Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Dự án: Quản lý và phát triển CDĐL Hải Hậu cho sản phẩm gạo tám xoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.57 MB, 99 trang )

MỞ ĐẦU
Gạo  tám xoan  Hải Hậu là một sản phẩm truyền thống, đặc thù của 
vùng sản xuất lúa nước thuộc đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, hiện nay  
chất lượng gạo  tám xoan  Hải Hậu bị  suy giảm do quá trình phát triển của  
giống lúa qua một thời gian quá dài. Mặc dù từ  năm 2003, nhóm nghiên cứu  
của Viện Khoa học Kỹ  thuật nông nghiệp Việt Nam trước kia, nay là Viện 
Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn đã có những sự 
trợ giúp nhằm phục hồi lại giống lúa tám, duy trì quy trình kỹ thuật sản xuất 
truyền thống, tổ chức nông dân nhưng diện tích lúa tám xoan cũng mới chỉ đạt 
đến 12% vào năm 2006. Ngoài ra những khó khăn của thị trường, quy hoạch  
vùng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là những đòi hỏi mà huỵện  
Hải Hậu nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung cần sự  trợ  giúp của các cơ 
quan, tổ chức trong thời gian tới.
   

Xây dựng CDĐL ”Hải Hậu” cho sản phẩm gạo tám xoan có đặc thù 

riêng so với các sản phẩm khác của Việt Nam, quá trình xây dựng được tiến 
hành từ  dưới lên, nghĩa là tổ  chức nông dân tiến hành những hoạt động sản 
xuất, quản lý chất lượng sau đó mới tiến hành đăng bạ. Vì thế, từ  tháng  
5/2007 thời điểm sản phẩm gạo tám được đăng bạ CDĐL đến nay, hệ thống  
quản lý và sử dụng vẫn chưa được triển khai và đưa vào vận hành.
 

Cũng như nhiều địa phương khác, Nam Định cũng đang gặp phải những 

khó khăn về  quy trình, cách thức tổ  chức của hệ  thống quản lý và sử  dụng  
CDĐL. Từ thực tế đó, dự án “Quản lý và phát triển CDĐL ‘Hải Hậu’ cho sản  
phẩm gạo tám xoan” được triển khai đã giúp cho Hải Hậu nói riêng và Nam  
Định nói chung có được những sự  hỗ  trợ tích cực về  mặt quản lý sản xuất, 
chất lượng sản phẩm và phát triển thị trường, góp phần quan trọng trong sự 


duy trì và phát triển ổn định một vùng sản xuất lúa truyền thống. 

1


PHẦN III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN

III.1. Tổng quan về sản phẩm gạo tám xoan
 

Với mục tiêu tìm hiểu thực trạng sản xuất, tính đặc thù về  tự  nhiên, 

con người và kỹ năng thực hành truyền thống trong sản xuất, kinh doanh sản  
phẩm gạo tám xoan ở huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định; Xác định được các loại 
đất trồng lúa tám có chất lượng cao nhằm khuyến cáo phục vụ cho việc phát  
triển và quản lý sản xuất lúa tám ở địa phương; Tìm ra hướng giải pháp trong 
việc duy trì và phát triển sản xuất lúa tám xoan của huyện Hải Hậu ­ tỉnh  
Nam Định. Từ  đó xây dựng cơ  sở  khoa học cho các đề  xuất liên quan đến  
công tác quản lý, sử  dụng và khai thác CDĐL “Hải Hậu” cho gạo tám xoan 
trên thị  trường. Đơn vị thực hiện đã tiến hành điều tra 90 hộ, trong đó có 51  
hộ  trong Hiệp hội và 39 hộ  ngoài Hiệp hội. Các hộ  được lựa chọn điều tra  
theo phương pháp lấy xác suất ngẫu nhiên trên địa bàn 5 xã thuộc vùng mục 
tiêu sản xuất lúa tám xoan của huyện Hải Hậu là Hải Anh, Hải Đường, Hải 
Phong, Hải Toàn và Hải An. Đây cũng là các xã có các hội viên thuộc sự quản  
lý của Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu. Ngoài ra còn phỏng vấn các chuyên 
gia trong lĩnh vực thổ nhưỡng, giống cây trồng, các lão nông chi điền về  các 
đặc tính đặc thù của sản phẩm. 
III.1.1.Tính đặc thù của lúa tám xoan Hải Hậu
 


Trên cơ sở sưu tập các giống lúa tám lưu truyền trong dân, các tài liệu 

ghi chép lại trước đây về đặc tính lúa tám xoan Hải Hậu. Thông qua hội thảo 
của các nhà khoa học, các lão nông chi điền và chính quyền địa phương được 
tiến hành vào năm 2003 ­2004, từ  năm 2006 đến 2009 RUDEC kết hợp với 
Trung tâm hệ thống cây nông nghiệp ­ Viện cây lương thực và cây thực phẩm 
đã tiến hành phục tráng, theo dõi và tổng hợp các biểu hiện đặc trưng của  
2


giống lúa  tám xoan  Hải Hậu được mô tả  bằng 37 tính trạng cảm quan sử 
dụng để phân biệt với các giống lúa khác trong bảng 1:

Bảng 1: Các tính trạng đặc trưng của lúa tám xoan Hải Hậu 

TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

15
16

qua các giai đoạn
Giai đoạn
Tính trạng
10
40
40
40
40
40
40
50­60
50­60

Mức độ biểu 
hiện
Xanh
Tím nhạt
Xanh trung bình
Trung bình
Không có

Xẻ
Dài:35,5 – 45 cm
Trung bình: 1­2 cm

60­90


Nửa thẳng

(ngày)

Lá mầm: Màu
Lá gốc (lá dưới cùng)
Lá: Mức độ xanh
Lá: Lông ở phiến lá
Lá: tai lá
Thìa lìa
Lá: hình dạng thìa lìa
Lá: Chiều dài phiến lá
Lá: chiều rộng phiến lá
Lá đòng: trạng thái phiến lá 
(quan sát sớm)
Khóm: Gốc thân ( thế cây)
Thời gian trỗ: (50% số cây 

40
55

có bông trỗ)
Vỏ trấu: màu sắc (trừ mỏ 
hạt)
Hạt thóc: màu của mỏ hạt
Thân: đường kính thân
Thân: chiều cao thân (không 

Vàng nâu


80­90
65

Vàng
Trung bình: 6­8mm

17

Bông: Chiều dài trục chính

72­90

18

Bông: trạng thái trục chính

90

19

Bông: Số bông / cây

70

20

Bông: trạc ba điểm phân 

70


nhánh đầu tiên
3

15/10

65­90

70

tính bông)

Đứng: < 300
Muộn (mạnh): sau 

Rất cao > 120cm
Trung bình: 26­
30cm
Gục xuống
Trung bình (6 
bông/khóm)



