Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Mô hình tàn tật và nhu cầu phục hồi của bệnh nhân phong bị tàn tật đang quản lý tại tp. HCM năm 2016-2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.61 KB, 9 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

MÔ HÌNH TÀN TẬT VÀ NHU CẦU PHỤC HỒI CỦA BỆNH NHÂN PHONG
BỊ TÀN TẬT ĐANG QUẢN LÝ TẠI TP. HCM NĂM 2016 – 2017
Nguyễn Nhựt Trường*, Tchiu Bích Xuân**, Châu Văn Trở**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định mô hình tàn tật và nhu cầu phục hồi của bệnh nhân phong bị tàn tật.
Đối tượng và phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca. Tổng cộng 105 bệnh nhân phong bị tàn tật được chọn
vào nghiên cứu từ tháng 9/2016 đến tháng 3/2017. Các số liệu được thu thập dựa trên khám lâm sàng, tham khảo
hồ sơ bệnh án, phỏng vấn trực tiếp bằng bảng thu thập các thông tin cá nhân, bảng trắc nghiệm SALSA, bảng
trắc nghiệm P-Scale và bảng đánh giá nhu cầu phục hồi.
Kết quả: Tỉ lệ tàn tật chung độ 1 là 67,6% và độ 2 là 32,4%. Tỉ lệ các mức độ giới hạn hoạt động từ giới hạn
ít, trung bình, nhiều, rất nhiều lần lượt là 33,3%; 5,7%; 2,9% và 5,7%. Tỉ lệ các mức độ hạn chế tham gia từ hạn
chế ít, trung bình, nhiều lần lượt là 10,5%; 9,5% và 6,7%. Tỉ lệ bệnh nhân có nhu cầu hướng dẫn cách theo dõi
kiểm tra và tự chăm sóc, bảo hiểm y tế, tham gia các hoạt động cộng đồng chiếm trên 90%. Trung vị điểm SALSA
và điểm P-Scale của nhóm bệnh nhân tàn tật độ 2 cao hơn bệnh nhân tàn tật độ 1 (p < 0,001). Bệnh nhân tàn tật
độ 1 ít có nhu cầu điều trị tàn tật (p = 0,003, OR = 0,6, KTC 95%: 0,5-0,7) và nhận những dụng cụ trợ giúp (p =
0,008, OR = 0,5, KTC 95%: 0,2-1,5) hơn so với bệnh nhân tàn tật độ 2. Bệnh nhân tàn tật độ 2 có nhu cầu hỗ trợ
việc làm nhiều hơn so với bệnh nhân tàn tật độ 1 (p = 0,016, OR = 2,2, KTC 95%: 1,3-3,7).
Kết luận: Tàn tật độ 2 chiếm khoảng 1/3. Đa số bệnh nhân có nhu cầu hướng dẫn cách theo dõi kiểm tra và
tự chăm sóc, bảo hiểm y tế, tham gia các hoạt động cộng đồng. Bệnh nhân tàn tật độ 2 bị giới hạn hoạt động và
hạn chế tham gia nhiều hơn so với bệnh nhân tàn tật độ 1. Bệnh nhân tàn tật độ 2 có nhu cầu hỗ trợ việc làm, điều
trị tàn tật và nhận những dụng cụ trợ giúp nhiều hơn so với bệnh nhân tàn tật độ 1.
Từ khóa: Phong, mô hình tàn tật, nhu cầu phục hồi.

ABSTRACT
CLINICAL PATTERN OF DISABILITIES AND REHABILITATION NEEDS OF PEOPLE AFFECTED
BY LEPROSY IN HO CHI MINH CITY BETWEEN 2016 AND 2017


Nguyen Nhut Truong, Tchiu Bich Xuan, Chau Van Tro
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 26- 34
Objectives: To determine the clinical pattern of disabilities and rehabilitation needs of people affected by
leprosy.
Methods: Case series. A total of 105 leprosy patients with disabilities were enrolled into the study between
September 2016 and March 2017. The data was collected by examination, collating with medical records.
Participants were interviewed using questionnaires included demographics, screening of activity limitation and
safety awareness (SALSA), participation scale (P-scale) and rehabilitation needs.
Results: 67.6% of participants had grade 1 deformity and 32.4% had grade 2 deformities The results for
activity, 33.3% of participants reported a mild limitation, while 5.7% moderate limitation, 2.9% severe limitation
and 5.7% extremely severe limitation. Regarding restriction to participation, 10.5% of participants showed mild
* Phòng chỉ đạo tuyến Bệnh viện Da Liễu TP.HCM
** Bộ môn Da liễu – Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: TS.BS. Châu Văn Trở
ĐT: 0919042654

26

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018

Nghiên cứu Y học

restriction, 9.5% moderate restriction and 6.7% severe restriction. Over 90% of cases needed self-care skills
training courses, health insurance cards, and to take part in community activities. The median SALSA score and
P-Scale score were higher in patients with grade 2 deformity than grade 1 (p < 0.001). Patients with grade 1

deformity had less need for medical care (p = 0.003, OR = 0.6, 95%CI: 0.5-0.7) and assistive devices (p = 0.008,
OR = 0.5, 95%CI: 0.2-1.5) than grade 2. Patients with grade 2 deformity had greater need for job support than
grade 1 (p = 0.016, OR = 2.2, 95%CI: 1.3-3.7).
Conclusion: One-third of participants had grade 2 deformities. The majority of cases needed self-care skills
training courses, health insurance cards, and to take part in community activities. Patients with grade 2 deformity
were greater limitation in activities and restriction to participation than grade 1. Patients with grade 2 deformity
had greater need for job support, medical care, and assistive devices than grade 1.
Keywords: Leprosy, disabilities, rehabilitation needs

