TIÊU LUÂN : CAC CHÂT Ô NHIÊM CHINH PHAT
̉
̣
́
́
̃
́
́
THAI T
̉ Ừ ĐÔNG C
̣
Ơ DIESEL VA TAC HAI
̀ ́
̣
I.Khai quat chung:
́
́
Ô nhiễm không khí là hậu quả từ các hoạt động của cuộc sống hiện đại như :
sự gia tăng tiêu thụ năng lượng, sự phát triển của các ngành công nghiệp mũi
nhọn : công nghiệp luyện kim, hóa học, giao thông đường bộ và hàng không, v.v.
Ô nhiễm có nguồn gốc từ ba nguồn chính : nguồn gốc thiên nhiên (thực vật,
đất), nguồn gốc cố định (sưởi ấm gia đình, sản xuất điện, công nghiệp), và giao
thông. Thực vậy, ôtô và các phương tiện vận chuyển là một phần nguyên nhân
trong tình trạng mô trường ô nhiễm như ngày nay.
1. Ô nhiễm khí thải : tổng quan
Các hợp chất ô nhiễm chính trong khí thải có thể chia làm hai nhóm : khí và hạt
rắn. Người ta phân biệt các chất ô nhiễm sơ cấp được thải ra từ các nguồn xác
định (CO, HC,…) với các chất ô nhiễm thứ cấp (O3, …) được sản sinh ra từ các
phản ứng giữa các chất ô nhiễm sơ cấp với nhau dưới tác động của điều kiện
môi trường như bức xạ mặt trời.
Nhìn chung chất gây ô nhiễm môi trường thải ra từ động cơ gồm các chất sau :
Dioxyde de carbone (CO2), sản phẩm của quá trình oxi hóa hoàn toàn nhiên
liệu
Monoxyde de carbone (CO), đến từ quá trình oxi hóa không hoàn toàn
nhiên liệu
Oxyde d’azote (NOx), bao gồm monoxyde d’azote (NO) và dioxyde d’azote
(NO2).
Các hạt rắn, sản phẩm của các quá trình hình thành phức tạp.
Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (COVcomposés organiques volatils), là
các hợp chất hóa học hữu cơ có áp suất hơi đủ cao để dưới các điều kiện
bình thường có thể bay hơi một lượng đáng kể vào không khí. Về thành
phần COV là sự kết hợp giữa các hydrocarbure (như alcane,
alcène, aromatique, …) và các hợp chất chứa oxi (aldéhyde, kétone, …).
Các hợp chất hữu cơ đa vòng (hydrocarbures aromatiques polycycliques –
HAP), như benzoapyrene
Dioxyde de sulfure (SO2), hình thành từ lưu huỳnh có sẵn trong nhiên liệu.
Các kim loại, có trong dầu và nhiên liệu.
Những chất ô nhiễm này thải ra môi trường sẽ dẫn đến rất nhiều ảnh
hưởng taihại cho sức khỏe và môi trường. Một vài chất trong đó sẽ góp phần
hình thành sương mù trong đô thị (brouillards urbains), mưa acide từ SO2 và
NOx. Trong đó NOx và VOCs là nguyên nhân gây ra các phản ứng khác nhau dẫn
đến sự hình thành ozone ở tầng đối lưu của khí quyển. Các hydrocarbon chưa
cháy gây ra bệnh ung thư, còn các hạt rắn, đặc biệt là các hạt rắn nhỏ, rất nguy
hiểm cho sức khỏe, vì nó có thể đi vào trong phổi, gây ra các bệnh về hô hấp.
2. Ô nhiễm khí thải động cơ Diesel :
Động cơ Diesel chuyển đổi năng lượng hóa học (carburant, gazole) thành năng
lượng cơ học. Gazole là hỗn hợp của các hydrocarbure mà trong quá trình cháy
lý tưởng, nó chỉ sinh ra CO2 và H2O. Trong thực tế người ta quan sát thấy một
vài sản phẩm khí và rắn khác. Điều này liên quan một phần đến sự có mặt của
các tạp chất chứa trong các HC (như các hợp chất chứa lưu huỳnh), và mặt khác
liên quan đến sự phức tạp của các phản ứng hóa học xảy ra trong quá trình
cháy.
