đường, Hải
Toàn và Hải Phong, việc lựa chọn cây lúa tám xoan là một lựa chọn quan
trọng đối với nông dân. Lấy diện tích vùng xóm 45 của xã Hải Đường làm ví
dụ: Đây là vùng trũng, thường bị ngập nước vào tháng 7 8 âm lịch, với các
giống ngắn ngày, đây là thời điểm lúa phơi mào, vào hạt việc chuyển đổi
sang giống này rất khó, năng suất thấp, nên việc lựa chọn giống lúa tám xoan
là giải pháp khó thay thế.
Hiệu quả kinh tế đang có chiều hướng được nâng cao: Việc giảm sút
về diện tích kéo theo sự giảm sút về sản lượng gạo tám xoan cung cấp ra thị
trường. Điều này khiến cho giá cả mặt hàng gạo tám xoan Hải Hậu có xu
hướng tăng lên tỷ lệ thuận trong những năm gần đây. Mặt khác các hộ có
nhiều kinh nghiệm trồng lúa tám xoan, thực hiện đúng các yêu cầu kỹ thuật
10
vẫn đảm bảo được năng suất khá ổn định. Đây là một động lực quan trọng
cho các hộ tiếp tục gắn bó với cây lúa tám xoan. Là một dấu hiệu tích cực
cho việc phát triển cây lúa tám xoan.
Ngoài ra, yếu tố truyền thống cũng là một nhân tố quan trọng khiến các
hộ nông dân tại Hải Hậu vấn gắn bó với cây lúa tám xoan. Nhiều hộ gia đình
cho rằng: Hàng năm dù ít hay nhiều, gia đình tại Hải Hậu cũng cần có một ít
gạo tám xoan để cúng lúa mới cho tổ tiên, ông bà. Hơn nữa, dịp lễ tết người Hải
Hậu có con cái đi xa rất cần một ít gạo tám xoan làm quà quê hương nên các hộ
gia đình vẫn duy trì sản xuất lúa tám xoan xoan với quy mô nhỏ.
Mặc dù quy trình kỹ thuật chuẩn cho sản xuất lúa tám xoan đã được
xây dựng có chất lượng. Tuy nhiên, qua quá trình khảo sát chúng tôi nhận
thấy mức độ tuân thủ các quy trình kỹ thuật này chỉ mang tích chất tương đối
vì nhiều lý do.
Ở mỗi chân ruộng khác nhau có nhu cầu về giống, đạm, lân, kali và
phân chuồng khác nhau. Các hộ phải có mức điều chỉnh cho phù hợp theo kinh
nghiệm nhiều năm sản xuất trên diện tích đó. Các khâu chăm sóc, phun thuốc,
... thường do các hộ tự chủ động thực hiện. Những thông báo của Hiệp hội
chỉ mang tính định hướng, đại trà... rất khó cho các hộ trong việc tuân thủ các
tiêu chí đề ra.
Việc tuân thủ các quy trình kỹ thuật khắt khe theo đúng tiêu chuẩn đề
ra từ khâu làm đất, gieo mạ, bón phân, cấy và chăm sóc, thu hoạch đến phơi
và đóng bao. Quá trình này đòi hỏi nhiều thời gian, gò bó về mặt tổ chức và
chịu sự giám sát của Hiệp hội. Trong thời điểm mùa vụ, khi bắt đầu vụ cấy
lúa tám xoan là thời điểm giá công lao động cao, lực lượng lao động ít, cộng
với thói quen làm việc tự do của các hộ nông dân khiến cho việc thực hiện
quy trình kỹ thuật rất khó khăn. Đặc biệt là việc bón phân chuồng tốn nhiều
công lao động nên việc bón phân đầy đủ chưa được thực hiện trong thời gian
qua, đặc biệt với các hộ có ít lao động. Trong khi việc đảm bảo đủ khối
11
lượng phân chuồng là nhân tố quan trọng quyết định chất lương gạo tám
xoan.