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phong là một bệnh lây mãn tính do vi khuẩn
Mycobacterium leprae gây ra, bệnh biểu hiện ở da
và thần kinh ngoại biên. Bệnh phong không
được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và thích
hợp, người bệnh sẽ bị suy giảm hoặc mất chức
năng thần kinh dẫn đến tàn tật nặng nề, làm hạn
chế khả năng lao động và sinh hoạt bình thường,
gây ảnh hưởng xấu đến tâm tư tình cảm, quan
hệ xã hội và là nguồn gốc của nhiều thành kiến
sai lầm. Vì những lẽ đó, tuy số người mắc bệnh
phong trong cộng đồng không cao, nhưng các
tác hại về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý,
tình cảm lại không nhỏ. Việt Nam không chỉ đơn
giản coi đó là một bệnh lây lan, mà là một "bệnh
xã hội", nghĩa là một bệnh phát sinh, phát triển
trong những điều kiện xã hội nhất định, gây tác
hại trực tiếp đến đời sống xã hội và toàn xã hội
phải có trách nhiệm phòng chống bệnh phong.
Việt Nam đã đạt mục tiêu loại trừ bệnh
phong không còn là một vấn đề y tế cộng đồng

do Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) khuyến cáo
ở cấp quốc gia vào năm 1995. Đến năm 2015 đã
có 63/63 tỉnh, thành phố trong cả nước đạt được
4 tiêu chí loại trừ bệnh phong theo thông tư
17/2013/TT-BYT ngày 06/6/2013 của Bộ Y tế.
Chương trình phòng chống bệnh phong sau khi
đã tiến hành loại trừ vào năm 2015 không còn là
chương trình mục tiêu quốc gia nữa mà đã
chuyển vào một phần trong chương trình mục
tiêu Dân số và Y tế, vì vậy các nguồn lực ngày
càng giảm, số bệnh nhân phong mới phát hiện

ngày càng ít đi, những người bệnh phong còn
đang quản lý ít thay đổi, chủ yếu là những người
bị tàn tật do bệnh phong hay còn gọi là người
khuyết tật do phong. Khuyết tật do bệnh phong
cũng như những khuyết tật khác, đây là căn
nguyên của sự mặc cảm, rụt rè trong cuộc sống,
bệnh nhân ít có nhu cầu tham gia vào các vấn đề
của xã hội. Nhìn thấy vấn đề đó trong bệnh nhân
phong tàn tật, chương trình phòng chống bệnh
phong theo xu hướng hiện nay chúng ta sẽ đầu
tư nhiều hơn cho phục hồi chức năng và phục
hồi kinh tế xã hội, giúp người khuyết tật do
phong hạn chế tàn phế và giúp họ có thể tự tin
hòa nhập cộng đồng. Hiện nay, tại Việt Nam có
nhiều nghiên cứu về người khuyết tật do bệnh
phong nhưng chưa có công trình nghiên cứu về
nhu cầu phục hồi của người khuyết tật do phong
về chức năng cũng như phục hồi kinh tế xã hội.

Nhằm có lộ trình can thiệp những nhu cầu phục
hồi chức năng cũng như phục hồi kinh tế xã hội
của những người tàn tật do bệnh phong gây ra
nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Mô
hình tàn tật và nhu cầu phục hồi của bệnh nhân
phong bị tàn tật đang quản lý tại TP.HCM năm
2016-2017” với mục tiêu:
Xác định mô hình tàn tật của bệnh nhân
phong.
Xác định các giới hạn hoạt động và nhận
thức về sự an toàn, hạn chế tham gia của bệnh
nhân phong bị tàn tật.
Xác định nhu cầu phục hồi của bệnh nhân
phong bị tàn tật.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018

27


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Tìm mối liên lạc giữa độ tàn tật với giới hạn
hoạt động, hạn chế tham gia và nhu cầu phục
hồi của bệnh nhân phong bị tàn tật.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đây là nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca. Tổng

cộng 105 bệnh nhân phong bị tàn tật đang được
đăng ký quản lý tại TP.HCM được chọn vào
nghiên cứu từ tháng 9/2016 đến tháng 3/2017.
Nghiên cứu được tiến hành tại các cơ sở y tế địa
phương quản lý bệnh phong trên địa bàn
TP.HCM. Nhóm nghiên cứu gặp trực tiếp từng
bệnh nhân phong bị tàn tật trong quận, huyện
của mình quản lý, khám thực thể, ghi rõ độ tàn
tật theo phân loại WHO, vị trí tàn tật, xem hồ sơ
bệnh án và các sổ sách liên quan để đối chiếu.
Sau đó, bệnh nhân được phỏng vấn ghi nhận:
các thông tin cá nhân, bảng trắc nghiệm đánh giá
giới hạn hoạt động và nhận thức về sự an toàn
SALSA (Screening of Activity Limitation and
Safety Awareness scale), bảng trắc nghiệm đo độ
tham gia P-Scale (Participation scale) và bảng
đáng giá nhu cầu phục hồi.
Xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm
SPSS 20.0. Phân tích số liệu bằng phép kiểm Chi
bình phương hay phép kiểm Fisher’s chính xác
để so sánh các tỉ lệ. Sử dụng phép kiểm
Independent-Samples T để so sánh hai số trung
bình. Nếu biến định lượng không tuân theo
phân phối chuẩn thì sử dụng các phép kiểm phi
tham số. Các kiểm định có p < 0,05 được xem là
có ý nghĩa thống kê.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Một số đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 51,1 ± 14,0

tuổi, nhỏ nhất là 19 tuổi, lớn nhất là 83 tuổi, bao
gồm 4 nhóm tuổi: 15-29 tuổi, 30-44 tuổi, 45-59
tuổi, từ 60 tuổi trở lên với tỉ lệ lần lượt là: 7,6%;
21,0%; 49,5%; 21,9%. Tỉ lệ bệnh nhân nam chiếm
78,1%. Trình độ học vấn bao gồm 4 nhóm: bậc
tiểu học, bậc trung học cơ sở, bậc phổ thông
trung học, bậc cao đẳng - đại học với tỉ lệ lần lượt
là: 31,4%; 50,5%; 17,1%, 1,0%. Về nghề nghiệp, tỉ