21

Hạt: Mức độ lông của vỏ 

60­80

Trung bình


60­92
90
90
90

Vẹo
Ít
Xoè
Thoát hoàn toàn
Trung bình: 1,6­

22
23
24
25

trấu
Hạt: vẹo đầu
Bông: Mức độ gié thứ cấp
Bông: trạng thái của bông
Bông: thoát cổ bông

26

Mày hạt: Chiều dài

92

27


Mày hạt: màu sắc
Hạt thóc: khối lượng 1000 

90

2,5mm
Vàng nhạt

92

Rất thấp < 20g

28
29

hạt
Hạt thóc: sự sắp xếp của 

70­92

hạt thóc

30

Hạt thóc: chiều dài hạt thóc

92

31


Hạt thóc: màu hạt thóc

92

32

Hạt gạo lật: chiều dài

92

33
34
35

Hạt gạo lật: chiều rộng
Hạt gạo lật: dạng hạt: D/R
Hạt gạo lật: màu sắc

92
92
92

36

Hạt gạo sát: Độ bạc bụng

92

37


Hạt gạo lật: hương thơm

92

Hạt gối liêên tiếp 
nhau
Trung bình: 6,51 – 
7,6 mm
Nâu cánh gián
Ngắn: 4,51­ 5,5 
mm
Hẹp: <2,5mm
Thon dài: ≥3
Trắng
Không có hoặc rất 
nhỏ: <5%
Thơm

(Nguồn: Bản mô tả tính trạng của Trung tâm phát triển nông thôn, 2009)

4


HÌNH DẠNG HẠT THÓC VÀ GẠO GIỐNG LÚA TÁM XOAN 
HẢI HẬU QUA CÁC GIAI ĐOẠN

Hình dạng lúa tám xoan được chọn lọc tại địa phương và sản xuất tại Hiệp hội

5



* Các yếu tố  tạo nên tính đặc thù của lúa tám xoan, gạo tám xoan và 

  

cơm tám xoan được thể  hiện  ở  hình dáng, màu sắc, mùi, vị  và một số  đặc 
điểm khác được thể hiện ở bảng 2:
Bảng 2: Những đặc thù về cảm quan của gạo tám xoan Hải Hậu
Chỉ tiêu
Hình dáng
Màu sắc

Mùi

Vị
Đặc điểm 
khác

Lúa tám xoan
Hạt thóc thưa, nhỏ, 
tỷ  lệ  dài rộng 3,11, 
rong   lượng   1000 
hạt là 18,24g

Gạo tám xoan

Cơm tám xoan

Hạt   gạo   hơi 

Hạt   cơm   nhỏ   dài, 
dài,   thon   nhỏ, 
không bị nát
vẹo một đầu

Hạt   gạo   có  Hạt   cơm   có   màu   hơi 
mầu trong xanh bóng
Ngay khi nấu chín, cơm 
Mùi   thơm   dịu,  có mùi thơm đặc trưng, 
Mùi   thơm   đặc 
tự  nhiên và đặc  sau khi nấu 5­ 6 giờ vẫn 
trưng
trưng
giữ  được mùi thơm và 
cơm không bị khô.
Vị   ngọt   dịu,   đậm   (vị 
ngọt hậu)
Tỷ   lệ   từ   thóc   xay 
Hạt   gạo   chắc, 
chế  biến thành gạo 
đều,   không   bị  Cơm dẻo, giòn
thấp, hạt  khó  rụng 
vỡ khi xay xát 
khi tuốt
Màu vàng cánh dán

(Nguồn: Kết quả hội thảo chuyên gia địa phương)
 
* Phân tích các chỉ  tiêu chất lượng về  gạo tám xoan được chỉ  ra trong 
bảng 3:

Bảng 3: Các chỉ tiêu phân tích chất lượng về gạo tám xoan Hải Hậu
Hàm lượng các chất và các đặc 
Chỉ tiêu
điểm của gạo
1. Hàm lượng protein tổng số %
2. Hàm lượng tinh bột tổng số %
3. Hàm lượng Amylose tổng số %
4. Nhiệt độ hoá hồ
5. Chiều dài hạt trung bình
6. Chiều rộng hạt trung bình
7. Tỷ lệ dài rộng 
8. Hình dạng hạt

9,79
88,43
20,34
Thấp 
7,81
2,47
3,11
Thon nhỏ, hơi vẹo một đầu
6


9. Độ bạc bụng
0
          Như vậy qua so sánh và phân tích có thể cho thấy:
 

+ Giống lúa tám xoan là loại giống cổ truyền được sản xuất tại huyện 


Hải Hậu cho chất lượng cao nhất so với các loại giống tám khác
 

+ Chất lượng của lúa tám xoan có sự  sai khác cơ  bản so với các giống 

lúa tám khác trong vùng và các khu vực lân cận
 

+ Những đặc điểm có thể  phân biệt được giống lúa tám xoan với các 

giống lúa tám khác được thể  hiện khá rõ ràng với các đặc điểm về  sinh thái 
và hình dạng của cây lúa, sản phẩm thu hoạch
 

+ Những yếu tố   ảnh hưởng đến lúa tám xoan và quyết định đến chất 

lượng của lúa tám xoan được khẳng định đó là:
 

­ Điều kiện về thời tiết khí hậu: với đặc điểm lúa tám xoan phải được  

trồng trong vụ  mùa, thời gian vào hạt phải có gió mùa đông bắc, biên độ 
chênh lệch ngày và đêm cao
 

­ Lúa phải được tưới phù sa ít nhất 14 lần/vụ, đồng thời phải đảm bảo  

thoát nước trước 10 ngày trước khi gặt
 


­ Yếu tố sản xuất: phải được bón phân chuồng hoặc phân xanh để làm 

tăng quá trình trao đổi chất, tăng thêm độ thơm của sản phẩm
III.1.2. Thực trạng sản xuất lúa tám xoan ở Hải Hậu
Lúa tám xoan là sản phẩm mang tính hàng hoá, hầu hết sản phẩm được 
sản xuất ra đều được bán đi là chủ  yếu, người trồng lúa rất ít khi sử  dụng  
sản phẩm này vì giá của loại gạo này luôn cao hơn các giống lúa khác. 
 

