Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 124 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, nội dung, số liệu và kết quả nghiên cứu trong 
chuyên đề là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi  cũng xin cam  kết ch ắc ch ắn r ằng, m ọi s ự  giúp  đỡ  cho việc 
thực   hiện   chuyên   đề   đã   đượ c   cảm   ơn,   các   thông   tin   trích   dẫn   trong  
chuyên đề  đều đượ c chỉ  rõ nguồn gốc, bản chuyên đề  này là nỗ  lực, kết  
quả làm việc của cá nhân tôi (ngoài phần đã trích dẫn).

Hà Nội, ngày      tháng        năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Văn Quyết


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi 
còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài 
trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh  
tế & Phát triển nông thôn ­ Trường Học viện Nông Nghiệp Việt Nam đã hết  
lòng giúp đỡ  và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá 
trình học tập tại trường.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ  lòng biết  ơn sâu sắc nhất tới cô giáo  Đoàn 
Bích Hạnh  thuộc bộ  môn kinh tế  môi trường, Khoa Kinh tế  và Phát triển 
nông thôn, Trường Học viện nông nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, 
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện đề tài.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các hộ gia đình tại các thôn 
thuộc xã Đoàn Đào, cán bộ và toàn thể  nhân dân xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, 
tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.


Và tôi cũng không quên nói lời cảm  ơn tới gia đình, bạn bè đã động  
viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày      tháng        năm 2015
Sinh viên


Nguyễn Văn Quyết

TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Việt Nam là nước đang phát triển, có số dân số hơn 90,5 triệu người,  
đứng thứ 13 trên thế giới, hằng năm với mức tăng trung bình khoảng 1 triệu  
người, là nước có lợi thế về sức lao động. Trong quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát huy  
lợi thế nguồn nhân lực, trao đổi hàng hóa “ Sức lao động’’.  Mặt khác, trong  
điều kiện đất nước ta hiện nay, hơn 70% lao động sống  ở  nông thôn, trình  
độ  chuyên môn tay nghề  thấp, tiền công sức lao động rẻ, sức ép việc làm 
lớn, mỗi năm cần có khoảng 2,45% người dân cần việc làm. Chính vì vậy, 
xuất khẩu lao động không những là chủ  trương lớn của đảng và nhà nước, 
mà còn là một chiến lược quan trọng lâu dài góp phần giải quyết việc làm  
cho số người đến độ tuổi lao động giảm thiểu gánh nặng của quốc gia. Do  
đó, xuất khẩu lao động trở thành vấn đề  cấp thiết có nội dung kinh tế  ­ xã 
hội sâu sắc và liên quan chặt chẽ  với các yếu tố  kinh tế  khác trong định  
hướng phát triển kinh tế quốc gia.
Xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ  An trong những năm qua, 
cấp  ủy Đảng chính quyền địa phương coi xuất khẩu lao động là môt trong 
những nhiệm vụ  quan trọng góp phần phát triển nhân lực, giải quyết việc  
làm, tạo thu nhập cho người lao động, làm giàu chính đáng, tăng nguồn thu 
ngoại tệ  và cũng là một trong những biện pháp xóa đói giảm nghèo, góp 



phần không nhỏ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Số lao 
động của xã Nam Cát đi xuất khẩu lao động càng ngày càng tăng, nhiều hộ 
gia đình từng là hộ  nghèo nhưng từ khi có lao động đi xuất khẩu đã trở nên 
khá giả  hơn, xây dựng nhà cửa khang trang, mua sắm được các tiện nghi 
sinh hoạt đắt tiền và có vốn ổn định tăng gia sản xuất, kinh doanh nâng cao 
thu nhập. Toàn xã hiện có 700 lao động đang làm việc  ở  nước   ngoài tập 
trung chủ  yếu  ở  các thị  trường như: Angola, Hàn Quốc, Nhật Bản,  Đài 
Loan, Malaisia… xuất khẩu lao động đem lại nguồn thu nhập cho xã Nam 
Cát mỗi năm hơn 100 tỷ đồng, đời sống người dân được cải thiện đáng kể.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn xã Nam Cát đã  
mang lại nhiều lợi ích, đời sống của người dân được cải thiện một cách rõ 
rệt, nhất là mặt kinh tế  của hộ  gia đình. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích 
của XKLĐ mang lại, thì XKLĐ cũng gây ra một số hệ lụy đến đời sống của 
người dân. Để đánh giá đúng và hiểu rõ hơn mức độ tác động của xuất khẩu 
lao động cụ thể đến đời sống người dân trong xã nên tôi quyết định chọn đề 
tài: “Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người  
dân xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”.
Đề  tài góp phần hệ  thống hóa cơ  sở  lý luận về  lao động, sức lao  
động, giá cả lao động, xuất khẩu lao động, thị trường lao động, các lý luận  
về đánh giá, tác động. Các khái niệm và đặc điểm được tìm hiểu qua nhiều 
góc độ  và cách nhìn nhận của nhiều nhà nghiên cứu trước đây. Từ các khái 
niệm về đánh giá tác động của xuất khẩu lao động, đề tài đã bước đầu khái 
quát hóa khái niệm về  đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời 
sống của người dân.
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, đề  tài sử  dụng phương pháp 
chọn mẫu điều tra nghiên cứu dùng để điều tra thực trạng tác động của xuất 
khẩu lao động trên địa bàn xã, mức độ tác động của xuất khẩu lao động đến  