2.1. Cấu trúc suie Diesel
Suie Diesel được tạo thành từ nhiều hạt rắn có kích thước khoảng 0,3 mm. Các
hạt rắn này lại được tạo thành từ các hạt carbone nhỏ hơn có bán kính khoảng
10 – 60 nm liên kết lại với nhau thành dạng chuỗi hay agrégat, có hình thù « kết
túm » (floconneux) đặc trưng, và có thể coi hạt suie Diesel là một hỗn hợp của
các cấu tử hữu cơ và vô cơ
Suie được tạo nên từ một pha rắn ở tâm và một pha ngưng tụ trên bề mặt. Tâm
của suie là than carbone, pha ngưng tụ thực chất là các chất hữu cơ gồm các
hydrocarbon ngưng tụ trong pha lỏng trên bề mặt (SOF) và các sufates.
Các sulfates trong khí thải động cơ Diesel có nguồn gốc từ các chất hữu cơ chứa
lưu huỳnh trong nhiên liệu. Khi nhiên liệu cháy, lưu huỳnh trong các hợp chất
hóa học này chuyển thành SO2, và sau đấy một phần (khoảng 2%) sẽ bị oxi hóa
thành SO3. SO3 sau đó sẽ phản ứng với nước để tạo thành các giọt lỏng acide
sulfurique.
2.2. Ảnh hưởng của hạt rắn suie lên môi trường và sức khỏe.
Các hạt suie thải ra từ động cơ Diesel có ảnh hưởng xấu đến môi trường cũng
như sức khỏe con người. Thực vậy, các hạt rắn này góp phần tạo thành các đám
bụi lơ lửng trong môi trường đô thị. Kích thước của hạt suie đóng một vai trò
quan trọng. Hạt càng nhỏ, chúng càng lơ lửng lâu trong không khí, và khi đi vào
phổi, thời gian chúng lưu lại càng lâu. Đối với những hạt có đường kính lớn hơn
10 mm, chúng dễ dàng bị đẩy ra khỏi đường hô hấp; các hạt có từ 3 – 10 mm,
chúng dễ dàng lưu lại ở khí quản và phế quản; dưới 3 mm, các hạt này có thể
thâm nhập vào tận các phế nang của phổi (les alvéoles pulmonaires), và có thể
thâm nhập vào máu. Rõ ràng các hạt rắn này là nguồn gốc của các bệnh về hô
hấp thường gặp như: hen suyễn, viêm phế quản, và ung thư phổi.
II.Cac ph
́ ương phap:
́
1.Các công nghệ xứ lý suie :
Người ta đã nghiên cứu nhiều công nghệ lọc suie thải ra từ động cơ Diesel. Một
số thiết bị lọc cho kết quả khá tốt như : bộ lọc vách xốp bằng ceramique dạng
monolithe (cordiérithe), vải kim loại (toiles métalliques), hoặc bọt kim loại hoặc
ceramique. Co cac ph
́ ́ ương phap sau :
́
Phương pháp nhiệt
Nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là cả bộ lọc và khí thải động cơ
sẽ được gia nhiệt đến một nhiệt độ tối thiểu cần thiết để có thế bắt đầu
quá trình cháy của hạt rắn. Để nâng nhiệt độ của bộ lọc, người ta có thể
dùng một trong các cách sau :
+ Sử dụng năng lượng điện để gia nhiệt nhờ vi sóng (microondes), bằng
cách dùng một bộ lọc làm bằng vật liệu bán dẫn, hoặc bằng cách lắp đặt
bộ lọc ceramique có dây gia nhiệt.
+ Người ta có thể gia nhiệt bộ lọc bằng một brûleur với hệ thống tự động có
hai lớp lọc : khí thải được nạp qua lớp lọc thứ nhất, trong khi đó lớp thứ
hai chứa đầy hạt rắn sẽ được tái sinh đồng thời nhờ brûleur.
Các phương pháp này gặp khá nhiều vấn đề về mặt ứng dụng, như hệ
thống choáng nhiều chỗ lắp đặt trên ôtô, và cũng khá đắt.