Theo điều tra của RUDEC, lúa tám xoan ngày càng giảm về  diện tích, 

kéo theo vai trò của lúa tám xoan cũng giảm đi trong cơ cấu thu nhập của các 
hộ  nông dân. Trong số  các hộ  tham gia trồng lúa tám được điều tra, cơ  cấu 
đóng góp vào thu nhập của các hộ  rất nhỏ  (năm 2008 là 7.39%) trong khi số 
hộ trồng lúa tám xoan chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 4% dân số, vậy lúa tám xoan chỉ 
đóng vai trò rất nhỏ trong cơ cấu thu nhập của huyện Hải Hậu.
7


 

Năm 2000 diện tích lúa tám xoan chiếm 14%, năm 2005 chiếm 5%, năm 

2008 là 4.3% và năm 2009 chỉ  còn 4% trong cơ  cấu diện tích lúa của huyện  
Hải Hậu.  Sự giảm sút về diện tích lúa tám xoan có 4 nguyên nhân chính đó là:
 

Thứ nhất: Phương thức canh tác thay đổi: Hải Hậu với đặc thù là vùng 


đồng bằng chiêm trũng ven biển rất phù hợp cho cây lúa tám xoan phát triển.  
Trước đây, sản xuất nông nghiệp ở Hải Hậu chủ yếu mang tính quảng canh, 
năng suất thấp, tận dụng sự  phì nhiêu của đất có được nhờ  được hệ  thống  
sông ngòi bồi đắp hàng năm. Trong điều kiện đó, giống lúa tám xoan có tính 
thích phổ rộng, cho chất lượng cao và được người dân địa phương coi là cây 
trồng chủ  lực vào vụ  lúa mùa (năm 1993: lúa tám chiếm 60%/ vụ  mùa). Bắt 
đầu từ  những năm 2000 sản xuất nông nghiệp đã chuyển dần theo hướng 
thâm canh, tăng năng suất trong khi năng suất lúa tám xoan có giới hạn thấp.
Thứ hai:  Chất lượng gạo tám xoan Hải Hậu bị suy giảm do người dân lưu 
truyền trong quá trình lịch sử lâu đời, các kỹ thuật chọn lọc giống được thực hiện  
theo phương pháp truyền thống theo hướng năng suất, không quan tâm đến nâng 
cao chất lượng sản phẩm, làm cho giống lúa tám xoan đã bị thoái hoá và giảm dần  
về chất lượng. Từ năm 2003 đến nay, chính quyền địa phương kết hợp với các 
nhà khoa học thuộc Viện khoa học nông nghiệp trước đây, nay là Trung tâm phát 
triển nông thôn – Viện Chính sách và chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn 
đã tiến hành cải tạo và phục hồi lại chất lượng. Tuy nhiên, chất lượng gạo tám  
xoan thực tế vẫn chưa được khẳng định vì nhiều nguyên nhân tác động.
Thứ  ba:   Hiệu quả  kinh tế  không cao: những năm gần đây, do thời tiết 
bất lợi, năng suất lúa tám xoan rất thấp (70 – 80kg/sào), trong khi giá cả của 
gạo tám xoan chưa có sự  chênh lệch lớn so với các sản phẩm gạo khác do 
trên thị trường có sự lẫn lộn và pha trộn vì thế gạo tám xoan đang dần mất đi 
thị trường và mất lòng tin của người tiêu dùng. 
Thứ  tư:   Chuyển dịch cơ  cấu cây trồng bất lợi cho sản xuất lúa tám 
xoan : Sản xuất nông nghiệp của địa phương có xu hướng chuyển biến mạnh 
về cơ cấu, nhiều diện tích được chuyển sang trồng cây vụ đông, trong khi đó  
8


lúa tám xoan là một giống lúa dài ngày nên việc bố  trí cơ  cấu mùa vụ  có 
những bất cập cho sự phát triển của sản xuất.

 

Vụ  mùa năm 2009 đánh dấu một tín hiệu đáng mừng cho sản xuất và 

kinh doanh gạo tám xoan. Với năng suất bình quân toàn bộ  diện tích lúa tám  
xoan năm 2009 đạt 105 kg/sào, chất lượng gạo thơm ngon, giá cả  trên thị 
trường có sự chênh lệch lớn so với các giống lúa khác là những thông tin tích  
cực cho sản phẩm gạo tám xoan mang CDĐL :
  

Năm   2009,   toàn   huyện   Hải   Hậu   ước   tính   có   khoảng   90ha   lúa   tám. 

Trong đó có 65ha trồng lúa tám xoan theo giống của Hiệp hội gạo tám xoan 
Hải Hậu đã được chọn lọc, 25ha còn lại là các hộ  trồng các giống lúa tám 
tiêu, tám cổ  ngỗng.... Các hộ  sử  dụng giống lúa tám xoan có năng suất bình 
quân đạt 105kg/1sào, đặc biệt có một số  hộ canh tác tốt, đúng kỹ  thuật năng 
suất đạt 130 kg/sào tương đương với năng suất của các giống lúa khác (bắc  
thơm số 7 năng suất trung bình 110kg/sào) trong khi năng suất thấp hơn 5% so  
với bắc thơm thì giá lúa tám xoan cao hơn 66% (giá lúa tám xoan12.000đ/kg so 
với 7.200đ/kg của bắc thơm). Đây là một động lực quan trọng cho việc tăng 
quy mô sản xuất lúa tám xoan trong thời gian tới.
  

III.1.3. Nhu cầu sản xuất lúa tám xoan

 

Để  tiến hành điều tra thu thập thông tin đơn vị  thực hiện đã lựa chọn 

nhóm hộ sản xuất lúa tám xoan ở 5 xã trọng điểm trong vùng quy hoạch của 

huyện là xã Hải Anh, Hải Đường, Hải Phong, Hải Toàn và Hải An. 5 xã  
trọng điểm này chiếm diện tích gần 80% diện tích trồng lúa tám xoan còn lại  
trên địa bàn huyện Hải Hậu.
 

Các hộ được lựa chọn được phân theo tiêu chí sản xuất lúa tám xoan và 

tham gia hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu; Sản xuất lúa tám xoan và không 
tham gia hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu. 
 

Trong các hộ tham gia hiệp hội: có những hộ đã tham gia hiệp hội trong 

nhiều năm (thuộc xã Hải Đường, Hải Toàn, Hải Phong, Hải Anh) và có các 
9


hộ  thuộc những xã chỉ  mới tham gia vào Hiệp hội trong năm 2008 (Hải An). 
Nhưng chung quy lại đó đều là những hộ  đã có truyền thống trồng lúa tám  
xoan từ lâu đời trên địa bàn huyện Hải Hậu. Việc lựa chọn mẫu điều tra trên 
đây mang tính đại diện cho các nhóm hộ điều tra và so sánh. Kết quả điều tra 
được tổng hợp theo các nội dung sau: (có báo cáo chuyên đề kèm theo) 
 

­ Trình độ văn hoá của chủ hộ

 

­ Tình trạng kinh tế của các nhóm hộ điều tra


 

­ Tình hình lao động của các hộ điều tra

 

­ Tình hình đất đai của các nhóm hộ điều tra

 

­  Các yếu tố   ảnh hưởng đến quyết định sản xuất lúa tám xoan của  

người dân
 

­ Điều kiện về tư liệu phục vụ sản xuất

 

