Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ
UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN ĐẠI TRÀNG PHẢI
Huỳnh Quyết Thắng*, Hồ Long Hiển*

TÓMTẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 80 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải được
phẫu thuật nội soi cắt nửa đại tràng phải, vét hạch hệ thống với 4 trocar và làm miệng nối ngoài cơ thể.
Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện K, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện ung bướu Cần Thơ
từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 06 năm 2016.
Kết quả: Có 36 bệnh nhân nam và 44 bệnh nhân nữ; tuổi trung bình 54,8 ± 1,7 (20-87). 15 bệnh nhân
có vết mổ bụng cũ (18,8%). Khối u có kích thước trung bình là 4,9 ± 0,2 cm (1,5-6 cm). Thời gian mổ trung
bình là 144,3 ± 3,7 phút (90-240 phút); lượng máu mất trong mổ là 24,5 ± 1,5 ml (10-60 ml); số hạch nạo
vét được trung bình là 12,4 ± 2,8 (6-43); u càng xâm lấn thành ruột sâu thì tỷ lệ di căn hạch càng cao, T1-2
có 13,3% di căn hạch; T3 có 37,5% di căn hạch và T4 có 60% di căn hạch (p< 0,05). Trung bình diện cắt
đầu gần cách u 26,6 ± 0,8 cm (10-40 cm), trung bình diện cắt đầu xa cách u 14,4 ± 0,6 cm (5-40 cm). Thời
gian có gaz trung bình là 3,1 ± 0,1 ngày (1-5); thời gian nằm viện trung bình là 8,1 ± 0,3 ngày (5-23 ngày);
có 01 trường hợp chuyển mổ mở (1,25%). Tổng số bệnh nhân có biến chứng là 7 (8,75%); biến chứng
thường gặp nhất là nhiễm trùng vết mổ 4 bệnh nhân (5%); sốt sau mổ 01 bệnh nhân (1,25%), tắc ruột 01
bệnh nhân (1,25%) và viêm phổi 01 bệnh nhân (1,25%).
Kết luận: Phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải bước đầu đạt kết quả tốt,
số hạch vét được đủ đảm bảo đánh giá giai đoạn bệnh; tình trạng di căn hạch có liên quan đến độ xâm lấn
của khối u (T); diện cắt đủ xa với khối u nguyên phát. Bệnh nhân hồi phục nhanh sau mổ và tỷ lệ biến
chứng thấp.
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi, ung thư đại tràng, ung thư biểu mô tuyến đại tràng

ABSTRACT


EARLY RESULT OF LAPROSCOPIC SURGERY FOR RIGHT COLON CARCINOMA
Huynh Quyet Thang, Ho Long Hien,
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 295 - 301
Purpose: Evaluate short-term outcomes of laparoscopically right hemicolectomy for colon carcinoma.
Methods: Cross-sectional study of 80 right colon carcinoma patients who underwent laparoscopically
right hemicolectomy with four trocars and extracorporeal anastomosis. This study was performed at K
hospital, hospital of Hanoi Medical University and Cantho oncology Hospital from June 2012 to June 2016.
Results: There were 36 male and 44 female patients; mean of age was 54.8 ± 1.7 (20-87). 15 patients
have previous operation history. Mean of tumor size was 4.9 ± 0.2 cm (1.5-6 cm). Mean of operation time
was 144.3 ± 3.7 minutes (90-240 minutes); mean of blood loss was 24.5 ± 1.5 ml (10-60 ml); average
resected lymph nodes was 12.4 ± 2.8 (6-43); the more tumor invasive of the wall of intestine, the higher
lymph node metastasis, 13.3% T1-2 with lymph node metastasis; 37.5% T3 with lymph node metastasis
and 60% T4 with lymph node metastasis (p < 0.05). The mean proximal resection margin was 26.6 ± 0.8 cm
* Bộ môn Ung bướu – Trường Đại Học Y dược Cần Thơ
** Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ.
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Huỳnh Quyết Thắng ĐT: 0913.731.338 Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