đời sống người dân; phương pháp thu thập số  liệu qua điều tra, tổng hợp  
(số  liệu do UBND xã Nam Cát cung cấp), phương pháp phân tích số  liệu  
dùng trong nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của xuất khẩu lao động. 
Phương pháp so sánh dùng để  so sánh giữa các nhóm hộ  với nhau, giữa 
trước và sau khi có xuất khẩu lao động, từ  đó đánh giá mức độ  tác động 
giữa các nhóm.
Qua nghiên cứu thực tế  tác động của xuất khẩu lao động đến đời 
sống của người dân xã Nam Cát, nhìn chung xuất khẩu lao động đã có nhiều 
tác động tích cực đến đời sống của người dân. Xuất khẩu lao động đã góp 
phần vào công cuộc giải quyết việc làm, hạn chế  tình trạng thất nghiệp  ở 
một số bộ phận lao động thất nghiệp. Xuất khẩu lao động tác động tích cực  
đến kinh tế  hộ  gia đình nhờ  nguồn thu nhập từ  lao động xuất khẩu từ  đó 
làm thay đổi đời sống của hộ gia đình theo hướng tích cực hơn. Xuất khẩu  
lao động được xác định là mục tiêu hàng đầu nhằm phát triển kinh tế trước  
mắt của địa phương, xóa nhanh tình trạng đói nghèo trong xã làm tiền đề 
cho sự phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên từ những tác động tích cực thì 
vẫn tồn tại những hạn chế  từ  xuất khẩu lao động như: rủi ro trong xuất 
khẩu lao động, ảnh hưởng tới trật tự xã hội, mối quan hệ gia đình… 
Trước vấn đề đó, khi được điều tra, phỏng vấn thì đại đa số hộ điều 
tra đều tham gia trả lời tích cực về thông tin hộ gia đình, người lao động và 
những thay đổi kể  từ  khi có người xuất khẩu lao động. Tìm hiểu về  tác 
động của xuất  khẩu lao  động  đến  đời sống của người dân? Thì tất cả 
người được hỏi đều trả  lời xuất khẩu lao động có tác động nhất định đến 
sản xuất và cuộc sống gia đình của họ. Chính người lao động cũng thừa 
nhận xuất khẩu lao động cũng tác động đến mối quan hệ, trình độ tay nghề, 
ngoại ngữ của họ khi sang làm việc ở nước ngoài.
Nhận thức được vấn đề này chính quyền xã và người dân xã Nam Cát  



đã và đnag cố  gắng tích cực thực hiện các giải pháp nhằm phát triển xuất  
khẩu lao động và giảm thiểu, ngăn chặn những hạn chế  mà xuất khẩu lao 
động mang lại. Đề tài nêu những định hướng, giải pháp đối với cơ quan nhà  
nước, đối với chính quyền địa phương nhằm phát triển xuất khẩu lao động 
ổn đinh, bền vững hơn. Khuyến khích hộ  gia đình và người lao động nâng 
cao trình  độ, học vấn, tay nghề, nhận thức  đúng  đắn về  xuất khẩu lao  
động… Thực hiện tốt các giải pháp này sẽ  góp phần ngăn ngừa và giảm  
thiểu được những hạn chế, tiêu cực mà xuất khẩu lao động mang lại.