­ Mức độ áp dụng các tiến bộ khoa học được triển khai vào sản xuất

 

­ Những thay đổi trong cơ cấu đầu tư sản xuất lúa tám xoan

 

Qua quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy: 

 


­ Yếu tố  dễ canh tác là quan trọng nhất trong việc lựa chọn cây trồng  

lúa tám xoan. Đối với một số  diện tích đất trũng thuộc xã Hải Đường, Hải 
Toàn và Hải Phong, việc lựa chọn cây lúa tám xoan là một lựa chọn quan  
trọng đối với nông dân. Lấy diện tích vùng xóm 4­5 của xã Hải Đường làm ví  
dụ: Đây là vùng trũng, thường bị  ngập nước vào tháng 7 ­ 8 âm lịch, với các  
giống ngắn ngày, đây là thời điểm lúa phơi mào, vào hạt việc chuyển đổi  
sang giống này rất khó, năng suất thấp, nên việc lựa chọn giống lúa tám xoan 
là giải pháp khó thay thế.
 

­ Hiệu quả kinh tế đang có chiều hướng được nâng cao: Việc giảm sút  

về diện tích kéo theo sự giảm sút về sản lượng gạo tám xoan cung cấp ra thị 
trường. Điều này khiến cho giá cả  mặt hàng gạo tám xoan Hải Hậu có xu  
hướng tăng lên tỷ  lệ  thuận trong những năm gần đây. Mặt khác các hộ  có 
nhiều kinh nghiệm trồng lúa tám xoan, thực hiện đúng các yêu cầu kỹ  thuật  
10


vẫn đảm bảo được năng suất khá  ổn định. Đây là một động lực quan trọng 
cho các hộ  tiếp tục gắn bó với cây lúa tám xoan. Là một dấu hiệu tích cực  
cho việc phát triển cây lúa tám xoan.
 

­ Ngoài ra, yếu tố truyền thống cũng là một nhân tố quan trọng khiến các 

hộ  nông dân tại Hải Hậu vấn gắn bó với cây lúa tám xoan. Nhiều hộ gia đình  
cho rằng: Hàng năm dù ít hay nhiều, gia đình tại Hải Hậu cũng cần có một ít 

gạo tám xoan để cúng lúa mới cho tổ tiên, ông bà. Hơn nữa, dịp lễ tết người Hải  
Hậu có con cái đi xa rất cần một ít gạo tám xoan làm quà quê hương nên các hộ 
gia đình vẫn duy trì sản xuất lúa tám xoan xoan với quy mô nhỏ.
   

­ Mặc dù quy trình kỹ thuật chuẩn cho sản xuất lúa tám xoan đã được  

xây dựng có chất lượng. Tuy nhiên, qua quá trình khảo sát chúng tôi nhận 
thấy mức độ tuân thủ các quy trình kỹ thuật này chỉ mang tích chất tương đối 
vì nhiều lý do.
 

­  Ở  mỗi chân ruộng khác nhau có nhu cầu về  giống, đạm, lân, kali và 

phân chuồng khác nhau. Các hộ phải có mức điều chỉnh cho phù hợp theo kinh  
nghiệm nhiều năm sản xuất trên diện tích đó. Các khâu chăm sóc, phun thuốc,  
... thường do các hộ  tự  chủ  động thực hiện. Những thông báo của Hiệp hội 
chỉ mang tính định hướng, đại trà... rất khó cho các hộ trong việc tuân thủ các 
tiêu chí đề ra.
 

­ Việc tuân thủ các quy trình kỹ thuật khắt khe theo đúng tiêu chuẩn đề 

ra từ khâu làm đất, gieo mạ, bón phân, cấy và chăm sóc, thu hoạch đến phơi 
và đóng bao. Quá trình này đòi hỏi nhiều thời gian, gò bó về  mặt tổ  chức và 
chịu sự giám sát của Hiệp hội. Trong thời điểm mùa vụ, khi bắt đầu vụ  cấy  
lúa tám xoan là thời điểm giá công lao động cao, lực lượng lao động ít, cộng  
với thói quen làm việc tự  do của các hộ  nông dân khiến cho việc thực hiện 
quy trình kỹ thuật rất khó khăn. Đặc biệt là việc bón phân chuồng tốn nhiều  
công lao động nên việc bón phân đầy đủ chưa được thực hiện trong thời gian  

qua, đặc biệt với các hộ  có ít lao động. Trong khi việc đảm bảo đủ  khối 
11


lượng phân chuồng là nhân tố  quan trọng quyết định chất lương gạo tám  
xoan. 
 

­ Chi phí cho hoạt động giám sát lớn: Vì các hộ  nông dân thường quen  

với lối làm việc tự  do và thiếu tính kỹ  luật. Do vậy ý thức chấp hành trong 
việc sản xuất kém. Để đảm bảo việc thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật, đảm  
bảo chất lượng sản phẩm Hiệp hội phải có đội ngũ giám sát đến tận cơ  sở,  
theo dõi tất cả  các hộ  thực hiện việc tuân thủ  các quy trình kỹ  thuật. Trong 
khi các thành viên này chủ yếu là nông dân, phần thu nhập mà họ được nhận  
từ  việc thực hiện nhiệm vụ  không đủ  bù đắp phần lao động phải thuê cho  
hoạt động sản xuất của gia đình để bù phần thiếu hụt do phải dành thời gian  
cho công việc giám sát. Chính vì vậy chi phí giám sát sẽ  rất lớn nếu muốn  
duy trì hệ thống này.
 

­ Hiệu quả kinh tế không khác biệt lớn giữa các hộ thực hiện đúng yêu 

cầu kỹ thuật với các hộ không thực hiện đúng: Điều này là kết quả tác động 
do nhiều yếu tố. Trước hết là do các hộ  nông dân không nghiêm túc trong 
việc chấp hành các tiêu chuẩn bắt buộc trong quá trình sản xuất, do đó sản 
phẩm sản xuất ra thiếu sự đồng đều và không đảm bảo về  mặt chất lượng.  
Bên cạnh đó, một nguyên nhân rất quan trọng nữa là do hoạt động chế  biến,  
thương mại gạo tám xoan còn hạn chế, chưa tạo ra sự  khác biệt về  chất 
lượng, mẫu mã, chưa xây dựng được kênh tiêu thụ   ổn định. Giá bán sản  

phẩm  ở mức thấp, giá thu mua thóc của các nông dân thấp, hiệu quả kinh tế 
sản xuất lúa tám đúng tiêu chuẩn kỹ  thuật không mang lại hiệu quả  kinh tế 
như  mong đợi. Đây là nguyên nhân khiến các hộ  thiếu động lực trong việc 
chấp hành các tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất lúa tám xoan.
 