295


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

(10-40 cm). The mean distal resection margin was 14.4 ± 0.6 cm (5-40 cm); mean number of days to 1st gas
passing of 3.1 ± 0.1 days (1-5); mean of hospital stay was 8.1 ± 0.3 days (5-23); the conversion rate was
1.25%. The total number of complications was 7 (8.75%), with the most common complication being wound
infection in 4 patients (5%), fever in 1 patient (1.25%), ileus in 1 patient (1.25%) and pneumonia in 1

patient (1.25%).
Conclusion: Laparoscopic surgery for right colon carcinoma had been in good early results, average
resected lymph nodes were enough to ensure staging; status of lymph node metastasis were closed related to
the degree of tumor invasion; the resection margin was enough distanced from the primary tumor. Patients
with early postoperative recovery and low rate morbidity.
Keywords: Laparoscopy; Colon cancer; Colon carcinoma
thuật nội soi gần như được chấp nhận là một
ĐẶTVẤNĐỀ
chọn lựa để điều trị UTĐT(7).
Kỷ nguyên của phẫu thuật nội soi (PTNS)
Hiện nay, trong nước có ít công trình
đại tràng được Jacob bắt đầu vào năm 1991(3).
nghiên cứu về PTNS điều trị ung thư đại tràng
Tuy nhiên sự áp dụng ban đầu dấy lên sự
tranh luận về tỷ lệ tái phát tại lỗ trocar, về mặt
phải đã công bố trên y văn, mà chủ yếu mang
ung thư học của PTNS như khả năng vét hạch,
tính chất tổng kết với cở mẫu nhỏ và thường
nguyên tắc "no touch". Nhưng phẫu thuật nội
là hồi cứu. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi
soi đã được áp dụng trên toàn thế giới trong
tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá kết
điều trị ung thư đại - trực tràng (UTĐ-TT) và
quả bước đầu phẫu thuật nội soi điều trị ung
từng bước khẳng định được tính ưu việt của
thư biểu mô tuyến đại tràng phải.
nó: tính thẩm mỹ cao hơn, giảm đau sau mổ,
bệnh nhân hồi phục nhanh, rút ngắn thời gian
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
nằm viện. Tuy nhiên, câu hỏi về mặt ung thư

Đối tượng nghiên cứu
học vẫn được đặt ra là: PTNS có đảm bảo nạo
Bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến đại
vét hạch đầy đủ không so với kỹ thuật mổ mở
quy ước cho ung thư đại tràng(1)? Theo Hiệp
tràng phải được điều trị bằng phẫu thuật nội
hội Ung thư Hoa Kỳ (AJCC) và Hội liên hiệp
soi tại Bệnh viện K, Bệnh viện Đại học Y Hà
phòng chống ung thư quốc tế (UICC), số
Nội và BV Ung bướu Cần Thơ.
lượng hạch nạo vét được phải đạt tối thiểu 12
Tiêu chuẩn chọn bệnh
hạch cho phẫu thuật UTĐ-TT nói chung mới
U ở vị trí đại tràng phải, có chẩn đoán mô
đủ để đánh giá giai đoạn di căn hạch. Đánh
giá đúng giai đoạn UTĐT sau mổ giúp xác
định phương pháp điều trị bổ trợ tiếp theo và
là yếu tố tiên lượng quan trọng(6).

bệnh học là ung thư biểu mô tuyến, kích thước

Trên thế giới, PTNS điều trị UTĐT đã được
chấp nhận kể từ khi có một thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên, đa trung tâm với số lượng
lớn bệnh nhân được báo cáo là an toàn về mặt
ung thư học(5,7,9). Sau đó, thử nghiệm lâm sàng
CLASSICC đã xác nhận sự an toàn về mặt ung
thư học của PTNS đại trực tràng(10). Tương tự,
thử nghiệm lâm sàng COST đã kết luận phẫu


thủng hoặc tắc ruột.

296

u ≤ 8cm, không xâm lấn các tạng lận cận,
không có di căn xa, không có biến chứng

Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 06/2012 đến 06/2016.

Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017
Các chỉ tiêu nghiên cứu

KẾTQUẢ

Đặc điểm bệnh nhân
Tuổi, giới, cân nặng, chiều cao, BMI, vị trí
u, kích thước u, tiền sử mổ bụng cũ.