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT
Từ viết tắt

  Ý nghĩa từ viết tắt

XKLĐ

: xuất khẩu lao động

LĐ – TB và XH 

: Lao động  –  Thương binh và Xã 

HĐH 

hội


CNH

: Hiện đại hóa

ILO(International Labour 

: Công nghiệp hóa

Organization)

: Tổ chức Lao động Quốc tế 

IOM(International Organization for 
Migration)

: Tổ chức di dân quốc tế

WB (World Bank) 
ĐH – CĐ          

:  Ngân hàng thế giới

CN – TTCC           

: Đại học – Cao đẳng

UBND           

:  Công nghiệp – Tiểu thủ công 


TH          

nghiệp

THCS        

:  Ủy ban nhân dân

THPT       

: Tiểu học

SL        

: Trung học cơ sở

CC       

: Trung học phổ thông

Trđ          

: Số lượng

CN ­ XD 

: Cơ cấu

TNBQ 


: Triệu đồng
: Công nghiệp ­ xây dựng
: Thu nhập bình quân


DANH MỤC BẢNG


PHẦN I
PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết
Việt Nam là nước đang phát triển, có số dân số hơn 90,5 triệu người,  
đứng thứ 13 trên thế giới, hằng năm với mức tăng trung bình khoảng 1 triệu  
ngýời, là nước có lợi thế về sức lao động. Trong quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát huy  
lợi thế nguồn nhân lực, trao đổi hàng hóa “ Sức lao động’’.  Mặt khác, trong  
điều kiện đất nước ta hiện nay, hơn 70% lao động sống  ở  nông thôn, trình  
độ  chuyên môn tay nghề  thấp, tiền công sức lao động rẻ, sức ép việc làm 
lớn, mỗi năm có khoảng 2,45% người dân cần việc làm. Chính vì vậy, xuất  
khẩu lao động không những là chủ  trương lớn của đảng và nhà nước, mà 
còn là một chiến lược quan trọng lâu dài góp phần giải quyết việc làm cho  
số  người đến độ  tuổi lao động giảm thiểu gánh nặng của quốc gia. Do đó, 
xuất khẩu lao động trở thành vấn đề  cấp thiết có nội dung kinh tế  ­ xã hội 
sâu sắc và liên quan chặt chẽ với các yếu tố  kinh tế khác trong định hướng 
phát triển kinh tế quốc gia.
Xuất khẩu lao động của nước ta bắt đầu từ những năm 1980 thông qua 
hình thức đưa lao động sang các nước xã hội chủ nghĩa là việc theo Hiệp định 
hợp tác quốc tế  về  lao động. Từ  năm 1991 đến nay, xuất khẩu lao động đã  
được chuyển dần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nhà nước theo  

định hướng xã hội chủ nghĩa. Hằng năm số lượng lao động được đưa đi đều  
tăng lên và hiệu quả năm sau đều đạt cao hơn năm trước, hiện nay có khoảng 
hơn 500 ngàn lao động làm việc  ở  41 nước và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu lao  
động đối với nước ta đã thực sự trở thành một giải pháp hữu hiệu đối với công 
cuộc xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống cho một số bộ phận người lao 


động, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Nguồn lợi kinh tế của công tác xuất khẩu 
lao động là rất lớn đã tạo ra những chuyển biến làm thay đổi bộ  mặt nông  
thôn, nâng cao mức sống của nhiều hộ gia đình nông dân.
Xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ  An trong những năm qua, 
cấp  ủy Đảng chính quyền địa phương coi xuất khẩu lao động là môt trong 
những nhiệm vụ  quan trọng góp phần phát triển nhân lực, giải quyết việc  
làm, tạo thu nhập cho người lao động, làm giàu chính đáng, tăng nguồn thu 
ngoại tệ  và cũng là một trong những biện pháp xóa đói giảm nghèo, góp 
phần không nhỏ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Số lao 
động của xã Nam Cát đi xuất khẩu lao động càng ngày càng tăng, nhiều hộ 
gia đình từng là hộ  nghèo nhưng từ khi có lao động đi xuất khẩu đã trở nên 
khá giả  hơn, xây dựng nhà cửa khang trang, mua sắm được các tiện nghi 
sinh hoạt đắt tiền và có vốn ổn định tăng gia sản xuất, kinh doanh nâng cao 
thu nhập. Toàn xã hiện có 700 lao động đang làm việc ở nước và ngoài tập  
trung chủ  yếu  ở  các thị  trường như: Angola, Hàn Quốc, Nhật Bản,  Đài 
Loan, Malaisia… xuất khẩu lao động đem lại nguồn thu nhập cho xã Nam 
Cát mỗi năm hơn 100 tỷ đồng, đời sống người dân được cải thiện đáng kể.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn xã Nam Cát đã  
mang lại nhiều lợi ích, đời sống của người dân được cải thiện một cách rõ 
rệt, nhất là mặt kinh tế  của hộ  gia đình. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích 
của XKLĐ mang lại, thì XKLĐ cũng gây ra một số hệ lụy đến đời sống của 
người dân. Để đánh giá đúng và hiểu rõ hơn mức độ tác động của xuất khẩu 
lao động cụ thể đến đời sống người dân trong xã nên tôi quyết định chọn đề 

tài: “Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người  
dân xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung


Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống về các mặt kinh 
tế ­ văn hóa ­ xã hội của người dân tại xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ 
An.
1.2.2

Mục tiêu cụ thể
­ Góp phần hệ  thống hóa và làm rõ một số  vấn đề  cơ  sở  ly luân và
́ ̣
 

thực tiễn vê xu
̀ ất khẩu lao động.
­ Đánh giá thực trang xu
̣
ất khẩu lao động trên địa bàn xã Nam Cát,  
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
­ Phân tích tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người  
dân trên địa bàn xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
­ Đê xuât m
̀ ́ ục tiêu, định hướng và các giai phap thúc đ
̉
́
ẩy xuất khẩu 
lao động nhằm tăng thu nhập đồng thời giảm thiểu những  ảnh hưởng tiêu 

cực của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân trên địa bàn xã 
Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. 
1.3

 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

­ Tác động của xuất khẩu lao động và đời sống của người dân trước  
và sau khi có xuất khẩu lao động .
­ Khách thể  nghiên cứu là các hộ  gia đình có người đi xuất khẩu lao 
động, các thành viên trong gia đình có người đi xuất khẩu lao động, người  
dân và cán bộ tại địa phương. 
1.3.2  Phạm vi nghiên cứu
­ Phạm vi không gian
Đề  tại được tiến hành nghiên cứu tại xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, 
tỉnh Nghệ An.
­ Phạm vi thời gian
Thông tin, số liệu thứ cấp: từ năm 2011 đến năm 2014.


Thông tin sơ cấp: năm 2015.
Thời gian thực hiện đề tài: từ 14/01/2015 đến 02/06/2015.
­ Phạm vi nội dung
Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến sản xuất và đời sống  
của các hộ gia đình trước và sau khi có xuất khẩu lao động, các hộ gia đình 
có người đi và các hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động.


PHẦN II

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1 Cơ sở lý luận về xuất khẩu lao động
2.1.1

Một số khái niệm

2.1.1.1 Lao động


Lao động
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó tạo ra của  
cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất 
lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, xã 
hội, gia đình và bản thân mỗi người lao động. Bất cứ  một chế  độ  xã hội 
nào, lao động của con người cũng là một trong những yếu tố  quyết định 
nhất, năng động nhất trong sản xuất.Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự 
tồn tại của loài người, là cơ sở của sự tiến bộ kinh tế, vă hóa và xã hội. Nó  
là nhân tố quyết định bất kì quá trình sản xuất nào. Như  vậy động lực của  
quá trình phát triển kinh tế, xã hội quy tụ lại là ở con người, con người với 
lao động sáng tạo của họ đang là vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển  
kinh tế ­ xã hội.
Theo Nguyễn Vân Điềm và Nguyễn Nguyễn Ngọc Quân (2004), lao 
động chính là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm biến  
đổi những vật thể tự nhiên, biến đổi tự nhiên để phù hợp với với mục đích 
nhất định của mình. Lao động là sự vận động của sức lao động, là quá trình 
kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã 
hội, lao động là yếu tố  chủ  yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo  
hình thức đào tạo thì lao động được chia thành lao động đã qua đào tạo nghề 
và lao đông không qua đào tạo nghề.



Lao động đã qua đào tạo nghề
Theo Công văn số  4190 ngày 29/11/2010 của Bộ  lao động – Thương 
binh và Xã hội: Lao động đã qua đào tạo nghề là những người đã hoàn thành 
ít nhất một chương trình đào tạo của một nghề  tại một cơ  sở  dạy nghề 
(gồm cả  các cơ  sở  sản xuất kinh doanh) và được cấp văn bằng chứng chỉ 
nghề hoặc được thừa nhận theo các kiến thức hiện hành. 
Như vậy, lao động qua đào tạo nghề hiện không chỉ  có công nhân kỹ 
thuật được đào tạo từ  trường, lớp dạy nghề, mà bao gồm lao động được 
đào tạo ở 3 cấp trình độ (theo Luật dạy nghề) trong nhà trường và được dạy 
nghề bởi doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề ngoài nhà trường hoặc tự học,  
được truyền nghề và được thừa nhận bởi các quy định hiện hành.
Nhóm lao động chưa qua đào tạo nghề    được hiểu là những người 
chưa có bất kỳ  loại văn bằng chứng chỉ  nghề  nào và thực tế  cũng không  
đảm nhận một công việc nào đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật từ 3 năm trở lên 
hoặc công việc đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật nhưng kinh nghiệm chưa đủ  3 
năm.
Nhóm lao động này thường là đối tượng khó xác định. Theo thống kê lao 
động việc làm hằng năm của Bộ LĐ – TB và XH thì lao động chưa qua đào  
tạo không bằng, không chứng chỉ  là những người tuy chưa qua một trường 
lớp đào tạo nhưng do tự học, do được truyền nghề  hoặc vừa làm vừa học  
nên họ đã có được kỹ năng, tay nghề tương đương với bậc của lao động đã 
qua đào tạo có bằng cùng nghề  và thực tế  đã làm công việc đang làm từ  3  
năm trở lên. 