III.1.4. Các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng gạo tám xoan 

 

Theo kết quả khảo sát về các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng gạo  

tám xoan cho thấy:
Bảng 4:  Ý kiến đánh giá về các yếu tố hạn chế trong canh tác lúa tám 
12


xoan
Yếu tố hạn chế

% ý kiến trả lời
92
88
75
75
67
56

1. Giống
2. Gặt non (8/10 phần)

3. Nước tưới phù xa 
4. Thiếu phân chuồng
5. Lạm dụng quá lượng đạm
6. Đất đai (mặn, chua, quá trũng)   

Nguồn: Điều tra RUDEC năm 2009

 
 

+ Các khâu canh tác  ảnh hưởng đến chất lượng gạo tám xoan tại địa  

phương (xếp theo mức độ quan trọng): 
 

­ Giống;

 

­ Thời điểm thu hoạch (cần thu non và yếu tố thời tiết);

 

­ Nước tưới;

 

­ Biện pháp chăm sóc (thiếu phân chuồng) và phun thuốc BVTV trong  

giai đoạn lúa trỗ bông;

 

­ Lạm dụng đạm bón;

 

­ Chất lượng đất đai canh tác lúa tám xoan. 

 

+ Để  bảo đảm chất lượng gạo tám xoan thơm ngon, hạt gạo trong,  

đẹp, thời gian thu hoạch tốt nhất là 25 – 30 ngày sau trỗ  (chín 8 phần). Hiện 
nay vì muốn đạt năng suất cao nông dân thu hoạch ở 30­35 ngày sau trỗ là quá 
muộn. Tuy nhiên, thu hoạch non năng suất có thể giảm 15%­20%. 
 

+ Nước tưới cũng là yếu tố quan trọng  ảnh hưởng đến năng suất chất  

lượng lúa tám xoan. Để  có được năng suất chất lượng, ruộng lúa tám xoan 
cần được tưới tối thiểu 14 lần nước phù sa và được tưới trực tiếp theo hệ 
thống tưới bằng trọng lực. Và khi lúa tám xoan vào mẩy ở giai đoạn cuối cần  
phơi khô ruộng­ráo gốc (rút nước  ở  ruộng ngày thứ  10 sau trỗ  là tốt nhất),  
vào thời điểm lúa vào hạt cần có gió mùa đông bắc, biên độ  chênh lệch về 
13


nhiệt độ  ngày ­ đêm ở  mức độ  cao nhằm làm cho lúa chín chậm tạo lên mùi 
thơm của gạo, tránh lúa đổ, bông bị  ngâm trong nước mất hương, năng suất  
giảm. 

+ Cuối cùng chất lượng lúa tám xoan giảm còn có nguyên nhân là hiện  

 

nay nông dân hầu như không bón phân chuồng vì lí do: 
 

­ Phân lợn dùng cho bioga là chủ yếu;

 

­ Thời vụ gấp trong vụ mùa nông dân không có đủ thời gian để tải phân 

ra ruộng;
­ Bón phân chuồng thóc đẹp nhưng không kinh tế  bởi giá thóc không 

 

chênh lệch nhiều so với không bón. Thay vào đó nông dân sử dụng quá nhiều  
đạm, trung bình lên đến 5 đến 8 kg urê/sào, cần phải giảm lượng phân này.
III.1.5. Phân vùng đất trồng lúa tám xoan thích hợp ở Hải Hậu.
Xác định loại đất và vùng đất canh tác lúa tám xoan thích hợp có ý nghĩa  

 

quan trọng không chỉ  đối với việc xây dựng quy trình kỹ  thuật canh tác lúa  
tám mà còn quan trong đặc biệt với việc phát triển sản xuất sản phẩm đặc 
sản lúa tám xoan Hải Hậu sau này. Dựa trên kết quả  xác định loại đất và 
vùng đất thích hợp này, Hiệp hội sẽ khoanh vùng sản xuất và và xây dựng các 
bản đồ  giải thửa để  theo dõi và quản lí quy trình sản xuất chung của hiệp 

hội.
 

Theo ý kiến các chuyên gia địa phương, cùng với quá trình khảo sát và  

đánh giá, trong số  35 xã hiện nay của huyện Hải Hậu, có thể  sơ  bộ  phân 
thành 3 vùng chính, cụ thể trong bảng 5 như sau: 
Bảng 5: Phân vùng sơ bộ các xã trồng lúa tám xoan ở Hải Hậu
Vùng tám xoan  Vùng tám xoan 
Nội dung
Vùng mở rộng
gốc
hiện nay
1. Số xã trong vùng
12
15
8
2. Diện tích và tỷ  lệ% cấy 
lúa vụ mùa (ha)

3762.3 (33%)
14

5491.8 (49%)

2027.7 (18%)


3.   Tỷ   lệ   %   lúa   tám   hiện 
nay

2.41
24.74
1.83
4. Chất lượng lúa tám theo  Chất lượng  Chất lượng thơm  Chất lượng 
đánh   giá   của   người   dân  thơm ngon.

ngon.

kém hơn.

địa phương.
 Nguồn: Kết quả đánh giá, phân vùng của Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam
 

Các vùng sản xuất lúa tám xoan được đánh giá theo sự dịch chuyển của 

hệ  thống thuỷ  lợi, nó có mối liên hệ  chặt chẽ  với khả  năng cải tạo đất 
thường xuyên do được tưới nước phù sa hàng năm. Với 100% ý kiến của  
người dân và các chuyên gia tại các hội nghị cho rằng, hệ thống thuỷ lợi đóng 
vai trò quan trọng quyết định đến khả  năng sản xuất và chất lượng gạo của 
từng vùng. Điều đó cho thấy vùng tám xoan gốc và vùng tám xoan hiện nay là 
hai khu vực có điều kiện đặc biệt hơn các khu vực khác về hệ thống thuỷ lợi  
(ngoài các yếu tố  khác như  đất đai...). Điều này đã hình thành một sự  khác 
biệt không chỉ  trong huyện mà còn đối với các khu vực lân cận như: Nghĩa  
Hưng, Trực Ninh...
 

Quá trình và đặc điểm phát triển của các vùng lúa tám xoan được tổng  

hợp qua những đặc điểm sau:

 

Vùng tám xoan gốc: Bao gồm 12 xã phía bắc huyện, là vùng canh tác 

lúa tám xoan phát triển từ trước thời hợp tác hóa năm 1960. Tổng diện tích lúa  
mùa của vùng chiếm đến 33% diện tích toàn huyện. Trong lịch sử, cơ cấu lúa  
tám xoan của vùng ở vụ mùa có thể đạt đến 35­40% diện tích, nhưng những 
năm gần đây khu vực này hầu như không trồng lúa tám xoan cao nưa. Lí do là 
vì vùng này hiện nay phát triển lúa tám xoan gặp nhiều khó khăn do bình quân  
diện tích đất nông nghiệp/khẩu thấp nhất trong huyện (0.7 đến 0.8 sào/khẩu),  
vì thế  nông dân tập trung cấy các giống lúa mới cho năng suất cao để  lấy 
lương thực và phát triển cây vụ đông phụ vụ tiêu dùng của hộ.