Đặc điểm bệnh nhân

Kết quả phẫu thuật
Thời gian mổ, lượng máu mất trong mổ, số

lượng hạch nạo vét được, sự liên quan giữa di
căn hạch với độ xâm lấn của khối u (T) và độ
biệt hóa của tế bào u, diện cắt đầu gần cách u,
diện cắt đầu xa cách u, ngày đầu tiên có gaz,
ngày cho ăn trở lại, thời gian nằm viện sau
mổ.
Biến chứng sau mổ
- Biến chứng nhẹ: xẹp phổi, tràn dịch màng
bụng, sốt, tắc ruột, nhiễm trùng vết mổ.
- Biến chứng vừa: viêm phổi, chảy máu sau
mổ (truyền máu).
- Biến chứng nặng: áp xe ổ bụng, xì miệng
nối, chảy máu miệng nối.
- Tử vong trong 30 ngày.

Giải phẫu bệnh sau mổ
Giai đoạn TNM, giai đoạn T, giai đoạn N,
độ biệt hóa, xâm nhập mạch bạch huyết.

Quy trình điều trị
Bệnh nhân được phẫu thuật nội soi theo
một quy trình định trước bởi các phẫu thuật
viên có kinh nghiệm (phẫu thuật nội soi cắt
đại trực tràng trên 50 ca).
Bệnh nhân được đặt 4 trocar: 10mm ở rốn
cho camera, 10mm dưới sườn trái, 5mm hố
chậu phải và 5mm hố chậu trái; được cắt đại
tràng phải qua nội soi và làm miệng nối ngoài
cơ thể.
Bệnh phẩm được phẫu tích tươi ngay sau

mổ bởi chính phẫu thuật viên. Các hạch được
đếm theo vị trí và cố định bằng formol, sau đó
được nhuộm HE để xác định tình trạng di căn
hạch.
Bệnh nhân được theo dõi để đánh giá các
biến chứng sau mổ và tái khám vào thời điểm
30 ngày sau mổ.

Nghiên cứu Y học

Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân
Đặc điểm
Tuổi
Nam
Giới
Nữ
Cân nặng (kg)
Chiều cao (cm)
2
BMI (kg/m )
Manh tràng
Đại tràng lên
Vị trí u
Đại tràng góc gan
Kích thước u (cm)
Tiền sử mổ bụng cũ

Kết quả
54,8 ± 1,7 (20-87)
36 (45)

44 (55)
52 ± 0,9 (36-76)
157,2 ± 0,7 (143-169)
21 ± 0,3 (14,6-30,8)
10 (12,5)
41 (51,2)
29 (36,3)
4,9 ± 0,2 (1,5-6)
15 (18,8)

Các giá trị được thể hiện là Trung bình ± sai số chuẩn
(khoảng) hoặc số trường hợp (%)

Nhận xét: Nghiên cứu có 36 bệnh nhân
nam và 44 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình là
54,8 ± 1,7 (20-87). Chỉ số BMI trung bình 21 ±
0,3 (14,6-30,8). Vị trí u ở đại tràng lên 41 bệnh
nhân (51,2%), đại tràng góc gan 29 bệnh nhân
(36,3%) và manh tràng 10 bệnh nhân (12,5%).
Kích thước u trung bình là 4,9 ± 0,2 cm (1,5-6
cm). 15 bệnh nhân có vết mổ bụng cũ (18,8%).

Kết quả phẫu thuật
Bảng 2. Kết quả phẫu thuật
Biến số
Thời gian mổ (phút)
Chảy máu trong mổ (ml)
Số hạch nạo vét được
Diện cắt đầu gần cách u (cm)
Diện cắt đầu xa cách u (cm)

Ngày có gaz đầu tiên (ngày)
Ngày cho ăn trở lại (ngày)
Thời gian nằm viện (ngày)
Chuyển mổ mở

Kết quả
144,3 ± 3,7 (90-240)
24,5 ± 1,5 (10-60)
12,4 ± 2,8 (6-43)
26,6 ± 0,8 (10-40)
14,4 ± 0,6 (5-40)
3,1 ± 0,1 (1-5)
5,6 ± 0,4 (3-10)
8,1 ± 0,3 (5-23)
1 (1,25)