28

lệ bệnh nhân thất nghiệp chiếm 26,7%, nhóm lao
động tay chân chiếm 44,8%, nhóm lao động trí óc
chiếm 10,5%, nhóm nghề nghiệp khác như: về
hưu, nội trợ chiếm 18,0%. Đối với tình trạng hôn
nhân, nhóm có gia đình chiếm tỉ lệ cao nhất
54,3%, nhóm chưa kết hôn chiếm 31,4%, nhóm
đã ly hôn/ly thân chiếm 11,4%, nhóm ở góa
chiếm 2,9%.
Mô hình tàn tật của bệnh nhân phong tại
TP.HCM
Theo phân loại của WHO, thể bệnh được
chia thành hai nhóm: nhóm nhiều khuẩn (MB)
chiếm tỉ lệ 73,3% và nhóm ít khuẩn (PB) chiếm
26,7%. Về giai đoạn quản lý, đa số bệnh nhân ở
giai đoạn hoàn thành giám sát còn chăm sóc tàn
tật chiếm 90,5%, nhóm trong giai đoạn giám sát
sau điều trị chiếm 7,6%, còn lại là nhóm trong
giai đoạn đa hóa trị liệu chiếm 1,9%.


Nhận xét: Tỉ lệ tàn tật chung độ 1 chiếm
67,6% và độ 2 chiếm 32,4%.
Giới hạn hoạt động và nhận thức về sự an toàn,
hạn chế tham gia của bệnh nhân phong bị tàn
tật
Tỉ lệ bệnh nhân tàn tật không bị giới hạn
hoạt động là 52,4%. Tỉ lệ các mức độ giới hạn
hoạt động từ giới hạn ít, trung bình, nhiều, rất
nhiều lần lượt là 33,3%, 5,7%, 2,9% và 5,7%.
Bảng 1: Mối liên lạc giữa độ tàn tật và giới hạn hoạt
động
Điểm SALSA
Trung vị điểm
(Bpv thứ 25 và thứ 75)

Độ tàn tật
p
Độ 1
Độ 2
21
33
< 0,001
(20 - 26) (23 - 45)

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Nhận xét: Trung vị điểm SALSA của nhóm
bệnh nhân tàn tật độ 2 cao hơn bệnh nhân tàn tật

độ 1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

Nghiên cứu Y học

Bảng 2: Mối liên lạc giữa độ tàn tật và hạn chế tham
gia
Điểm P-Scale

Tỉ lệ bệnh nhân không bị hạn chế tham gia
cộng đồng là 73,3%. Tỉ lệ các mức độ hạn chế
tham gia cộng đồng từ hạn chế ít, trung bình,
nhiều lần lượt là 10,5%, 9,5% và 6,7%.

Trung vị điểm
(Bpv thứ 25 và thứ 75)

Độ tàn tật
Độ 1
Độ 2
3
12,5
(0 – 9) (6 – 27)

p
<0,001

Nhận xét: Trung vị điểm P-Scale của nhóm
bệnh nhân tàn tật độ 2 cao hơn bệnh nhân tàn tật
độ 1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).


Nhu cầu phục hồi sức khỏe, kinh tế xã hội của bệnh nhân phong bị tàn tật
Bảng 3: Nhu cầu phục hồi sức khỏe, kinh tế xã hội
Nhu cầu
Được hướng dẫn
Cần thiết
Đã được điều trị
Cần thiết
Đã được nhận
Cần thiết
Đã được hỗ trợ
Cần thiết
Có sổ hộ nghèo
Cần thiết
Đã được trợ cấp
Cần thiết
Đủ tiêu chuẩn
Cần thiết sửa
Đã có
Cần thiết
Có con đang học
Cần thiết
Có tham gia
Cần thiết
Có đến
Cần thiết
Có tham dự
Cần thiết

1. Hướng dẫn cách theo dõi kiểm tra và tự chăm sóc
2. Điều trị tàn tật: phẫu thuật, vật lý trị liệu…

3. Nhận những dụng cụ trợ giúp
4. Hỗ trợ việc làm
5. Tham gia chương trình xóa đói giảm nghèo
6. Trợ cấp xã hội
7. Nhà ở đủ tiêu chuẩn từ cấp 4
8. Bảo hiểm y tế
9. Hỗ trợ cho việc học văn hóa của con em
10. Tham gia vào các hoạt động xã hội giải trí
11. Đến những nơi công cộng
12. Tham dự vào những lễ hội, lễ nghi quan trọng

Số ca
103
103
89
89
87
87
0
13
14
23
9
29
103
3
63
101
29
29

58
97
78
101
87
102

Tỉ lệ (%)
98,1
98,1
84,8
84,8
82,9
82,9
0,0
12,4
13,3
21,9
8,6
27,6
98,1
2,9
60,0
96,2
27,6
27,6
55,2
92,4
74,3
96,2

82,9
97,1

Nhận xét: Phần lớn (hơn 90%) bệnh nhân đều có nhu cầu hướng dẫn cách theo dõi kiểm tra và tự
chăm sóc, bảo hiểm y tế, tham gia các hoạt động cộng đồng.
Bảng 4: Mối liên lạc giữa độ tàn tật và nhu cầu phục hồi
Nhu cầu
1. Hướng dẫn cách theo dõi kiểm tra và
tự chăm sóc
2. Điều trị tàn tật: phẫu thuật, vật lý trị
liệu…
3. Nhận những dụng cụ trợ giúp
4. Hỗ trợ việc làm