15


 

Vùng tám xoan hiện nay:  Đây là vùng lúa tám xoan mới phát triển 

mạnh trong khoảng gần 20 năm trở  lại đây, liên quan đến 15 xã vùng trung 
của huyện, trong đó các xã có các nhiều lúa tám xoan và cho chất lượng thơm  
ngon hơn cả đặc biệt phải kể đến 6 xã là Hải Đường, Hải An, Hải Toàn, Hải 
Phong, Hải Ninh và Hải Giang. Các xã này hiện có nhiều thuận lợi bởi diện 
tích đất canh tác bình quân đầu người khá cao lên đến 1,5 – 1,7 sào/khẩu. 
Diện tích cấy lúa mùa của 6 xã này chiếm khoảng 80% diện tích toàn huyện, 
trong cơ  cấu các giống tám xoan chiếm đến 5% diện tích lúa mùa của vùng 
(300ha). Sự phát triển diện tích lúa tám xoan của vùng liên quan chặt chẽ đến 
động thái của hệ thống tưới nước phù xa. 
 


Vùng tám xoan mở rộng: Đó là 8 xã nằm ở phía nam và vùng ven biển  

của huyện. Đây là những xã đất bị nhiễm mặn nhiều. Diện tích trồng lúa tám  
xoan hiện này không đáng kể  (khoảng 1,83% bằng chưa đầy 40 ha trong vụ 
mùa). Các giống lúa tám trước đây trồng tại khu vực này đa số  là giống tám 
ngố  (tám cổ  ngỗng). Giống lúa này theo các chuyên gia địa phương là giống  
có khả  năng chịu phèn, mặn tốt hơn cả, nhưng chất lượng gạo lại không 
thơm ngon như các giống tám xoan, tám thơm... Hiện nay, diện tích trồng lúa 
tám tại khu vực này chủ yếu đã chuyển sang giống lúa lai với chu kỳ kênh tác  
ngắn và tổ chức cơ cấu cây vụ đông cho vụ thứ 3.
III.1.6. Đất thích hợp cho trồng lúa tám xoan và phân vùng lúa tám  
xoan ở Hải Hậu.  
 

Đất trồng lúa tám xoan nên chọn đất tốt, thường là đất phù sa trung tính  

có tầng Glây (kí hiệu FLe­g), giàu mùn và chất hữu cơ. Đất trồng lúa tám 
xoan thích hợp nhất phải có các đặc điểm nông hoá như sau: 
Độ chua trung tính, pHkcl từ 6,0 ­ 7,0
Thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng: 
­ Tỷ lệ cát:  25% ­ 30%
­ Limon:     50% ­ 55%
16


­ Sét: 

  20% ­ 25%


 

Bảng 6. Đất thích hợp cho trồng lúa tám xoan
Mức độ thích hợp cho trồng lúa tám 
xoan
Đặc điểm loại đất
Đất đặc biệt thích 
Đất thích hợp
hợp
Đất phù xa trung tính  Đất   phù   xa   trung 
Loại đất
ít chua, có tầng Glây,  tính   ít   chua,   thịt 
thịt trung bình.
trung bình và năng.
Kí   hiệu   trên   bản   đồ   thổ 
FLe­g
FLe­si
nhưỡng
Địa hình
Vàn, vàn cao
Vàn, vàn cao
Công thức luân canh
2L
2L
TP cơ giới – thịt T.bình, năng d
d, e
trong đó tỷ lệ : ­ cát  %
25 ­ 30
20 – 25
                         ­ limon

50 ­ 55
50 – 55
                         ­ sét
20 ­ 25
25 – 30
Độ chua pHkcl
6,0 – 6,5
5,5 – 6,5
Độ muối tan
0,20 – 0,30
0,20 – 0,30
Cation trao đổi:     Ca++
6,0 – 8,0
5,0 – 6,0
Mg++
3,0
2,0 – 4,0
Na+  , K+
Dung lượng trao đổi (CEC) 
  ­ đất               
11,5­ 12,5
12,0
  ­ sét
22,0­ 28,0
25,0
Nguồn: Kết quả do Viện KHKT Nông nghiệp, Sở NN&PTNT xây dựng
Nước tưới  cho ruộng lúa tám xoan phải là nước phù sa, tốt nhất là 

 


nước phù sa sông Ninh Cơ, cường độ nước tưới tối thiểu là 14 lần/vụ lúa tám 
xoan.
Bảng 7: Yêu cầu nước tưới cho lúa tám xoan
Chỉ tiêu
Đơn vị
Cuối vụ
Đầu vụ
pH
8,058
8,158
NO2
mg/l
0,0682
0,1484
NH4
mg/l
2,712
0,1986
Tổng Fe
mg/l
1,1114
0,915
17


Cặn lơ lửng
Ni
Zn
Tổng Cr
Cu

Mn
Hg
As
Pb

mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l

              

18

53,4
0,00496
0,00386
0,0091
0,00486
0,01866
0,00082
0,01126
0,0289

64,4

0,00456
0,00356
0,01318
0,00452
0,02546
0,00154
0,00992
0,03472


Bảng 8:  Phân vùng sinh thái lúa tám xoan ở huyện Hải Hậu
Loại vùng

I. Vùng rất 
thích hợp 

Phân bố
Tập trung nhiều ở vùng giữa 
của huyện, bao gồm các xã: 
Hải   An,   Hải   Toàn,   Hải 
Phong,   Hải   Đường   và   một 
phần các xã: Hải Ninh, Hải 
Giang, Hải Tân và Hải Sơn

II. Vùng thích 
hợp 
Vùng I

Vùng II
III. Vùng ít 

thích hợp

Phía bắc phân bố   ở  các xã : 
Hải   Minh,   Hải   Anh,   Hải 
Long, Hải Sơn
Phía   nam   phân   bố   nhiều   ở 
các xã : Hải Ninh, Hải Giang 
và một phần Hải Phú
Phân   bố   các   xã   như   Hải 
Châu, Hải Cường, Hải Nam, 
Hải Phúc và một phần Hải 
Giang, Hải Ninh….