Các giá trị được thể hiện là Trung bình ± sai số chuẩn
(khoảng) hoặc số trường hợp (%)

Nhận xét: Thời gian mổ trung bình là 144,3
± 3,7 phút (90-240 phút). Trung bình lượng
máu mất trong mổ là 24,5 ± 1,5 ml (10-60 ml).
Trung bình số hạch nạo vét được là 12,4 ± 2,8
hạch (6-43 hạch). Diện cắt đầu gần cách u
trung bình 26,6 ± 0,8 cm (10-40 cm), trung bình
diện cắt đầu xa cách u là 14,4 ± 0,6 cm (5-40

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

297



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

cm). Ngày có gaz đầu tiên trung bình là 3,1 ±
0,1 ngày (1-5 ngày). Ngày cho bệnh nhân ăn
trở lại trung bình là 5,6 ± 0,4 ngày (3-10 ngày).
Thời gian nằm viện trung bình là 8,1 ± 0,3
ngày (5-23 ngày). Tỷ lệ chuyển mổ mở 1,25%.

Biến chứng sau mổ
Biến chứng sau mổ xảy ra ở 7 bệnh nhân
(8,75%), với nhiễm trùng vết mổ là biến chứng
thường gặp nhất, có 4 bệnh nhân (5%). Sốt sau
mổ có 01 bệnh nhân (1,25%), tắc ruột 01 bệnh
nhân (1,25%) và viêm phổi 01 bệnh nhân
(1,25%). Không có trường hợp nào tử vong
trong 30 ngày sau mổ.

Giải phẫu bệnh sau mổ
Bệnh nhân ở giai đoạn I có 13 bệnh nhân

Bảng 4. Mối liên quan giữa di căn hạch và độ biệt
hóa của tế bào u
Biệt hóa cao
Biệt hóa vừa
Biệt hóa kém
Tổng


N0
5 (83,3)
36 (58,1)
7 (58,3)
48

N1
1 (16,7)
20 (32,2)
3 (25)
24

N2
Tổng
0 (0)
6
6 (9,7)
62
2 (16,7)
12
8
80

Các giá trị được thể hiện là số trường hợp (%)

Nhận xét: Độ biệt hóa của tế bào u càng
kém thì cho di căn hạch càng cao, chỉ có 1/5
(16,7%) trường hợp u có độ biệt hóa cao có di
căn hạch; u có độ biệt hóa vừa di căn hạch

26/62 (41,9%) trường hợp và u có độ biệt hóa
kém di căn hạch 5/12 (41,7%) trường hợp. Tuy
nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p = 0,79).

(16,25%), giai đoạn II 35 bệnh nhân (43,75%)

BÀNLUẬN

và giai đoạn III 32 bệnh nhân (40%). Có 15

80 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi điều
trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải trong
nghiên cứu của chúng tôi có thời gian mổ
trung bình là 144,3 ± 3,7 phút (90-240 phút). So
với các nghiên cứu trước đây đã được báo cáo,
thời gian mổ trung bình từ 107-210,8 phút(4).
Theo chúng tôi, kinh nghiệm phẫu thuật viên
là yếu tố quan trọng liên quan đến thời gian
mổ. Cùng với thời gian, những phẫu thuật
viên nội soi được đào tạo bài bản sẽ tích lũy
kinh nghiệm thì thời gian mổ sẽ ngắn lại.

bệnh nhân ở giai đoạn T1-2 (18,75%), 40 bệnh
nhân T3 (50%) và 25 bệnh nhân T4 (31,25%).
Nghiên cứu có 48 bệnh nhân ở giai đoạn N0
(60%), 24 bệnh nhân N1 (30%) và 8 bệnh nhân
N2 (10%). U có độ biệt hóa cao xảy ra ở 06
bệnh nhân (7,5%), biệt hóa vừa ở 62 bệnh nhân
(77,5%) và biệt hóa kém 12 bệnh nhân (15%).