Cần thiết
Không
Cần thiết
Không
Cần thiết
Không
Cần thiết
Không

Độ tàn tật
Độ 1(n=71)
Độ 2(n=34)
69
34
2
0

55
34
16
0
54
33
17
1
5
8
66
26

P

ORKTC 95%
P >0,05

0,003

0,6 (0,5-0,7)

0,008

0,5 (0,2-1,5)

0,016

2,2 (1,3-3,7)


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018

29


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nhu cầu
5. Tham gia chương trình xóa đói giảm
nghèo
6. Trợ cấp xã hội
7. Sửa chữa nhà ở

8. Bảo hiểm y tế
9. Hỗ trợ cho việc học văn hóa của con
em
10. Tham gia vào các hoạt động xã hội
giải trí
11. Đến những nơi công cộng
12. Tham dự vào những lễ hội, lễ nghi
quan trọng

Cần thiết
Không
Cần thiết
Không
Cần thiết
Không

Cần thiết
Không
Không
Cần thiết
Không
Cần thiết
Không
Cần thiết
Không
Cần thiết
Không

Nhận xét: Bệnh nhân tàn tật độ 1 có nhu cầu
điều trị tàn tật chỉ bằng khoảng 60% bệnh nhân
tàn tật độ 2 (p = 0,003, OR = 0,6, KTC 95%: 0,5 0,7). Bệnh nhân tàn tật độ 1 khả năng ít có nhu
cầu nhận những dụng cụ trợ giúp hơn so với
bệnh nhân tàn tật độ 2 (p = 0,008, OR = 0,5, KTC
95%: 0,2-1,5). Bệnh nhân tàn tật độ 2 khả năng có
nhu cầu hỗ trợ việc làm nhiều hơn gấp 2,2 lần
bệnh nhân tàn tật độ 1 (p = 0,016, OR = 2,2, KTC
95%: 1,3-3,7). Không có mối liên lạc có ý nghĩa
thống kê giữa độ tàn tật và các nhu cầu phục hồi
còn lại.

BÀN LUẬN
Mô hình tàn tật của bệnh nhân phong tại
TP.HCM
Tỉ lệ tàn tật ở mắt chiếm 6,7%, tàn tật độ 1 là
1,9% và độ 2 là 4,8%. Nghiên cứu của Lê Thị
Thanh Trúc có tỉ lệ tàn tật ở mắt là 4,5%(4).

Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Tân có tỉ lệ tàn
tật ở mắt độ 2 là 5,88%(7). Nghiên cứu của Khapre
MP ghi nhận tỉ lệ tàn tật ở mắt độ 2 là 6/100 ca(3).
Nghiên cứu của Hoàng Nguyên Duy có tỉ lệ tàn
tật độ 2 ở mắt phải là 7,8% và mắt trái là 5,4%(2).
Nghiên cứu của Ngô Thanh Tân có tỉ lệ tàn tật
độ 1 ở mắt phải và trái là 0,4%, tàn tật độ 2 ở mắt
phải là 8,2% và mắt trái là 7,3%(6). Nhìn chung, tỉ
lệ tàn tật mắt ở bệnh nhân phong khá thấp. Mắt

30

Độ tàn tật
Độ 1(n=71)
Độ 2(n=34)
12
11
59
23
17
12
54
22
2
1
69
33
67
34
4

0
2
1
23
6
48
28
64
33
7
1
69
32
2
2
69
33
2
1

P

ORKTC 95%
P > 0,05

P > 0,05

P > 0,05

có thể tổn thương do biến chứng thần kinh, viêm

dây thần kinh mặt hay dây thần kinh V; do sự
xâm lấn phần trước nhãn cầu của Mycobacterium
leprae hay do phản ứng phong. Mất cảm giác của
giác mạc thường gặp trong tổn thương mắt ở
bệnh nhân phong. Do đó bệnh nhân phong dù
chưa có biểu hiện tổn thương thực thể tại mắt thì
cũng cần phải được khám mắt thường qui để
được phát hiện sớm tổn thương, điều trị và
phòng ngừa hậu quả nặng nề về sau. Người thầy
thuốc giúp cho bệnh nhân hiểu và biết cách tự
chăm sóc đôi mắt của họ, có như thế mới phòng
tránh được hậu quả nặng nề về sau. Như vậy,
bệnh nhân sẽ tránh chịu cảnh mù lòa.
Tỉ lệ tàn tật ở bàn tay chiếm 59,0%, tàn tật độ
1 là 39,0% và độ 2 là 20,0%. Một số nghiên cứu
ghi nhận tỉ lệ tàn tật ở bàn tay thấp hơn so với
chúng tôi. Nghiên cứu của Lê Thị Thanh Trúc
trên bệnh nhân phong bị tàn tật có tỉ lệ tàn tật ở
bàn tay chỉ chiếm 9,1%(4). Nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Tân ghi nhận tỉ lệ tàn tật ở bàn
tay là 47,06%(7). Nghiên cứu của Ngô Thanh Tân
có tỉ lệ tàn tật độ 1 ở tay phải là 3,0% và tay trái là
2,2%, tàn tật độ 2 ở tay phải là 50,4% và tay trái là
53,0%(6). Nghiên cứu của Hoàng Nguyên Duy có
tỉ lệ tàn tật độ 1 ở tay phải là 2% và tay trái là
1,5%, tàn tật độ 2 ở tay phải là 58,3% và tay trái là
55,8%(2). Khi bàn tay mất cảm giác một thời gian