Chi phí cho hoạt động giám sát lớn: Vì các hộ nông dân thường quen
với lối làm việc tự do và thiếu tính kỹ luật. Do vậy ý thức chấp hành trong
việc sản xuất kém. Để đảm bảo việc thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật, đảm
bảo chất lượng sản phẩm Hiệp hội phải có đội ngũ giám sát đến tận cơ sở,
theo dõi tất cả các hộ thực hiện việc tuân thủ các quy trình kỹ thuật. Trong
khi các thành viên này chủ yếu là nông dân, phần thu nhập mà họ được nhận
từ việc thực hiện nhiệm vụ không đủ bù đắp phần lao động phải thuê cho
hoạt động sản xuất của gia đình để bù phần thiếu hụt do phải dành thời gian
cho công việc giám sát. Chính vì vậy chi phí giám sát sẽ rất lớn nếu muốn
duy trì hệ thống này.
Hiệu quả kinh tế không khác biệt lớn giữa các hộ thực hiện đúng yêu
cầu kỹ thuật với các hộ không thực hiện đúng: Điều này là kết quả tác động
do nhiều yếu tố. Trước hết là do các hộ nông dân không nghiêm túc trong
việc chấp hành các tiêu chuẩn bắt buộc trong quá trình sản xuất, do đó sản
phẩm sản xuất ra thiếu sự đồng đều và không đảm bảo về mặt chất lượng.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân rất quan trọng nữa là do hoạt động chế biến,
thương mại gạo tám xoan còn hạn chế, chưa tạo ra sự khác biệt về chất
lượng, mẫu mã, chưa xây dựng được kênh tiêu thụ ổn định. Giá bán sản
phẩm ở mức thấp, giá thu mua thóc của các nông dân thấp, hiệu quả kinh tế
sản xuất lúa tám đúng tiêu chuẩn kỹ thuật không mang lại hiệu quả kinh tế
như mong đợi. Đây là nguyên nhân khiến các hộ thiếu động lực trong việc
chấp hành các tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất lúa tám xoan.
III.1.4. Các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng gạo tám xoan
Theo kết quả khảo sát về các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng gạo
tám xoan cho thấy:
Bảng 4: Ý kiến đánh giá về các yếu tố hạn chế trong canh tác lúa tám
12
xoan
Yếu tố hạn chế
% ý kiến trả lời
92
88
75
75
67
56
1. Giống
2. Gặt non (8/10 phần)
3. Nước tưới phù xa
4. Thiếu phân chuồng
5. Lạm dụng quá lượng đạm
6. Đất đai (mặn, chua, quá trũng)
Nguồn: Điều tra RUDEC năm 2009
+ Các khâu canh tác ảnh hưởng đến chất lượng gạo tám xoan tại địa
phương (xếp theo mức độ quan trọng):
Giống;
Thời điểm thu hoạch (cần thu non và yếu tố thời tiết);
Nước tưới;
Biện pháp chăm sóc (thiếu phân chuồng) và phun thuốc BVTV trong
giai đoạn lúa trỗ bông;
Lạm dụng đạm bón;
Chất lượng đất đai canh tác lúa tám xoan.
+ Để bảo đảm chất lượng gạo tám xoan thơm ngon, hạt gạo trong,
đẹp, thời gian thu hoạch tốt nhất là 25 – 30 ngày sau trỗ (chín 8 phần). Hiện
nay vì muốn đạt năng suất cao nông dân thu hoạch ở 3035 ngày sau trỗ là quá
muộn. Tuy nhiên, thu hoạch non năng suất có thể giảm 15%20%.