Sức lao động 
Theo Nguyễn Vân Điềm và Nguyễn Nguyễn Ngọc Quân (2004), sức  
lao động là toàn bộ  những năng lực thể  chất và tinh thần tồn tại trong cơ 

thể, trong một con người đang sống và được đem ra vận dụng mỗi khi sản  


xuất một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con  
người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lýợng  
sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội.


Nguồn nhân lực
Theo David Begg (1995): “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên 
môn mà con người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại  
thu nhập trong tương lai. Cũng giống như  nguồn lực vật chất, nguồn nhân 
lực là kết quả  đầu tư  trong quá khứ  với mục đích đem lại thu nhập trong  
tương lai”.
Theo Phạm Minh Hạc (2007): “Nguồn nhân lực là tổng thể  các tiềm 
năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động 
được chuẩn bị  (ở các mức độ  khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc 
lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói 
chung), bằng con đường đáp  ứng được yêu cầu của cơ  chế  chuyển đổi cơ 
cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH”.
Theo Nguyễn Hữu Dũng (2003):“Nguồn nhân lực được xem xét dưới 
hai góc độ  năng lực xã hội và tính năng động xã hội.  Ở  góc độ  thứ  nhất, 
nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan  
trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã  
hội. Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát 
triển nguồn nhân lực để  đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực xã hội 
của nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy 
nhiên nếu chỉ dừng lại  ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm 
năng đó phải chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn nhân 
lực, tức là nâng cao tính năng động xã hội của con người thông qua các chính 

sách, thể  chế  và giải phóng triệt để  tiềm năng con người. Con người với 
tiềm năng vô tận nếu được tự  do phát triển, tự  do sáng tạo và cống hiến,  


được trả  đúng giá trị  lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác phát  
huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn”.
Như  vậy, xem xét dưới các góc độ  khác nhau có thể  có những khái 
niệm khác nhau về  nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống 
nhất nội dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho 
xã hội. Con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị 
trí hàng đầu, là nguồn lực cơ  bản và nguồn lực vô tận của sự  phát triển  
không thể  chỉ  được xem xét đơn thuần  ở  góc độ  số  lượng hay chất lượng 
mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân 
số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, 
sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Vì vậy, có thể  định nghĩa:  Nguồn nhân lực là tổng thể  số  lượng và  
chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những  
phẩm chất đạo đức –tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và 
xã hội đã, đang và sẽ  huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự  phát  
triển và tiến bộ xã hội.


Lực lượng lao động
Theo  Luật   số  10/2012/QH13: Lực  lượng  lao  động  bao  gồm  những 
người từ 15 tuổi có việc làm và những người thất nghiệp song đang có nhu 
cầu tìm việc làm.



Giá cả lao động

Theo giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin (Vũ Anh Tuấn và Phạm 
Đức Hạnh, năm 2005): Giá cả  lao động (gọi một cách chính xác là giá cả 
của hàng hóa sức lao động) là toàn bộ  số  lượng tiền tệ  mà người sử  dụng 
lao động trả cho người lao động phù hợp với lượng giá trị sức lao động mà 
người đó đã cống hiến, phù hợp với cung cầu về  lao động trên thị  trường 
lao động. Toàn bộ  số  lượng tiền tệ  nói đến  ở  đây là sự  thỏa thuận giữa 