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
dài, nếu bệnh nhân không biết tự chăm sóc, bàn
tay dễ bị thương tích: vết loét, vết thương,
phỏng…Bệnh nhân cần được hướng dẫn cách tự
chăm sóc, xử trí vết thương để tránh hậu quả
nặng nề về sau. Ngoài ra, các kỹ thuật vật lý trị
liệu cũng cần được hỗ trợ và phổ biến đến cho
bệnh nhân.
Tỉ lệ tàn tật ở bàn chân chiếm 69,5%, tàn tật
độ 1 là 50,5% và độ 2 là 19,5%. Nghiên cứu của
Lê Thị Thanh Trúc có tỉ lệ tàn tật ở bàn chân là
54,5%(4). Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Tân ghi
nhận tỉ lệ tàn tật ở bàn chân là 64,7%(7). Nghiên
cứu của Ngô Thanh Tân có tỉ lệ tàn tật độ 1 ở
chân phải là 6,9% và chân trái là 6,5%, tàn tật độ
2 ở chân phải là 56,9% và chân trái là 53,9%(6).
Nghiên cứu của Hoàng Nguyên Duycó tỉ lệ tàn
tật độ 1 ở chân phải là 3% và chân trái là 3,5%,
tàn tật độ 2 ở chân phải là 48,5% và chân trái là
52,9%(2). Cũng như bàn tay, bàn chân mất cảm
giác một thời gian dài, nếu bệnh nhân không biết
tự chăm sóc sẽ dễ bị thương tích: vết loét, vết
thương, phỏng, viêm nhiễm và đặc biệt là lỗ đáo.
Bệnh nhân cần được hướng dẫn cách tự chăm
sóc, xử trí thương tích để tránh hậu quả nặng nề
về sau. Các kỹ thuật vật lý trị liệu cũng cần được
hỗ trợ và phổ biến đến cho bệnh nhân.
Về phân độ tàn tật chung, tỉ lệ tàn tật độ 2
chiếm 32,4%. Một số nghiên cứu khảo sát trên

bệnh nhân phong bị tàn tật ghi nhận tỉ lệ này cao
hơn nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu của
Lê Thị Thanh Trúc tại các tỉnh phía nam có tỉ lệ
tàn tật độ 2 là 65,9%(4). Nghiên cứu của Nguyễn
Thanh Tân tại Tây nguyên ghi nhận tỉ lệ này là
31/34 ca(7). Giảm tỉ lệ tàn tật độ 2 chính là một
trong những tiêu chuẩn loại trừ bệnh phong của
Bộ Y Tế, với mục tiêu tỉ lệ người bệnh phong
mới bị tàn tật độ 2 dưới 15%. Theo báo cáo tổng
kết Bệnh viện Da Liễu TP.HCM năm 2016, tỉ lệ
tàn tật nặng trong bệnh nhân phong mới tại
TP.HCM ghi nhận được là 9%. Mục tiêu của
chương trình hành động phòng chống bệnh
phong không chỉ chú trọng đến gánh nặng về
bệnh mà còn là hiệu quả kinh tế khi giảm được
tình trạng tàn tật. Do đó, bệnh cần được chẩn

Nghiên cứu Y học

đoán sớm để phát hiện ra tàn tật độ 1 và phòng
tránh được tật độ 2 về sau, đây là tình trạng khó
điều trị và hồi phục. Theo chương trình hành
động phòng chống bệnh phong, phòng ngừa tàn
tật và phục hồi bao gồm: chẩn đoán và điều trị
sớm, chức năng thần kinh phải được đánh giá,
khuyến cáo dùng steroids để điều trị phản ứng
phong và tổn hại chức năng thần kinh, giáo dục
và hỗ trợ bệnh nhân tự chăm sóc, hướng dẫn sử
dụng giày dép thích hợp.
Giới hạn hoạt động và nhận thức về sự an toàn,

hạn chế tham gia của bệnh nhân phong bị tàn
tật
Nghiên cứu ghi nhận được hơn một nửa
(52,4%) số bệnh nhân không bị giới hạn hoạt
động. Tỉ lệ các mức độ giới hạn hoạt động từ
giới hạn ít, trung bình, nhiều, rất nhiều lần
lượt là 33,3%, 5,7%, 2,9% và 5,7%. Nghiên cứu
của Lê Thị Thanh Trúc ghi nhận 40,9% số bệnh
nhân không bị giới hạn hoạt động; tỉ lệ các
mức độ giới hạn hoạt động từ giới hạn ít,
trung bình, nhiều lần lượt là 54,5%, 2,3% và
2,3%(4). Nghiên cứu của chúng tôi và của tác
giả Lê Thị Thanh Trúc đều cùng khảo sát trên
bệnh nhân phong bị tàn tật thấy rằng tỉ lệ
bệnh nhân không bị giới hạn hoạt động khá
cao và dù có giới hạn hoạt động thì cũng ở
mức độ nhẹ. Do đó, không phải bệnh nhân bị
tàn tật đều bị giới hạn hoạt động hằng ngày.
Những bệnh nhân này đã thích nghi với
những thay đổi và biến dạng của cơ thể mình,
cảm thấy đây không phải là trở ngại khi tham
gia hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên, nghiên
cứu của Rodrigues NC tại vùng đông nam
Brazil có 91,2% bị tàn tật ghi nhận chỉ có 25,0%
số bệnh nhân không bị giới hạn hoạt động; tỉ
lệ các mức độ giới hạn hoạt động từ giới hạn
ít, trung bình, nhiều, rất nhiều lần lượt là
29,4%, 23,5%, 17,6% và 4,4%(8). Nghiên cứu của
V.T.C. de Souza tại bang Sergipe thuộc Brazil
có 72,0% bệnh nhân bị tàn tật ghi nhận 33,3%

số bệnh nhân không bị giới hạn hoạt động; tỉ
lệ các mức độ giới hạn hoạt động từ giới hạn
ít, trung bình, nhiều, rất nhiều lần lượt là