+ Nước tưới cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất chất
lượng lúa tám xoan. Để có được năng suất chất lượng, ruộng lúa tám xoan
cần được tưới tối thiểu 14 lần nước phù sa và được tưới trực tiếp theo hệ
thống tưới bằng trọng lực. Và khi lúa tám xoan vào mẩy ở giai đoạn cuối cần
phơi khô ruộngráo gốc (rút nước ở ruộng ngày thứ 10 sau trỗ là tốt nhất),
vào thời điểm lúa vào hạt cần có gió mùa đông bắc, biên độ chênh lệch về
13
nhiệt độ ngày đêm ở mức độ cao nhằm làm cho lúa chín chậm tạo lên mùi
thơm của gạo, tránh lúa đổ, bông bị ngâm trong nước mất hương, năng suất
giảm.
+ Cuối cùng chất lượng lúa tám xoan giảm còn có nguyên nhân là hiện
nay nông dân hầu như không bón phân chuồng vì lí do:
Phân lợn dùng cho bioga là chủ yếu;
Thời vụ gấp trong vụ mùa nông dân không có đủ thời gian để tải phân
ra ruộng;
Bón phân chuồng thóc đẹp nhưng không kinh tế bởi giá thóc không
chênh lệch nhiều so với không bón. Thay vào đó nông dân sử dụng quá nhiều
đạm, trung bình lên đến 5 đến 8 kg urê/sào, cần phải giảm lượng phân này.
III.1.5. Phân vùng đất trồng lúa tám xoan thích hợp ở Hải Hậu.
Xác định loại đất và vùng đất canh tác lúa tám xoan thích hợp có ý nghĩa
quan trọng không chỉ đối với việc xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác lúa
tám mà còn quan trong đặc biệt với việc phát triển sản xuất sản phẩm đặc
sản lúa tám xoan Hải Hậu sau này. Dựa trên kết quả xác định loại đất và
vùng đất thích hợp này, Hiệp hội sẽ khoanh vùng sản xuất và và xây dựng các
bản đồ giải thửa để theo dõi và quản lí quy trình sản xuất chung của hiệp
hội.
Theo ý kiến các chuyên gia địa phương, cùng với quá trình khảo sát và
đánh giá, trong số 35 xã hiện nay của huyện Hải Hậu, có thể sơ bộ phân
thành 3 vùng chính, cụ thể trong bảng 5 như sau:
Bảng 5: Phân vùng sơ bộ các xã trồng lúa tám xoan ở Hải Hậu
Vùng tám xoan Vùng tám xoan
Nội dung
Vùng mở rộng
gốc
hiện nay
1. Số xã trong vùng
12
15
8
2. Diện tích và tỷ lệ% cấy
lúa vụ mùa (ha)
3762.3 (33%)
14
5491.8 (49%)
2027.7 (18%)
3. Tỷ lệ % lúa tám hiện
nay
2.41
24.74
1.83
4. Chất lượng lúa tám theo Chất lượng Chất lượng thơm Chất lượng
đánh giá của người dân thơm ngon.
ngon.
kém hơn.
địa phương.
Nguồn: Kết quả đánh giá, phân vùng của Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam
Các vùng sản xuất lúa tám xoan được đánh giá theo sự dịch chuyển của
hệ thống thuỷ lợi, nó có mối liên hệ chặt chẽ với khả năng cải tạo đất
thường xuyên do được tưới nước phù sa hàng năm. Với 100% ý kiến của
người dân và các chuyên gia tại các hội nghị cho rằng, hệ thống thuỷ lợi đóng
vai trò quan trọng quyết định đến khả năng sản xuất và chất lượng gạo của
từng vùng. Điều đó cho thấy vùng tám xoan gốc và vùng tám xoan hiện nay là
hai khu vực có điều kiện đặc biệt hơn các khu vực khác về hệ thống thuỷ lợi
(ngoài các yếu tố khác như đất đai...). Điều này đã hình thành một sự khác
biệt không chỉ trong huyện mà còn đối với các khu vực lân cận như: Nghĩa
Hưng, Trực Ninh...