Mô tả
1. Đất canh tác lúa chủ yếu là đất vàn và vàn cao, loại đất phổ biến là đất  
phù xa sông Hồng trung tính, thành phần cơ giới thịt trung bình và thịt nặng  
có glây.
2. Vùng được tưới phù xa sông Hồng thường xuyên: 14 đến 18 lần/vụ.
3. Đất không nhiếm phèn hay nhiễm mặn, mức độ  mặn nhẹ  chỉ  từ  0.02­
0.05%
4.  Đất canh tác lúa xa làng ít bị che khuất và ít bị sâu, chuột phá hại.
5.  Hệ thống tưới trực tiếp từ sông Ninh Cơ,  khả năng tiêu ở  mức độ  rất  
cao
Phân biệt với vùng I bởi sự xuất hiện các địa hình vàn thấp hoặc địa hình  
cao, và loại đất phù xa sông Hồng chua nhẹ. Chế  độ  nước tưới bị  cạnh 
tranh bởi hệ thống canh tác cây vụ đông. 
1. Đất cao có thể bị hạn cuối vụ. , ruộng canh tác gần khu dân cư và bị che 
khuất nhiều bởi làng, chuột phá hại nhiều.
2. Chế độ tưới phù xa bị ảnh hưởng do cây sự phát triển các cây trồng vụ 
đông.

1. Loại đất phù sa sông Hồng chua nhẹ chiếm đa số.
2. Nhiều đất thấp, lúa dễ bị úng ở cuối vụ.
1. Vùng tập trung nhiều loại đất phù sa sông Hồng từ chua nhẹ đến chua, 
2. Đất có thể bị nhiễm phèn, mặn ở cuối vụ

19


IV. Vùng không 
Phần còn lại của Huyện
thích hợp       

1. Vùng đất cát, ven biển, thành phần cơ giới nhẹ
2. Đất bị ảnh hưởng mặn khá nặng

20


Kết luận
 Giống lúa tám xoan là sản phẩm truyền thống của Hải Hậu với những  

đặc tính riêng quy định tính chất đặc thù của sản phẩm gạo tám xoan 
Hải Hậu: thơm, giòn, dai cơm, ngọt hậu. Đặc tính đó được quyết định 
bởi giống, thổ nhưỡng, phân chuồng, thu hoạch lúc lúa chín tám phần và 
chế biến bằng phương pháp truyền thống.
 Diện tích lúa tám xoan đang giảm đi nghiêm trọng tại huyện Hải Hậu 

trong thời gian vừa qua do các nguyên nhân sau:



Hiệu quả kinh tế thấp



Thiếu quy hoạch tập trung trong sản xuất lúa tám xoan



Năng suất thấp

 Lúa tám chưa phát huy vai trò đối với cơ cấu thu nhập của địa phương
 Lúa tám xoan đang bị cạnh tranh trong cơ cấu sản xuất ở địa phương



Sự cạnh tranh của các giống lúa ngắn ngày về  sinh học và hiệu 

quả kinh tế


Sự cạnh tranh của cây vụ đông trong sản xuất lúa tám xoan.

 Triển vọng cho ngành hàng gạo tám xoan: Năm 2009, năng suất trung 

bình tăng lên 50% so với năm 2008 (năng suất TB = 105kg/sào), giá thóc tăng 
lên 12.5% (12.500đ/kg), chất lượng gạo được người tiêu dùng đánh giá cao là 
những dấu hiệu tích cực cho sự  phát triển của sản phẩm đặc sản này trong 
thời gian tới.
III.2. Tổng quan về hiệp hội gạo tám xoan
 


Hiệp hội sản xuất, chế  biến và thương mại gạo tám xoan Hải Hậu 

(sau đây gọi tắt là Hiệp hội /Hiệp hội gạo tám xoan) được chính thức thành 
lập vào ngày 19/10/2004 theo quyết định số  264/QĐ – UB của UBND tỉnh  
21


Nam Định. Sau gần 5 năm hoạt động, Hiệp hội đã có gần 300 hội viên tập 
hợp thành các nhóm sản xuất nhỏ phân bố trên địa bàn 5 xã với 1 tổ sản xuất  
giống 12 tổ sản xuất lúa thương phẩm và 1 tổ chế biến đặt trụ sở tại xóm 14 
xã Hải Anh ­ Hải Hậu – Nam Định. Trong quá trình hoạt động, Hiệp hội đã 
phối hợp với cơ quan chuyên môn xây dựng và áp dụng các quy trình kỹ thuật 
trong tổ  chức sản xuất, chế  biến và thương mại gạo tám xoan. Năm 2007  
Hiệp hội đã đứng ra đăng ký và được Nhà Nước cấp Văn bằng bảo hộ  tên  
gọi xuất xứ gạo tám xoan Hải Hậu theo quyết định số 385/QĐ – SHTT ngày 
31/05/2007 của Cục Sở hữu trí tuệ. Đây là một thành quả  đáng ghi nhận cho 
những nỗ  lực của một tổ  chức tiên phong trong quá trình phát triển ngành 
hàng nông sản tại Việt Nam.
  

Đến nay, Hiệp hội đã phát triển thành 42 nhóm nông dân (với 246 hộ 

gia đình) hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện và hỗ trợ nhau trong sản xuất  
tại năm xã trọng điểm về  sản xuất lúa tám xoan của huyện, 42 nhóm nông 
dân và một nhóm chế  biến đã cơ  cấu tổ  chức để  hình thành 12 chi hội sản 
xuất

 


lúa

 

tám

 

xoan, 

một chi hội chế  biến thương mại trong Hiệp hội. Qua quá trình bầu cử  dân  
chủ  trong Hiệp hội, một ban chấp hành Hiệp hội với 20 thành viên đã được  
bầu lên với một chủ tịch và hai phó chủ tịch.
  

Quá trình phát triển của Hiệp hội là chặng đường vừa xây dựng vừa 

điều chỉnh cho phù hợp với môi trường thể chế và điều kiện kinh tế. Do vậy  
thực tế còn có nhiều biểu hiện chưa phù hợp như: các quy chế hoạt động của  
Hiệp hội chưa được kiện toàn, các thành viên không chấp hành nghiêm chỉnh 
các quy định của Hiệp hội, nhiều bộ phận hoạt động thiếu hiệu quả và không 
rõ chức trách, không nhạy bén trong khâu nắm bắt thị  trường và thiếu kế 
hoạch trong việc ra quyết định sản xuất, chế  biến và thương mại sản phẩm 
gạo tám xoan.
  

III.2.1. Ban lãnh đạo Hiệp hội
22



 

Ban lãnh đạo Hiệp hội gồm có 3 thành viên: 1 Chủ  tịch Hiệp hội phụ 

trách chung, phó chủ  tịch phụ  trách sản xuất chịu trách nhiệm quản lý sản 
xuất và   phó chủ  tịch phụ  trách thương mại chịu trách nhiệm về  các hoạt  
động chế  biến và thương mại.  Theo đánh giá của các thành viên ban chấp 
hành (ngoài thành viên ban lãnh đạo), chúng tôi nhận thấy: 
 

Về quản lý và chỉ đạo sản xuất: Đây là một thế mạnh của Hiệp hội 

nhưng không phát huy được trong quá trình triển khai các hoạt động sản xuất. 
Thực chất trong thời gian qua, Hiệp hội đang thể  hiện vai trò là một tác nhân 
thương mại hơn là vai trò quản lý, giám sát quá trình quản lý nội bộ  đối với  
sản phẩm mang thương hiệu CDĐL. 
 