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018

31


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

33,3%, 14,0%, 11,1% và 8,3%(1). Nghiên cứu của
S. M. T. Nardi tại Sao Paulo,Brazil có 32,0%
bệnh nhân bị tàn tật ghi nhận 42,2% số bệnh
nhân không bị giới hạn hoạt động; tỉ lệ các
mức độ giới hạn hoạt động từ giới hạn ít,
trung bình, nhiều, rất nhiều lần lượt là 39,0%,
9,9%, 6,3% và 2,7%(5). Các nghiên cứu tại Brazil
có tỉ lệ bệnh nhân bị giới hạn hoạt động nhiều
hơn nghiên cứu của chúng tôi và bị giới hạn
mức độ trung bình-nhiều cũng cao hơn.
Nguyên nhân có thể do nhận thức, cách suy
nghĩ và đời sống sinh hoạt khác nhau giữa các
quốc gia.
Trung vị điểm SALSA của nhóm bệnh
nhân tàn tật độ 2 cao hơn bệnh nhân tàn tật độ
1(p < 0,001). Một số nghiên cứu cũng ghi nhận
kết quả tương tự. Nghiên cứu của Lê Thị

Thanh Trúc ghi nhận bệnh nhân tàn tật độ 2 có
trung bình điểm SALSA cao hơn có ý nghĩa so
với nhóm bệnh nhân tàn tật độ 1 (p = 0,032)(4).
Nghiên cứu của V.T.C. de Souza gồm 72,0%
bệnh nhân phong bị tàn tật cũng ghi nhận
nhóm bệnh nhân bị độ tàn tật càng nặng thì có
điểm SALSA càng cao (p < 0,01)(1). Nghiên cứu
của S. M. T. Nardi ghi nhận bệnh nhân phong
bị tàn tật càng nặng thì càng bị giới hạn hoạt
động (p < 0,001)(5). Bệnh nhân tàn tật độ 1 chỉ
bị ảnh hưởng đến chức năng cảm giác, không
có thương tích hay biến dạng nhìn thấy được,
thị lực giảm nhưng không bị tổn hại nặng nên
các hoạt động hằng ngày của bệnh nhân ít bị
ảnh hưởng. Bảng trắc nghiệm SALSA là công
cụ giúp đánh giá giới hạn hoạt động đơn giản,
nhanh chóng, dễ hiểu đối với mọi người sau
khi được phỏng vấn viên giải thích cẩn thận.
Mặc dù đây không phải là công cụ duy nhất
cung cấp những hiểu biết thêm về ảnh hưởng
của bệnh phong nhưng có thể giúp ích rất
nhiều trongcác chiến lược của y tế công cộng,
từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân phong(5).
Nghiên cứu ghi nhận được gần 3/4 (73,3%)
bệnh nhân không bị hạn chế tham gia cộng
đồng; tỉ lệ các mức độ hạn chế tham gia từ hạn

32


chế ít, trung bình, nhiều lần lượt là 10,5%,
9,5% và 6,7%. Nghiên cứu của Lê Thị Thanh
Trúc ghi nhận chỉ 34,1% bệnh nhân không bị
hạn chế tham gia cộng đồng; tỉ lệ các mức độ
hạn chế tham gia từ hạn chế ít, trung bình,
nhiều, rất nhiều lần lượt là 27,3%; 16,3%;
20,5%; 4,5%(4). Nghiên cứu của tác giả Lê Thị
Thanh Trúc có tỉ lệ bệnh nhân bị hạn chế tham
gia cộng đồng nhiều hơn so với nghiên cứu
của chúng tôi. Nguyên nhân có thể do nghiên
cứu của tác giả Lê Thị Thanh Trúc có tỉ lệ tàn
tật độ 2 cao gấp hai lần nghiên cứu của chúng
tôi, mức độ tàn tật càng nặng thì càng ảnh
hưởng đến việc tham gia cộng đồng. Nghiên
cứu của chúng tôi cũng đã minh chứng được
điều này.Một số nghiên cứu trên thế giới ghi
nhận tỉ lệ bệnh nhân không bị hạn chế tham
gia cộng đồng dao động từ 38,7% đến
58,0%(1,8,9,10).
Trung vị điểm P-Scale của nhóm bệnh
nhân tàn tật độ 2 cao hơn bệnh nhân tàn tật độ
1 ((p < 0,001). Nghiên cứu của S. Singh cũng
ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa tình trạng tàn tật và hạn chế tham gia
cộng đồng (p < 0,001)(9). Qua phỏng vấn, chúng
tôi ghi nhận một số nguyên nhân dẫn đến việc
hạn chế tham gia cộng đồng của bệnh nhân
phong: sự kỳ thị của xã hội đối với bệnh
phong khiến bệnh nhân không muốn nhiều
người biết về tình trạng bệnh của mình, bệnh

nhân có tâm lý muốn che giấu bệnh, tình trạng
tàn tật khiến bệnh nhân không có khả năng
làm nhiều việc và tốc độ làm việc cũng chậm,
bệnh nhân cảm thấy lo lắng khi người khác sẽ
sợ hãi và xa lánh vì thấy mình bị tàn tật, cảm
thấy không thoải mái khi gặp người mới.
Nhu cầu phục hồi sức khỏe, kinh tế xã hội của
bệnh nhân phong bị tàn tật
Qua khảo sát, chúng tôi ghi nhận 98,1% số
bệnh nhân được nhân viên y tế hướng dẫn cách
theo dõi kiểm tra và tự chăm sóc, các bệnh nhân
này đều thấy cần thiết. Tại bệnh viện Da liễu
TP.HCM, hằng năm chúng tôi đều tổ chức các
lớp tập huấn cán bộ phụ trách chương trình