Quá trình và đặc điểm phát triển của các vùng lúa tám xoan được tổng
hợp qua những đặc điểm sau:
Vùng tám xoan gốc: Bao gồm 12 xã phía bắc huyện, là vùng canh tác
lúa tám xoan phát triển từ trước thời hợp tác hóa năm 1960. Tổng diện tích lúa
mùa của vùng chiếm đến 33% diện tích toàn huyện. Trong lịch sử, cơ cấu lúa
tám xoan của vùng ở vụ mùa có thể đạt đến 3540% diện tích, nhưng những
năm gần đây khu vực này hầu như không trồng lúa tám xoan cao nưa. Lí do là
vì vùng này hiện nay phát triển lúa tám xoan gặp nhiều khó khăn do bình quân
diện tích đất nông nghiệp/khẩu thấp nhất trong huyện (0.7 đến 0.8 sào/khẩu),
vì thế nông dân tập trung cấy các giống lúa mới cho năng suất cao để lấy
lương thực và phát triển cây vụ đông phụ vụ tiêu dùng của hộ.
15
Vùng tám xoan hiện nay: Đây là vùng lúa tám xoan mới phát triển
mạnh trong khoảng gần 20 năm trở lại đây, liên quan đến 15 xã vùng trung
của huyện, trong đó các xã có các nhiều lúa tám xoan và cho chất lượng thơm
ngon hơn cả đặc biệt phải kể đến 6 xã là Hải Đường, Hải An, Hải Toàn, Hải
Phong, Hải Ninh và Hải Giang. Các xã này hiện có nhiều thuận lợi bởi diện
tích đất canh tác bình quân đầu người khá cao lên đến 1,5 – 1,7 sào/khẩu.
Diện tích cấy lúa mùa của 6 xã này chiếm khoảng 80% diện tích toàn huyện,
trong cơ cấu các giống tám xoan chiếm đến 5% diện tích lúa mùa của vùng
(300ha). Sự phát triển diện tích lúa tám xoan của vùng liên quan chặt chẽ đến
động thái của hệ thống tưới nước phù xa.
Vùng tám xoan mở rộng: Đó là 8 xã nằm ở phía nam và vùng ven biển
của huyện. Đây là những xã đất bị nhiễm mặn nhiều. Diện tích trồng lúa tám
xoan hiện này không đáng kể (khoảng 1,83% bằng chưa đầy 40 ha trong vụ
mùa). Các giống lúa tám trước đây trồng tại khu vực này đa số là giống tám
ngố (tám cổ ngỗng). Giống lúa này theo các chuyên gia địa phương là giống
có khả năng chịu phèn, mặn tốt hơn cả, nhưng chất lượng gạo lại không
thơm ngon như các giống tám xoan, tám thơm... Hiện nay, diện tích trồng lúa
tám tại khu vực này chủ yếu đã chuyển sang giống lúa lai với chu kỳ kênh tác
ngắn và tổ chức cơ cấu cây vụ đông cho vụ thứ 3.
III.1.6. Đất thích hợp cho trồng lúa tám xoan và phân vùng lúa tám
xoan ở Hải Hậu.
Đất trồng lúa tám xoan nên chọn đất tốt, thường là đất phù sa trung tính
có tầng Glây (kí hiệu FLeg), giàu mùn và chất hữu cơ. Đất trồng lúa tám
xoan thích hợp nhất phải có các đặc điểm nông hoá như sau:
Độ chua trung tính, pHkcl từ 6,0 7,0
Thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng:
Tỷ lệ cát: 25% 30%
Limon: 50% 55%
16
Sét:
20% 25%
Bảng 6. Đất thích hợp cho trồng lúa tám xoan
Mức độ thích hợp cho trồng lúa tám
xoan
Đặc điểm loại đất
Đất đặc biệt thích
Đất thích hợp
hợp
Đất phù xa trung tính Đất phù xa trung
Loại đất
ít chua, có tầng Glây, tính ít chua, thịt
thịt trung bình.
trung bình và năng.