Tế bào u xâm nhập mạch bạch huyết 53
trường hợp (66,25%).
Bảng 3. Mối liên quan giữa di căn hạch và u theo
độ xâm lấn (T)
T1-2
T3
T4
Tổng

N0
13 (86,7)
25 (62,5)
10 (40)
48

N1
2 (13,3)
13 (32,5)
9 (36)
24

N2
0 (0)
2 (5)
6 (24)
8

Tổng
15
40

25
80

Các giá trị được thể hiện là số trường hợp (%)

Nhận xét: T càng nhỏ thì số lượng hạch vét
được càng ít và khả năng di căn hạch càng ít,
chỉ có 2/15 (13,3%) trường hợp T1-2 có di căn
hạch; T3 di căn hạch 15/40 (37,5%) trường hợp
và T4 di căn hạch đến 15/25 (60%) trường hợp.
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p =
0,013).

298

Lượng máu mất trong mổ qua nghiên cứu
của chúng tôi là 24,5 ± 1,5 ml (10-60 ml). Theo
Cho JH và cộng sự, nghiên cứu trên 156 bệnh
nhân cho thấy lượng máu mất trong mổ trung
bình là 73,3 ml (0-1600 ml), có 03 trường hợp
(1,9%) phải truyền máu.
Vấn đề quan trọng nhất trong việc tiên
lượng kết quả ung thư học lâu dài là số hạch
nạo vét được. Hạch vùng cần phải được nạo
vét có hệ thống(11). Số lượng hạch tối thiểu
được đề nghị phải nạo vét là 6-17 hạch(8,14), và
phải có ít nhất 12 hạch trở lên đối với phẫu
thuật UTĐ-TT nói chung thì việc xếp giai đoạn
lâm sàng mới chính xác. Nhờ đó việc chỉ định
điều trị hóa chất bổ trợ hay không sẽ được

quyết định(12). Tuy nhiên, số hạch vét được

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017
trung bình là 12 cho tất cả ung thư đại tràng từ
giai đoạn I-IV với mọi kích thước. Đối với mổ
mở quy ước, phẫu thuật không bị giới hạn bởi
kích thước khối u. Nhưng đối với phẫu thuật
nội soi, chỉ mổ những u có kích thước < 6cm.
Vì vậy, việc nạo vét hạch trong phẫu thuật nội
soi có thể sẽ thu được số hạch ít hơn. Tuy
nhiên, nghiên cứu của chúng tôi có số hạch
trung bình nạo vét được là 12,4 ± 2,8 hạch (643 hạch), vì vậy kết quả của chúng tôi đã có
thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra về nạo vét
hạch trong khi mổ. Jung Hoon Cho và cộng sự
phẫu thuật nội soi cắt đại tràng phải cho 156
bệnh nhân, trung bình số lượng hạch vét được
là 27,4 ± 15,1 (8-122)(4). Số lượng hạch vét được
của chúng tôi cũng tương tự của Goldstein
NS(13) và đáp ứng được chỉ dẫn của NCCN(12).
Tình trạng bờ diện cắt đối với ung thư biểu
mô tuyến đại tràng, có thể cắt rộng an toàn với
bờ diện cắt cách u 5cm. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, tất cả các bệnh nhân đều có diện cắt
cách u trên 5cm, diện cắt đầu gần cách u trung
bình 26,6 ± 0,8 cm (10-40 cm) và diện cắt đầu
xa cách u trung bình 14,4 ± 0,6 cm (5-40 cm).
Tất cả các diện cắt được nhuộm HE để xác

định còn tế bào ung thư hay không, đều cho
kết quả âm tính.
Số ngày có gaz trung bình là 3,1 ± 0,1 ngày
(1-5 ngày). Ngày cho bệnh nhân ăn trở lại
trung bình là 5,6 ± 0,4 ngày (3-10 ngày). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
với các nghiên cứu đã báo cáo trước đây Các
nghiên cứu trước đây(4).
Phẫu thuật nội soi cắt nửa đại tràng phải là
một phẫu thuật ít xâm lấn và cho thấy kết quả
bước đầu tốt hơn so với mổ mở(7,9).Tuy nhiên,
Zheng và cộng sự(15) báo cáo thời gian nằm
viện ở nhóm phẫu thuật nội soi dài hơn so với
nhóm mổ mở, 18,3 ± 5,7 ngày so với 13,9 ± 6,5
ngày. Theo Baker và cộng sự(2) cho rằng, thời
gian nằm viện ở nhóm phẫu thuật nội soi (9,9
± 7,5 ngày) không có khác biệt so với mổ mở.
Tuy nhiên, các nghiên cứu khác báo cáo ngược
lại, thời gian nằm viện của nhóm phẫu thuật