Về  uy tín với các hội viên:  Trong thời gian qua, uy tín của ban lãnh 

đạo với các hội viên đã sụt giảm rất nhiều so với trước đây (chỉ  50% cho là  
tốt). Các chi hội trưởng đánh giá rằng, trước đây thành viên ban lãnh đạo rất 
nhiệt tình trong việc tư  vấn, chỉ  đạo, động viên, giám sát các hội viên thực 
hiện các giai đoạn sản xuất, thu hoạch, thu mua sản phẩm. Nhưng thời gian  
gần đây, hoạt động của ban lãnh đạo có xu hướng chững lại. Điều này cũng  
là xu hướng tất yếu, bởi khi các hội viên đã nắm được các quy trình kỹ thuật  
thì Hiệp hội chỉ quản lý về mặt kết quả, thông  qua đánh giá chất lượng sản 
phẩm mà Hiệp hội thu mua của các hội viên. Tuy nhiên, ban lãnh đạo cần 
giám sát và phát huy vai trò chỉ  đạo của các chi hội trưởng, điều này sẽ  góp 
phần nâng cao chất lượng sản phẩm và gắn chặt mối quan hệ  quyền lợi và 

nghĩa vụ của các hội viên với Hiệp hội. 
 

Năng lực về  vốn:  Vốn là một trở  ngại lớn của Hiệp hội. Điều này 

đánh giá khả năng yếu kém của ban lãnh đạo trong việc thu hút vốn đóng góp 
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài Hiệp hội. Việc thiếu chiến lược kinh  
doanh, cơ  chế  quản lý tài chính không minh bạch và thiếu ràng buộc pháp lý 
trong hoạt động đầu tư  là nguyên nhân khiến Hiệp hội không thể  huy động  
được nguồn vốn từ  các nhà đầu tư  trong và ngoài Hiệp hội. Đây là cản trở 
23


lớn đối với Hiệp hội trong việc mở rộng quy mô sản xuất và xúc tiến thương 
mại. 
 

Như vậy, tất cả những mặt làm được và những mặt hạn chế  của ban  

lãnh đạo Hiệp hội trong chỉ đạo, quản lý sản xuất, chế  biến thương mại đã 
khẳng định năng lực lãnh đạo hạn chế của họ trong quá trình điều hành, quản 
lý và phát triển Hiệp hội. Để Hiệp hội ngày càng phát triển, lấy lại được lòng 
tin của các thành viên ban chấp hành và toàn thể các hội viên đòi hỏi phải có  
những điều chỉnh trong cơ chế quản lý, điều hành của ban lãnh đạo. Để  làm  
được điều này, bên cạnh phát huy nội lực của các thành viên là  vấn đề  tiên 
quyết, Hiệp hội cũng rất cần sự  giúp đỡ  của các tổ  chức, ban ngành có liên 
quan. Nhất là từ phía chính quyền địa phương, trong vai trò hỗ trợ và giám sát  
Hiệp hội.
III.2.2. Ban kiểm soát
 


Trong quá trình vận hành hệ  thống quản lý nội bộ  đối với sản phẩm 

CDĐL, ban kiểm soát đóng vai trò quan trọng trong việc thanh tra, kiểm sát  
việc tuân thủ các quy định trong sản xuất, chế biến và thương mại sản phẩm 
đảm bảo đủ các tiêu chuẩn trong việc sử dụng tên gọi CDĐL.
 

Trong thời gian qua, các thành viên trong ban giám sát đã có nhiều cố 

gắng trong việc hoàn thành nhiệm vụ  của mình. Tuy nhiên, mức độ  hoàn 
thành nhiệm vụ  theo quy định của Hiệp hội còn nhiều hạn chế. Thành viên 
ban kiểm soát không tham gia góp vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh 
của Hiệp hội. Chính vì vậy, công việc của ban kiểm soát mang tính hoạt 
động phong trào hơn là vai trò của một nhà đầu tư với trách nhiệm trong hiệu  
quả tài chính.
 

Giám sát chỉ thực hiện được trên vai trò là tác nhân thực hiện nhiệm vụ 

do lãnh đạo giao cho trong việc giám sát hoạt động thực hiện định mức của  
các đội sản xuất. Giám sát không được phép kiểm soát vấn đề  tài chính, 
24


không tham gia vào việc ra quyết định chế biến, thương mại do không phải là 
cổ đông của Hiệp hội. Vai trò giám sát hoạt động chế biến, thương mại cũng  
như  hoạt động của ban lãnh đạo không thể  thực hiện được. Điều này khiến 
cho tiếng nói của ban kiếm soát không thể  có giá trị  lớn đối với mọi hoạt 
động của Hiệp hội.

 

Như  vậy, ban kiểm soát với vai trò là bộ  phận giám sát, đánh giá toàn 

bộ  các hoạt động sản xuất, chế  biến và thương mại của Hiệp hội đã không 
thể hoàn thành nhiệm vụ của mình, vì vậy vị trí của ban giám sát không được  
đề cao. 
III.2.3. Tổ chế biến và thương mại
 

Tổ chế biến và thương mại là khâu cuối cùng trong hoạt động sản xuất 

kinh doanh của Hiệp hội. Thành quả hoạt động của Hiệp hội được quyết định 
trong khâu quan trọng này. 
Bảng 9. Đánh giá của các thành viên về hoạt động của tổ chế biến 
(ĐVT: Người)
Tốt
TB
Kém
Rất Kém
Chỉ tiêu đánh giá
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Khả năng thu mua thóc 

4
26.67 6
40.00 4
26.67 1
6.67
của các hội viên
Mức   độ   thực   hiện 
đúng quy trình về  chất  7
46.67 6
40.00 2
13.33 0
0.00
lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm 
6
40.00 8
53.33 1
6.67 0
0.00
chế biến
Năng lực chế biến
5
33.33 7
46.67 3
20.00 0
0.00
Độ  nhanh nhạy với thị 
3
20.00 6
40.00 4

26.67 2
13.33
trường
Xây   dựng   chiến   lược 
3
20.00 6
40.00 4
26.67 2
13.33
thương mại
Khả  năng mở  rộng thị 
4
26.67 5
33.33 4
26.67 2
13.33
trường tiêu thụ
Nguồn: Điều tra RUDEC năm 2009
25


×