Kí hiệu trên bản đồ thổ
FLeg
FLesi
nhưỡng
Địa hình
Vàn, vàn cao
Vàn, vàn cao
Công thức luân canh
2L
2L
TP cơ giới – thịt T.bình, năng d
d, e
trong đó tỷ lệ : cát %
25 30
20 – 25
limon
50 55
50 – 55
sét
20 25
25 – 30
Độ chua pHkcl
6,0 – 6,5
5,5 – 6,5
Độ muối tan
0,20 – 0,30
0,20 – 0,30
Cation trao đổi: Ca++
6,0 – 8,0
5,0 – 6,0
Mg++
3,0
2,0 – 4,0
Na+ , K+
Dung lượng trao đổi (CEC)
đất
11,5 12,5
12,0
sét
22,0 28,0
25,0
Nguồn: Kết quả do Viện KHKT Nông nghiệp, Sở NN&PTNT xây dựng
Nước tưới cho ruộng lúa tám xoan phải là nước phù sa, tốt nhất là
nước phù sa sông Ninh Cơ, cường độ nước tưới tối thiểu là 14 lần/vụ lúa tám
xoan.
Bảng 7: Yêu cầu nước tưới cho lúa tám xoan
Chỉ tiêu
Đơn vị
Cuối vụ
Đầu vụ
pH
8,058
8,158
NO2
mg/l
0,0682
0,1484
NH4
mg/l
2,712
0,1986
Tổng Fe
mg/l
1,1114
0,915
17
Cặn lơ lửng
Ni
Zn
Tổng Cr
Cu
Mn
Hg
As
Pb
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
18
53,4
0,00496
0,00386
0,0091
0,00486
0,01866
0,00082
0,01126
0,0289
64,4
0,00456
0,00356
0,01318
0,00452
0,02546
0,00154
0,00992
0,03472
Bảng 8: Phân vùng sinh thái lúa tám xoan ở huyện Hải Hậu
Loại vùng
I. Vùng rất
thích hợp
Phân bố
Tập trung nhiều ở vùng giữa
của huyện, bao gồm các xã:
Hải An, Hải Toàn, Hải
Phong, Hải Đường và một
phần các xã: Hải Ninh, Hải
Giang, Hải Tân và Hải Sơn
II. Vùng thích
hợp
Vùng I
Vùng II
III. Vùng ít
thích hợp
Phía bắc phân bố ở các xã :
Hải Minh, Hải Anh, Hải
Long, Hải Sơn
Phía nam phân bố nhiều ở
các xã : Hải Ninh, Hải Giang
và một phần Hải Phú
Phân bố các xã như Hải
Châu, Hải Cường, Hải Nam,
Hải Phúc và một phần Hải
Giang, Hải Ninh….
Mô tả
1. Đất canh tác lúa chủ yếu là đất vàn và vàn cao, loại đất phổ biến là đất
phù xa sông Hồng trung tính, thành phần cơ giới thịt trung bình và thịt nặng
có glây.
2. Vùng được tưới phù xa sông Hồng thường xuyên: 14 đến 18 lần/vụ.
3. Đất không nhiếm phèn hay nhiễm mặn, mức độ mặn nhẹ chỉ từ 0.02
0.05%
4. Đất canh tác lúa xa làng ít bị che khuất và ít bị sâu, chuột phá hại.
5. Hệ thống tưới trực tiếp từ sông Ninh Cơ, khả năng tiêu ở mức độ rất
cao
Phân biệt với vùng I bởi sự xuất hiện các địa hình vàn thấp hoặc địa hình
cao, và loại đất phù xa sông Hồng chua nhẹ. Chế độ nước tưới bị cạnh
tranh bởi hệ thống canh tác cây vụ đông.
1. Đất cao có thể bị hạn cuối vụ. , ruộng canh tác gần khu dân cư và bị che
khuất nhiều bởi làng, chuột phá hại nhiều.
2. Chế độ tưới phù xa bị ảnh hưởng do cây sự phát triển các cây trồng vụ
đông.