Nghiên cứu Y học

nội soi cắt nửa đại tràng phải ngắn hơn nhóm
mổ mở. Trong nghiên cứu của chúng tôi, trung
bình thời gian nằm viện là 8,1 ± 0,3 ngày (5-23
ngày). Theo Jung Hoon Cho và cộng sự, trung
bình thời gian nằm viện ghi nhận được là 7,0 ±
1,5 ngày (4-12 ngày). Nghiên cứu COST, thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đa trung tâm tại
Hoa Kỳ ghi nhận thời gian nằm viện trung

bình ở nhóm phẫu thuật nội soi là 5 ngày.
Các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, đa
trung tâm như COST, COLOR và
CLASICC(5,7,9), có tỷ lệ chuyển mổ mở từ 1729%, các nghiên cứu khác báo cáo tỷ lệ chuyển
mổ mở cắt nửa đại tràng phải từ 0-18%(4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 01
trường hợp chuyển mổ mở (1,25%), vì dính
ruột phức tạp do mổ cũ không thể phẫu thuật
nội soi. Sự khác biệt này có thể là do có thể tác
giả không giới hạn kích thước khối u, mà
chúng tôi chỉ chọn những bệnh nhân có khối u
kích thước ≤ 6 cm.
Biến chứng sau mổ của phẫu thuật nội soi
đại trực tràng thấp hơn so với nhóm mổ mở
quy ước (18,2% so với 23%; RR = 0,72; P =
0,02)(2). Tỷ lệ biến chứng trong nghiên cứu của
chúng tôi là 8,75%. Tuy nhiên, các biến chứng
thường là biến chứng nhẹ, Trong 30 ngày đầu
sau mổ, không có trường hợp tử vong nào
được ghi nhận. Senagore và cộng sự(13) nghiên
cứu 70 bệnh nhân phẫu thuật cắt nửa đại tràng
phải nội soi có tỷ lệ nhập viện lại trong vòng
30 ngày sau mổ là 7%. Nghiên cứu của chúng
tôi không có trường hợp nào phải nhập viện
trở lại.
Tình trạng di căn hạch có liên quan đến
kích thước u, độ xâm lấn của u và độ biệt hóa
của tế bào u. Nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p
= 0,013) giữa di căn hạch và u theo độ xâm lấn

(T), u càng xâm lấn thành ruột thì tỷ lệ di căn
hạch càng cao, T1-2 có 13,3% di căn hạch; T3
có 37,5% di căn hạch và T4 có 60% di căn hạch.
Độ biệt hóa của tế bào u càng kém thì càng cho
di căn hạch. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

299


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

chúng tôi sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p = 0,79), độ biệt hóa cao có 16,7% di
căn hạch, độ biệt hóa vừa có 41,9% di căn hạch
và độ biệt hóa kém có 41,7% di căn hạch. Kết
quả này cũng tương tự với kết quả của
Goldstein NS(8). Nghiên cứu của chúng tôi có
35 bệnh nhân ở giai đoạn II, chiếm tỷ lệ
43,75%. Tuy nhiên, có 15 bệnh nhân có yếu tố
nguy cơ cao gồm u giai đoạn T4 hoặc mô học
biệt hóa kém phải tiếp tục được hóa trị hỗ trợ
sau mổ.

6.
7.


8.

9.

KẾTLUẬN
Phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu
mô tuyến đại tràng phải bước đầu đạt kết quả
tốt. Số hạch vét được đủ đảm bảo đánh giá
giai đoạn bệnh, trung bình vét được 12,4 ± 2,8
hạch; diện cắt đủ xa với khối u nguyên phát,
với diện cắt đầu gần cách u 26,6 ± 0,8 cm và
diện cắt đầu xa cách u 14,4 ± 0,6 cm. Bệnh
nhân hồi phục nhanh sau mổ, với số ngày có
gaz trung bình là 3,1 ± 0,1 ngày, thời gian nằm
viện trung bình 8,1 ± 0,3 ngày; tỷ lệ biến chứng
thấp (8,75%), thường là các biến chứng nhẹ và
không có trường hợp nào tử vong trong 30
ngày đầu sau mổ.