người sử  dụng lao động và người lao động. Đó là tiền lương (tiền công) 
danh nghĩa. Lượng tiền này chưa phản ánh mức sống của người lao động vì 
còn phụ thuộc vào yếu tố giá cả tại thời điểm và khu vực mà người đó tiêu 
dùng. Số lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ  mà người lao động có thể  trao 
đổi (mua) được từ số lượng tiền có thể sử dụng (tiền lương danh nghĩa sau 
khi trừ  đi các khoản thuế, bảo hiểm, chi phí khác theo quy định) là tiền  
lương thực tế. Khi đó, mức sống của người lao động được đánh giá thông 
qua tiền lương thực tế.
2.1.1.2 Xuất khẩu lao động
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu lao động (XKLĐ). Nếu 
như trước đây với thuật ngữ “hợp tác quốc tế lao động” (Nghị quyết số 362/CP 
­ 29/11/1980), XKLĐ được hiểu là sự trao đổi lao động giữa các quốc gia thông 
qua các hiệp định được thoả thuận và ký kết giữa các quốc gia đó hay là sự di 
chuyển lao động có thời hạn giữa các quốc gia một cách hợp pháp và có tổ 
chức. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước XKLĐ, 
còn nước tiếp nhận sử dụng lao động thì được coi là nước nhập khẩu lao động.
Theo ILO (1930) xuất khẩu lao động: Thực chất là xuất khẩu hàng hóa 
sức lao động, được hiểu là sự di chuyển lao động có tổ chức đi làm việc trong 
thời hạn nhất định ở nước ngoài thông qua các hiệp định về XKLĐ và các thỏa 
thuận giữa các quốc gia nhập và xuất khẩu lao động.
Ngày nay với cách sử dụng thống nhất thuật ngữ XKLĐ để nhấn mạnh 
hơn đến tính hiệu quả kinh tế cuả hoạt động này, từ các khái niệm trên có thể 

hiểu: “XKLĐ là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung  ứng  
lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có  
tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động”.


 Trong nền kinh tế  thị  trường, XKLĐ là một hoạt động kinh tế  đối 
ngoại, mang đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất XKLĐ là một hình 
thức di cư quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là sự di cư tạm thời và hợp pháp.
Xuất khẩu lao động ra nước ngoài, thường gọi tắt là xuất khẩu lao 
động, là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động ra nước ngoài 
theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ  cho nhu cầu nhân công lao động của 
doanh nghiệp nước ngoài.
Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó 
diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên là  
người có nhu cầu sử  dụng lao động. Sự  trao đổi này được thoả  thuận trên  
cơ   sở   mối  quan  hệ   lao  động  như  tiền  lương,  tiền  công,   điều  kiện  làm  
việc...thông qua một hợp đồng làm việc bằng văn bản hay bằng miệng.
Khi cung và cầu lao động nảy sinh ngoài biên giới một quốc gia thì  
gọi là thị trường lao động quốc tế. Thị trường lao động quốc tế là bộ  phận 
cấu thành của hệ  thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ  nước này 
có thể  di chuyển sang nước khác thông qua hiệp định, các thỏa thuận giữa 
hai hay nhiều quốc gia trên thế giới.
2.1.1.3 Đánh giá, tác động 


Đánh giá
Theo tổ chức xã hội dân sự thế giới (CIVICUS, 2007): Đánh giá  là quá 
trình đánh giá một cách có hệ thống và khách quan một dự án, chương trình  
hoặc một chính sách đang được thực hiện hoặc đã hoàn thành từ  giai đoạn  
thiết kế đến triển khai và các kết quả đạt được. Mục đích của việc đánh giá 

là để  xác định tính phù hợp và mức độ  hoàn thành các mục tiêu, tính hiệu 
quả, tác động và tính bền vững. Quá trình đánh giá cần cung cấp thông tin 
đáng tin cậy và hữu ích, cho phép lồng ghép những bài học kinh nghiệm vào  
quá trình ra quyết định của các nhà tài trợ và của đối tượng tiếp nhận tài trợ.




Tác động
Theo tổ  chức xã hội dân sự  thế  giới (CIVICUS, 2007): Tác động là 
những hệ  quả  lâu dài của dự  án, chương trình hay hoạt động có thể  là  ảnh 
hưởng tích cực hay là tiêu cực.Tác động đến đời sống người dân là những  
ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân có thể  là cải thiện đời sống hay có  
khi là hạn chế mức sống của người dân sau khi có chương trình hay một dự 
án nào đó.
2.1.2 Các hình thức xuất khẩu lao động
Hình thức xuất khẩu lao động là cách thức thực hiện việc đưa người  
lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn  ở nước ngoài do 
Nhà nước qui định.
Các hình thức đưa lao động Việt Nam ở nước ngoài gồm có: (1) Cung 
ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài; (2) Đưa lao động đi  
làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra  
nước ngoài; (3) Theo hợp đồng lao động giữa các cá nhân người lao động  
với người sử dụng lao động nước ngoài.
          Cung  ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài . Đây là 
trường hợp các tổ chức kinh tế Việt Nam được phép XKLĐ tuyển dụng lao 
động Việt Nam để  đưa đi làm việc  ở  nước ngoài theo hợp đồng cung  ứng 
lao động. Hình thức này tương đối phổ biến, được thực hiện rộng rãi trong  
các năm vừa qua và những năm tới. Đặc điểm của hình thức này là: Tổ chức  
kinh tế  Việt Nam tổ  chức tuyển chọn lao động và chuyên gia Việt Nam đi  