1. Loại đất phù sa sông Hồng chua nhẹ chiếm đa số.
2. Nhiều đất thấp, lúa dễ bị úng ở cuối vụ.
1. Vùng tập trung nhiều loại đất phù sa sông Hồng từ chua nhẹ đến chua,
2. Đất có thể bị nhiễm phèn, mặn ở cuối vụ
19
IV. Vùng không
Phần còn lại của Huyện
thích hợp
1. Vùng đất cát, ven biển, thành phần cơ giới nhẹ
2. Đất bị ảnh hưởng mặn khá nặng
20
Kết luận
Giống lúa tám xoan là sản phẩm truyền thống của Hải Hậu với những
đặc tính riêng quy định tính chất đặc thù của sản phẩm gạo tám xoan
Hải Hậu: thơm, giòn, dai cơm, ngọt hậu. Đặc tính đó được quyết định
bởi giống, thổ nhưỡng, phân chuồng, thu hoạch lúc lúa chín tám phần và
chế biến bằng phương pháp truyền thống.
Diện tích lúa tám xoan đang giảm đi nghiêm trọng tại huyện Hải Hậu
trong thời gian vừa qua do các nguyên nhân sau:
Hiệu quả kinh tế thấp
Thiếu quy hoạch tập trung trong sản xuất lúa tám xoan
Năng suất thấp
Lúa tám chưa phát huy vai trò đối với cơ cấu thu nhập của địa phương
Lúa tám xoan đang bị cạnh tranh trong cơ cấu sản xuất ở địa phương
Sự cạnh tranh của các giống lúa ngắn ngày về sinh học và hiệu
quả kinh tế
Sự cạnh tranh của cây vụ đông trong sản xuất lúa tám xoan.
Triển vọng cho ngành hàng gạo tám xoan: Năm 2009, năng suất trung
bình tăng lên 50% so với năm 2008 (năng suất TB = 105kg/sào), giá thóc tăng
lên 12.5% (12.500đ/kg), chất lượng gạo được người tiêu dùng đánh giá cao là
những dấu hiệu tích cực cho sự phát triển của sản phẩm đặc sản này trong
thời gian tới.
III.2. Tổng quan về hiệp hội gạo tám xoan
Hiệp hội sản xuất, chế biến và thương mại gạo tám xoan Hải Hậu
(sau đây gọi tắt là Hiệp hội /Hiệp hội gạo tám xoan) được chính thức thành
lập vào ngày 19/10/2004 theo quyết định số 264/QĐ – UB của UBND tỉnh
21
Nam Định. Sau gần 5 năm hoạt động, Hiệp hội đã có gần 300 hội viên tập
hợp thành các nhóm sản xuất nhỏ phân bố trên địa bàn 5 xã với 1 tổ sản xuất
giống 12 tổ sản xuất lúa thương phẩm và 1 tổ chế biến đặt trụ sở tại xóm 14
xã Hải Anh Hải Hậu – Nam Định. Trong quá trình hoạt động, Hiệp hội đã
phối hợp với cơ quan chuyên môn xây dựng và áp dụng các quy trình kỹ thuật
trong tổ chức sản xuất, chế biến và thương mại gạo tám xoan. Năm 2007
Hiệp hội đã đứng ra đăng ký và được Nhà Nước cấp Văn bằng bảo hộ tên
gọi xuất xứ gạo tám xoan Hải Hậu theo quyết định số 385/QĐ – SHTT ngày
31/05/2007 của Cục Sở hữu trí tuệ. Đây là một thành quả đáng ghi nhận cho
những nỗ lực của một tổ chức tiên phong trong quá trình phát triển ngành
hàng nông sản tại Việt Nam.
Đến nay, Hiệp hội đã phát triển thành 42 nhóm nông dân (với 246 hộ
gia đình) hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện và hỗ trợ nhau trong sản xuất
tại năm xã trọng điểm về sản xuất lúa tám xoan của huyện, 42 nhóm nông
dân và một nhóm chế biến đã cơ cấu tổ chức để hình thành 12 chi hội sản
xuất
lúa
tám
xoan,
một chi hội chế biến thương mại trong Hiệp hội. Qua quá trình bầu cử dân
chủ trong Hiệp hội, một ban chấp hành Hiệp hội với 20 thành viên đã được
bầu lên với một chủ tịch và hai phó chủ tịch.