10.

11.

12.

13.

TÀILIỆUTHAMKHẢO
1.


2.

3.
4.

5.

300

Abraham NS, et al (2007), “Meta-analysis of nonrandomized comparative studies of short-term outcomes
laparoscopic resection for colorectal cancer”, ANZ J. Surg,
77, pp. 508-516.
Baker RP, Titu LV, Hartley JE, Lee PW, Monson JR (2004),
“A
case-control
study
of
laparoscopic
right
hemicolectomy vs. open right hemi-colectomy”, Dis Colon
Rectum, 47, pp. 1675-1679.
Bittner R (2006), “Laparoscopic surgery – 15 years after
clinical introduction”, World. J surg, 30, pp. 1190-1203.
Cho JH, et al (2012), “Oncologic Outcomes of a
Laparoscopic Right Hemicolectomy for Colon Cancer:
Results of a 3-Year Follow-up”, J Korean Soc Coloproctol, 28
(1), pp. 42-48.
COLOR Study Group (2000), “COLOR: a randomized
clinical trial comparing laparoscopic and open resection
for colon cancer”, Dig Surg, 17, pp. 617-622.


14.

15.

Edge SB, et al (2010), “Colorectal cancer”, AJCC cancer
staging handbook, 7nd edition, pp. 173-174.
Fleshman J, Sargent DJ, Green E, Anvari M, Stryker SJ,
Beart RWJr, et al (2007), “Laparoscopic colectomy for
cancer is not inferior to open surgery based on 5-year data
from the COST Study Group trial”, Ann Surg, 246, pp.
655-662.
Goldstein NS, Sanford W, Coffey M, Layfield LJ (1996),
“Lymph node recovery from colorectal resection
specimens removed for adenocarcinoma. Trends over
time and a recommendation for a minimum number of
lymph nodes to be recovered”, Am J Clin Pathol, 106, pp.
209-216.
Jayne DG, Guillou PJ, Thorpe H, Quirke P, Copeland J,
Smith AM, et al (2007), “Randomized trial of
laparoscopic-assisted resection of colorectal carcinoma: 3year results of the UK MRC CLASICC Trial Group”, J Clin
Oncol, 25, pp. 3061-3068.
Jayne DG, Thorpe HC, Copeland J, Quirke P, Brown JM,
Guillou PJ (2010), “Five-year follow-up of the Medical
Research Council CLASICC trial of laparoscopically
assisted versus open surgery for colorectal cancer”, Br J
Surg, 97, pp. 1638-1645.
Marusch F, Gastinger I, Schneider C, Scheidbach H,
Konradt J, Bruch HP, et al (2001), “Importance of
conversion for results obtained with laparoscopic

colorectal surgery”, Dis Colon Rectum, 44, pp. 207-214.
National Comprehensive Cancer Network (NCCN).
NCCN practice guidelines in oncology - V.2. 2009. Rectal
cancer (Internet). Washington: NCCN; c2012 (cited 2012
Feb
6).
Available
from:
/>Senagore AJ, Delaney CP, Brady KM, Fazio VW (2004),
“Standardized approach to laparoscopic right colectomy:
outcomes in 70 consecutive cases”, J Am Coll Surg, 199, pp.
675-679.
Tekkis PP, Smith JJ, Heriot AG, Darzi AW, Thompson
MR, Stamat- akis JD, et al (2006), “A national study on
lymph node retrieval in resectional surgery for colorectal
cancer”, Dis Colon Rectum, 49, pp. 1673-1683.
Zheng MH, Feng B, Lu AG, Li JW, Wang ML, Mao ZH, et
al (2005), “Laparoscopic versus open right hemicolectomy
with curative intent for colon carcinoma”, World J
Gastroenterol, 11, pp. 323-326.

Ngày nhận bài báo:

07/01/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

15/01/2016

Ngày bài báo được đăng:


05/04/2017

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017



×