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
phong tuyến quận huyện và tuyến phường xã
(một lớp tuyến quận, huyện và năm lớp tuyến
phường, xã) nhằm nâng cao kỹ năng quản lý,
phát hiện sớm bệnh nhân, phòng chống tàn tật
và hướng dẫn bệnh nhân phong cách tự chăm
sóc. Sau đó, tất cả các bệnh nhân phong bị tàn tật
đều được nhân viên y tế địa phương hướng dẫn
lại cho từng cá nhân về cách tự chăm sóc trong
những lần tái khám.
Ngoài ra, 84,8% số bệnh nhân được điều trị
tàn tật; 82,9% số bệnh nhân được nhận những

dụng cụ trợ giúp và các bệnh nhân này đều thấy
cần thiết. Các dịch vụ phục hồi chức năng có vai
trò rất quan trọng và thiết yếu đối với bệnh nhân
phong bị tàn tật. Tại bệnh viện Da liễu TP.HCM,
hoạt động phẫu thuật cho bệnh nhân phong
mang lại kết quả cao, điều trị lành sẹo lỗ đáo
viêm xương tương đối tốt, thực hiện chăm sóc lỗ
đáo tích cực cho bệnh nhân, hướng dẫn cho
bệnh nhân cách tự chăm sóc. Hoạt động phẫu
thuật, vật lý trị liệu giúp cho bệnh nhân cải thiện
chức năng lao động, tái hoà nhập xã hội, giảm
thành kiến của cộng đồng.
Không có bệnh nhân nào trong nghiên cứu
được hỗ trợ việc làm và có 12,4% số bệnh nhân
cần được hỗ trợ việc làm. Các bệnh nhân này
hiện đang thất nghiệp, tình trạng tàn tật là rào
cản chính khiến họ không thể lao động nặng hay
xin việc làm. Đối với người khuyết tật, nghề
nghiệp và việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế
mà còn có tác động tích cực đến sự tự chủ, tự tin,
khẳng định giá trị bản thân và hòa nhập cộng
đồng. Do đó cần có những chính sách và hoạt
động hỗ trợ cụ thể cho các đối tượng này.
Có 13,3% số bệnh nhân thuộc diện xóa đói
giảm nghèo của địa phương và 21,9% số bệnh
nhân cảm thấy cần thiết được tham gia vào
chương trình xóa đói giảm nghèo. Bệnh nhân tàn
tật do phong chủ yếu trong độ tuổi lao động, là
một trong những lao động chính trong gia đình,
tình trạng tàn tật đã làm hạn chế kinh tế gia đình

của họ.

Nghiên cứu Y học

Có 8,6% số bệnh nhân được nhận trợ cấp xã
hội và 27,6% số bệnh nhân cảm thấy cần thiết
được nhận trợ cấp xã hội. Những bệnh nhân bị
tàn tật cần được hướng dẫn để họ biết về các quy
phạm pháp luật và chính sách chăm lo cho
người khuyết tật, trong đó có chế độ được
hưởng trợ cấp xã hội. Bên cạnh đó, các cộng tác
viên tại địa phương nên hỗ trợ, hướng dẫn bệnh
nhân làm các thủ tục cần thiết để được hưởng
trợ cấp.
Chỉ 1,9% số bệnh nhân có nhà ở không đủ
tiêu chuẩn từ cấp 4 và 2,9% số bệnh nhân cảm
thấy cần thiết sửa chữa.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 60% số
bệnh nhân có bảo hiểm y tế và 96,2% bệnh nhân
đều cần bảo hiểm y tế. Bảo hiểm y tế có được do
bệnh nhân mua tự nguyện, cơ quan hay chủ cơ
sở mua cho, mua trong nhà trường, được cấp
cho cán bộ hưu trí hay hộ nghèo. Một số bệnh
nhân do không đủ điều kiện kinh tế mua bảo
hiểm tự nguyện theo hộ gia đình nên họ không
có bảo hiểm y tế dù cảm thấy cần thiết.
Đối với con em của bệnh nhân, 27,6% số
bệnh nhân có con em đang học văn hóa, tất cả
con em của họ đều được học hành và những
bệnh nhân này đều thấy cần được hỗ trợ cho

việc học văn hóa của con em. Nên chăng cần có
sự tham gia phối hợp của các cấp, các ngành liên
quan trong công tác hỗ trợ cho việc học văn hóa
của con em người tàn tật.
Về phương diện tham gia cộng đồng, có
44,8% số bệnh nhân ít hay không được tham gia
vào các hoạt động xã hội giải trí, 25,7% ít hay
không đến những nơi công cộng, 17,1% ít hay
không tham dự vào những lễ hội chính và lễ
nghi quan trọng, đa số họ đều thấy việc tham gia
cộng đồng là cần thiết. Tình trạng tàn tật là một
rào cản khiến bệnh nhân không đủ sức khỏe để
tham gia một số hoạt động trong cộng đồng.Mặt
khác, một số người còn mang tư tưởng bị kỳ thị
và tự kỳ thị nên họ trở nên thụ động trong các
quan hệ giao tiếp với xã hội bên ngoài, mặc dù
họ đều có nhu cầu tham gia cộng đồng. Vậy nên,