Quá trình phát triển của Hiệp hội là chặng đường vừa xây dựng vừa
điều chỉnh cho phù hợp với môi trường thể chế và điều kiện kinh tế. Do vậy
thực tế còn có nhiều biểu hiện chưa phù hợp như: các quy chế hoạt động của
Hiệp hội chưa được kiện toàn, các thành viên không chấp hành nghiêm chỉnh
các quy định của Hiệp hội, nhiều bộ phận hoạt động thiếu hiệu quả và không
rõ chức trách, không nhạy bén trong khâu nắm bắt thị trường và thiếu kế
hoạch trong việc ra quyết định sản xuất, chế biến và thương mại sản phẩm
gạo tám xoan.
III.2.1. Ban lãnh đạo Hiệp hội
22
Ban lãnh đạo Hiệp hội gồm có 3 thành viên: 1 Chủ tịch Hiệp hội phụ
trách chung, phó chủ tịch phụ trách sản xuất chịu trách nhiệm quản lý sản
xuất và phó chủ tịch phụ trách thương mại chịu trách nhiệm về các hoạt
động chế biến và thương mại. Theo đánh giá của các thành viên ban chấp
hành (ngoài thành viên ban lãnh đạo), chúng tôi nhận thấy:
Về quản lý và chỉ đạo sản xuất: Đây là một thế mạnh của Hiệp hội
nhưng không phát huy được trong quá trình triển khai các hoạt động sản xuất.
Thực chất trong thời gian qua, Hiệp hội đang thể hiện vai trò là một tác nhân
thương mại hơn là vai trò quản lý, giám sát quá trình quản lý nội bộ đối với
sản phẩm mang thương hiệu CDĐL.
Về uy tín với các hội viên: Trong thời gian qua, uy tín của ban lãnh
đạo với các hội viên đã sụt giảm rất nhiều so với trước đây (chỉ 50% cho là
tốt). Các chi hội trưởng đánh giá rằng, trước đây thành viên ban lãnh đạo rất
nhiệt tình trong việc tư vấn, chỉ đạo, động viên, giám sát các hội viên thực
hiện các giai đoạn sản xuất, thu hoạch, thu mua sản phẩm. Nhưng thời gian
gần đây, hoạt động của ban lãnh đạo có xu hướng chững lại. Điều này cũng
là xu hướng tất yếu, bởi khi các hội viên đã nắm được các quy trình kỹ thuật
thì Hiệp hội chỉ quản lý về mặt kết quả, thông qua đánh giá chất lượng sản
phẩm mà Hiệp hội thu mua của các hội viên. Tuy nhiên, ban lãnh đạo cần
giám sát và phát huy vai trò chỉ đạo của các chi hội trưởng, điều này sẽ góp
phần nâng cao chất lượng sản phẩm và gắn chặt mối quan hệ quyền lợi và
nghĩa vụ của các hội viên với Hiệp hội.
Năng lực về vốn: Vốn là một trở ngại lớn của Hiệp hội. Điều này
đánh giá khả năng yếu kém của ban lãnh đạo trong việc thu hút vốn đóng góp
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài Hiệp hội. Việc thiếu chiến lược kinh
doanh, cơ chế quản lý tài chính không minh bạch và thiếu ràng buộc pháp lý
trong hoạt động đầu tư là nguyên nhân khiến Hiệp hội không thể huy động
được nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài Hiệp hội. Đây là cản trở
23
lớn đối với Hiệp hội trong việc mở rộng quy mô sản xuất và xúc tiến thương
mại.