làm việc cho người sử dụng lao động ở  nước ngoài và các yêu cầu về  tiêu  
chuẩn về lao động do phía nước ngoài đặt ra. Quan hệ lao động được điều 
chỉnh bởi pháp luật của nước nhận lao động. Quá trình làm việc  ở  nước 
ngoài, người lao động Việt Nam chịu sự  quản lý trực tiếp của người sử 
dụng lao động nước ngoài, các điều kiện và quyền lợi của người lao động 


do phía nước ngoài bảo đảm. Chính vì vậy, việc thích  ứng của người lao  
động Việt Nam với môi trường lao động nước ngoài có những hạn chế.
Đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở  
nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài. Đây là trường hợp doanh nghiệp tuyển lao 
động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài để  thực hiện hợp  
đồng kinh tế  với bên nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, 
nhận khoán công trình ở  nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh, 
liên kết chia sản phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác ở nước ngoài. Những 
năm vừa qua, hình thức này tuy chưa phổ  biến nhưng theo chủ  trương chủ 
động hội nhập kinh tế  quốc tế  và khu vực, mở  rộng và tăng cường kinh tế 
đối ngoại thì hình thức này sẽ ngày càng  phát triển. Đặc điểm của hình thức 
này là: Việc tuyển người lao  động là để  thực hiện hợp đồng của doanh  
nghiệp Việt Nam; yêu cầu về tiêu chuẩn lao động, các điều kiện lao động do 
doanh nghiệp Việt Nam đặt ra, doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao động có  
thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc uỷ quyền cho doanh nghiệp cung ứng 
lao động tuyển lao động. Doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động đi làm việc ở 
nước ngoài, quản lý, sử dụng lao động ở nước ngoài đảm bảo các quyền lợi  
cho người lao động làm việc  ở  nước ngoài. Do đặc điểm và hình thức sử 
dụng lao động này nên quan hệ lao động tương đối ổn định. Việc giải quyết  
các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động của người lao động khi làm việc 
ở nước ngoài có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, do hợp đồng được thực hiện ở 
nước ngoài nên ít nhiều có sự ảnh hưởng của pháp luật, phong tục tập quán  
của nước ngoài. Ngoài việc tuân thủ  pháp luật Việt Nam, cả  doanh nghiệp 

Việt Nam quản lý sử  dụng lao động  và người lao động Việt Nam còn phải 
tuân thủ các quy định của pháp luật nước ngoài.
Theo hợp đồng lao động giữa các cá nhân người lao động với người  
sử  dụng lao động nước ngoài. Hình thức XKLĐ này  ở  nước ta chưa phổ 


biến vì muốn ký được hợp đồng với phía nước ngoài, người lao động phải  
có những hiểu biết cần thiết về  nhiều mặt như  các thông tin về  đối tác  
nước ngoài, về ngôn ngữ, khả năng giao tiếp với người nước ngoài... Trong  
khi đó, trình độ  hiểu biết các vấn đề  kinh tế, văn hoá, xã hội và pháp luật  
của người lao động Việt Nam còn những hạn chế nhất định.
2.1.3  Đặc điểm của xuất khẩu lao động
          Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế. Bởi vì, nó nhằm thực 
hiện chức năng kinh doanh, thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp,  
đồng thời để  thỏa mãn lợi ích kinh tế  của người lao động đi làm việc  ở 
nước ngoài, góp phần tăng thêm nguồn ngân sách của Nhà nước.
Xuất   khẩu   lao   động   là   một   hoạt   động   thể   hiện   rõ   tính   chất   xã  
hội. Nói xuất khẩu lao động thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách 
khỏi người lao động. Do vậy, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực xuất  
khẩu lao động phải kết hợp với các chính sách xã hội. Phải đảm bảo làm  
sao để  người lao động  ở  nước ngoài được lao động như  đã cam kết trong  
hợp đồng lao động, cần phải có những chế độ  tiếp nhận và sử dụng người  
lao động sau khi họ hoàn thành hợp đồng ở nước ngoài và trở về nước.
Xuất khẩu lao động là sự  kết hợp hài hoà giữa sự  quản lý vĩ mô của  
Nhà nước và sự  chủ  động tự  chịu trách nhiệm của tổ  chức xuất khẩu    lao 
động.
Nếu như  trước đây (giai đoạn 1980 – 1990) Việt Nam tham gia thị 
trường lao động, về  cơ bản Nhà nước vừa quản lý Nhà nước vừa quản lý  
về  hợp tác lao động với nước ngoài, Nhà nước làm thay cho các tổ  chức 
kinh tế về hoạt động xuất khẩu lao động. Ngày nay, trong cơ chế thị trường 