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018

33


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

bệnh viện Da liễu TP.HCM kết hợp với Trung
tâm Da Liễu Tiền Giang mở một lớp nâng cao
năng lực cho những người khuyết tật do phong

của 4 tỉnh: TP.HCM, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến
Tre với chủ đề “Tự tin hòa nhập cộng đồng” do
chuyên gia về tâm lý thuộc trường Khoa học Xã
hội Nhân Văn hướng dẫn. Khóa học này đã giúp
cho nhiều người khuyết tật có nghị lực hơn, tự
tìm kiếm việc làm và hòa nhập xã hội.
Qua khảo sát mối liên lạc giữa độ tàn tật và
các nhu cầu phục hồi của bệnh nhân phong,
chúng tôi ghi nhận được bệnh nhân tàn tật độ 1
khả năng ít có nhu cầu điều trị tàn tật (p = 0,003)
và nhận những dụng cụ trợ giúp (p = 0,008) hơn
so với bệnh nhân tàn tật độ 2. Điều này cũng dễ
hiểu vì theo phân loại mức độ tàn tật của WHO
thì tàn tật độ 1 không có tàn tật nhìn thấy được,
chủ yếu là mất cảm giác lòng bàn tay, bàn chân,
mắt có tổn thương nhưng thị lực ảnh hưởng
không nghiêm trọng, những bệnh nhân này khả
năng ít có nhu cầu điều trị tàn tật và nhận những
dụng cụ trợ giúp. Tuy nhiên bệnh nhân tàn tật
độ 1 cũng như bệnh nhân phong chưa bị tàn tật
cần được duy trì khám kiểm tra định kỳ, giáo
dục sức khỏe, hướng dẫn cách theo dõi kiểm tra
và tự chăm sóc để tránh chuyển sang độ tàn tật
nặng hơn. Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận bệnh
nhân tàn tật độ 2 khả năng có nhu cầu hỗ trợ
việc làm nhiều hơn so với bệnh nhân tàn tật độ 1
(p = 0,016, OR = 2,2, KTC 95%: 1,3-3,7). Bệnh
nhân tàn tật độ 2 có tổn thương tàn tật nhìn thấy
được ở tay, chân, mắt, thị lực bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Tay, chân, mắt là bộ phận chính

thực hiện các động tác và hành động. Việc tổn
thương các bộ phận này gây khó khăn cho người
tàn tật lao động. Họ không đủ khả năng lao
động, làm việc như người bình thường. Mặt
khác, do sự kỳ thị của mọi người và tự kỳ thị của
bản thân bệnh phong khiến họ khó xin việc làm
hay không dám đi xin việc. Thiết nghĩ, các ban
ngành cần có những chính sách và hoạt động hỗ
trợ việc làm cụ thể cho các đối tượng này, để họ
có thể sống hòa nhập với xã hội.

34

KẾT LUẬN
Tàn tật độ 2 chiếm khoảng 1/3. Đa số bệnh
nhân có nhu cầu hướng dẫn cách theo dõi kiểm
tra và tự chăm sóc, bảo hiểm y tế, tham gia các
hoạt động cộng đồng. Bệnh nhân tàn tật độ 2 bị
giới hạn hoạt động và hạn chế tham gia nhiều
hơn so với bệnh nhân tàn tật độ 1. Bệnh nhân tàn
tật độ 2 có nhu cầu hỗ trợ việc làm, điều trị tàn
tật và nhận những dụng cụ trợ giúp nhiều hơn
so với bệnh nhân tàn tật độ 1.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.


4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

De Souza VTC et al (2016), “Is the WHO disability grading
system for leprosy related to the level of functional activity
and social participation”, Leprosy Review, 87 (2): 191-200.
Hoàng Nguyên Duy (2014), “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học,
tình hình tàn tật và một số yếu tố ảnh hưởng trên bệnh nhân phong
đang quản lý tại tỉnh Đăk Lăk năm 2013-2014”, Luận án chuyên
khoa 2, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Khapre MP et al (2013), “Determinants and Associated
Disability of Leprosy Patients Attending GMLF, Sevagram”,
Online Journal of Health and Allied Sciences, 13 (2): 1-4.
Lê Thị Thanh Trúc (2012), “Hiệu quả của giáo dục sức khỏe đối
với sự giới hạn hoạt động và hạn chế tham gia cộng đồng của bệnh
nhân phong tàn tật”, Luận án tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.
Nardi SM, Paschoal VD and Zanetta DM (2012), “Limitations
in activities of people affected by leprosy after completing

multidrug therapy: application of the SALSA scale”, Leprosy
Review, 83 (2): 172-183.
Ngô Thanh Tân (2016), “Thực trạng tàn tật và đánh giá hiệu quả
của mô hình phục hồi lồng ghép người khuyết tật do phong tại tỉnh
Cà Mau”, Luận án chuyên khoa 2, Đại học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thanh Tân (2007), “Nghiên cứu tình hình mắc bệnh
và yếu tố liên quan đến tàn tật ở bệnh nhân Phong mới tại 4
tỉnh Tây Nguyên năm 2006-2007”, Y học thực hành, 920: CT.
NCKH Kỷ niệm 85 năm thành lập Bệnh viện Phong – Da Liễu
Trung ương Quy Hòa.
Rodrigues NC et al (2017), “Physical disability and its social
and functional repercussions in patients with leprosy after
discharge from multidrug therapy”, Leprosy Review, 88: 85-94.
Singh S, Sinha AK, Banerjee BG and Jaswal N (2009),
“Participation level of the leprosy patients in society”, Indian
Journal of Leprosy, 81 (4): 181-187.
van Brakel WH et al (2012), “Disability in people affected by
leprosy: the role of impairment, activity, social participation,
stigma and discrimination”, Global Health Action, 5.

Ngày nhận bài báo:

12/12/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

26/01/2018

Ngày bài báo được đăng:


20/04/2018

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018



×