Như vậy, tất cả những mặt làm được và những mặt hạn chế của ban
lãnh đạo Hiệp hội trong chỉ đạo, quản lý sản xuất, chế biến thương mại đã
khẳng định năng lực lãnh đạo hạn chế của họ trong quá trình điều hành, quản
lý và phát triển Hiệp hội. Để Hiệp hội ngày càng phát triển, lấy lại được lòng
tin của các thành viên ban chấp hành và toàn thể các hội viên đòi hỏi phải có
những điều chỉnh trong cơ chế quản lý, điều hành của ban lãnh đạo. Để làm
được điều này, bên cạnh phát huy nội lực của các thành viên là vấn đề tiên
quyết, Hiệp hội cũng rất cần sự giúp đỡ của các tổ chức, ban ngành có liên
quan. Nhất là từ phía chính quyền địa phương, trong vai trò hỗ trợ và giám sát
Hiệp hội.
III.2.2. Ban kiểm soát
Trong quá trình vận hành hệ thống quản lý nội bộ đối với sản phẩm
CDĐL, ban kiểm soát đóng vai trò quan trọng trong việc thanh tra, kiểm sát
việc tuân thủ các quy định trong sản xuất, chế biến và thương mại sản phẩm
đảm bảo đủ các tiêu chuẩn trong việc sử dụng tên gọi CDĐL.
Trong thời gian qua, các thành viên trong ban giám sát đã có nhiều cố
gắng trong việc hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, mức độ hoàn
thành nhiệm vụ theo quy định của Hiệp hội còn nhiều hạn chế. Thành viên
ban kiểm soát không tham gia góp vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của Hiệp hội. Chính vì vậy, công việc của ban kiểm soát mang tính hoạt
động phong trào hơn là vai trò của một nhà đầu tư với trách nhiệm trong hiệu
quả tài chính.
Giám sát chỉ thực hiện được trên vai trò là tác nhân thực hiện nhiệm vụ
do lãnh đạo giao cho trong việc giám sát hoạt động thực hiện định mức của
các đội sản xuất. Giám sát không được phép kiểm soát vấn đề tài chính,
24
không tham gia vào việc ra quyết định chế biến, thương mại do không phải là
cổ đông của Hiệp hội. Vai trò giám sát hoạt động chế biến, thương mại cũng
như hoạt động của ban lãnh đạo không thể thực hiện được. Điều này khiến
cho tiếng nói của ban kiếm soát không thể có giá trị lớn đối với mọi hoạt
động của Hiệp hội.
Như vậy, ban kiểm soát với vai trò là bộ phận giám sát, đánh giá toàn
bộ các hoạt động sản xuất, chế biến và thương mại của Hiệp hội đã không
thể hoàn thành nhiệm vụ của mình, vì vậy vị trí của ban giám sát không được
đề cao.
III.2.3. Tổ chế biến và thương mại
Tổ chế biến và thương mại là khâu cuối cùng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của Hiệp hội. Thành quả hoạt động của Hiệp hội được quyết định
trong khâu quan trọng này.
Bảng 9. Đánh giá của các thành viên về hoạt động của tổ chế biến
(ĐVT: Người)
Tốt
TB
Kém
Rất Kém
Chỉ tiêu đánh giá
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Khả năng thu mua thóc
4
26.67 6
40.00 4
26.67 1
6.67
của các hội viên
Mức độ thực hiện
đúng quy trình về chất 7
46.67 6
40.00 2
13.33 0
0.00
lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm
6
40.00 8
53.33 1
6.67 0
0.00
chế biến
Năng lực chế biến
5
33.33 7
46.67 3
20.00 0
0.00
Độ nhanh nhạy với thị
3
20.00 6
40.00 4
26.67 2
13.33
trường
Xây dựng chiến lược
3
20.00 6
40.00 4
26.67 2
13.33
thương mại
Khả năng mở rộng thị
4
26.67 5
33.33 4
26.67 2
13.33
trường tiêu thụ
Nguồn: Điều tra RUDEC năm 2009
25