và hội nhập quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu lao động đều 
do các tổ  chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ  sở  hợp đồng đã ký.  
Đồng thời, các tổ chức xuất khẩu lao động phải chịu trách nhiệm hoàn toàn 


về  hiệu quả  kinh tế  trong hoạt động xuất khẩu lao động của mình. Như 
vậy, các hiệp định, các thoả  thuận song phương mà Chính phủ  ký kết chỉ 
mang tính chất nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm của nhà nước ở 
tầm vĩ mô.
Xuất khẩu lao động diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày  
càng gay gắt. Tính gay gắt trong cạnh tranh của xuất khẩu lao động xuất  
phát từ  hai nguyên nhân chủ  yếu. Một là, xuất khẩu lao động mang lại lợi  
ích kinh tế  khá lớn cho các nước đang có khó khăn về  giải quyết việc làm, 
do vậy, đã buộc các nước xuất khẩu lao động phải cố gắng tối đa để chiếm  
lĩnh thị  trường ngoài nước. Hai là, xuất khẩu lao động đang diễn ra trong  
môi trường suy giảm kinh tế trong khu vực: Nhiều nước tr ước đây thu nhận  
nhiều lao động nước ngoài như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…cũng đang 
phải đối đầu với tỉ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Điều này hạn chế rất 
lớn đến việc tiếp nhận lao động và chuyên gia nước ngoài trong thời gian 
những năm đầu của thế kỷ 21.Như vậy, các chính sách và pháp luật của Nhà 
nước cần phải lường trước được tính chất cạnh tranh gay gắt trong xuất  
khẩu lao động để có chương trình đào tạo có chất lượng cao để xuất khẩu.
Xuất khẩu lao động phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ  
xuất khẩu lao động. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, lợi ích kinh tế  của 
Nhà nước là khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về, các khoản thuế, lợi  
ích của các tổ chức xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu là các  
loại phí giải quyết việc làm ngoài nước, còn lợi ích của người lao động là 
khoản thu nhập thường là cao hơn nhiều so với lao động  ở  trong nước. Do 
vậy, các chế  độ  chính sách của Nhà nước phải tính toán sao cho đảm bảo 
được sự hài hoà lợi ích của các bên, trong  đó phải chú ý đến lợi ích trực tiếp 

cuả người lao động.


Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi. Bởi vì, hoạt động 
xuất khẩu phụ  thuộc rất nhiều vào các nước có nhu cầu nhập khẩu lao  
động, do vậycần phải có sự  phân tích toàn diện các dự  án  ở  nước ngoài 
đang và sẽ được thực hiện để xây dựng chính sách đào tạo và chương trình 
đào tạo giáo dục, định hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có những nước nào 
chuẩn bị đội ngũ công nhân với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận  
lợi hơn trong việc chiếm lĩnh thị phần lao động ở ngoài nước và cũng chỉ có 
nước nào nhìn xa, trông rộng, phân tích đánh giá và dự  đoán đúng tình hình  
mới không bị  động trước sự  biến đổi của tình hình đưa ra chính sách đón 
đầu trong hoạt động xuất khẩu lao động.
Không có sự  giới hạn theo không gian đối với hoạt động xuất khẩu  
lao động.  Thị  trường xuất khẩu lao động với một quốc gia xuất khẩu lao 
động càng phong phú và đa dạng bao nhiêu thì càng tốt. Nó làm tăng các loại  
ngoại tệ, giảm rủi ro trong xuất khẩu lao  động và nó cũng thể  hiện khả 
năng cạnh tranh mạnh mẽ của quốc gia đó.
2.1.4 Vai trò của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân
Xuất khẩu lao động đóng một vai trò hết sức quan trọng trong tiến  
trình phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là những nước có nền kinh tế 
chậm và đang phát triển như Việt Nam. 
Xuất khẩu lao động có một vai trò đặc biệt trong việc giải quyết việc  
làm và  ổn định thị  trường lao động. Đối với các quốc gia có nền kinh tế 
chưa phát triển khối lượng việc làm tạo ra trong xã hội là rất hạn chế so với  
khối lượng lao động trong độ  tuổi rất dồi dào của họ  bởi vậy thất nghiệp  
và giải quyết việc làm luôn là vấn đề  đau đầu của các nhà lãnh đạo quốc  
gia.
Ở  Việt Nam, hiện nay có trên 500.000 người lao động và chuyên gia  
làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề. 



×