Phương pháp xúc tác
Mục đích của phương pháp này là giảm nhiệt độ tối thiểu cần thiết cho
quá trình đốt cháy suie nhờ sử dụng các xúc tác oxi hóa toàn phần
(oxidation totale). Tuy nhiên hiệu quả của các vật liệu này không những
phụ thuộc vào hoạt tính oxi hóa của xúc tác, mà còn phụ thuộc vào tính
chất tiếp xúc (qualité de contact) của chúng với suie. Sự tiếp xúc của hai
pha rắn (suie – catalyseur) càng « chặt », hiệu quả xúc tác càng ca
2. Các phương pháp khử suie bằng xúc tác
Ngày nay người ta đều công nhận rằng nếu tiếp xúc giữa xúc tác và suie không
« bền chặt » (contact intime intense), hiệu quả của xúc tác trong quá trình cháy
suie là không đáng kể. Và những nghiên cứu để đạt được sự tiếp xúc tốt nhất có
thể giữa hai pha rắn này đã làm nảy sinh ra hai dạng xúc tác : xúc tác nội
(catalyse interne) và xúc tác ngoại (catalyse externe).
Xúc tác nội :
o
Giải pháp đầu tiên là thêm trực tiếp vào nhiên liệu một lượng rất bé
(0,03 đến 0,1 g/l) các phụ gia có nền tảng là các hợp chất cơ kim nhằm
cải thiện quá trình cháy trong động cơ. Các phụ gia này đóng vai trò
xúc tác vì các kim loại được sinh ra sau khi nhiên liệu cháy (Ni, Cu,
Mo, Mn, Zn, Ca, Ba…) [3] sẽ bám trên hạt suie dưới dạng các oxide vô
cơ và có hoạt tính xúc tác cao. Các xúc tác này ở trong các hạt rắn và
hoàn toàn đảm bảo sự tiếp xúc chặt với suie, tuy nhiên cũng không thể
tránh khỏi phụ gia sẽ bám lên bộ lọc. Điều này sẽ làm cho các lỗ xốp
của nó bị nghẽn trong một thời gia ngắn.
o
Giải pháp thứ hai là thêm phụ gia vào dòng khí thải của động cơ một
cách liên tục hoặc gián đoạn. Người ta dùng các đồng phân hữu cơ của
đồng (Cu) làm phụ gia. Và nhược điểm của phương pháp này cũng
giống như phương pháp thứ nhất.
Xúc tác ngoại :
o
Giải pháp này liên quan đến việc dùng một bộ lọc xúc tác có khả năng
giảm nhiệt độ cháy của suie, cũng như có thể đốt một cách liên tục
nhằm tránh việc các lỗ xốp của bộ lọc bị bít lại do suie bám lên quá
nhiều. Với phương pháp này người ta không phải thêm vào một hệ
thống tái sinh phụ, mà nó cũng không ảnh hưởng đến hoạt động của
động cơ như các phương pháp thêm phụ gia ở trên.
o
Nhưng vấn đề đặt ra với bộ lọc xúc tác là việc đảm bảo tiếp xúc tốt
giữa hai pha rắn suiexúc tác. Hiện nay, đây là nguyên nhân chính cản
trở khả năng ứng dụng của phương pháp này vào thực tế, chứ không
phải vấn đề hoạt tính của xúc tác không đảm bảo. Tuy nhiên ở phạm
vi nghiên cứu người ta đã đề ra rất nhiều dạng xúc tác dùng cho bộ lọc
xúc tác. Các xúc tác này có thể là các kim loại hiếm (Ni, Pt, …) [4], các
xúc tác đơn (MnOx, La2O3, CeO2, MgO, Fe2O3, Al2O3, VOx) [58], hoặc
các xúc tác phức tạp hơn đặc biệt là xúc tác
dạng pérovskite (chromites [911], lanthanides [9], cobaltites [11],
manganites [3, 11])
o
Trong các nghiên cứu gần đây người ta quan tâm nhiều đến các xúc tác
có cấu trúc phức tạp, đặc biệt là xúc tác dựa trên các oxyde dạng
pérovskite. Các oxyde đặc biệt này, thường có công thức chung là
ABO3, thu hút sự quan tâm ở chỗ người ta có thể tác động vào vị trí A
và/hoặc vị trí B để thay thế (riêng phần) bằng một ion của nguyên tố
khác.
III.Kêt luân:
́
̣
Ngày nay ô nhiễm môi trường ngày càng trở thành một vấn đề nhức nhối với
con người. Trong đó một phần không nhỏ nguyên nhân có nguồn gốc từ khí thải
động cơ. Động cơ Diesel được công nhận có nhiều ưu thế vượt trội nhưng loại
động cơ này vẫn tồn tại nhiều nhược điểm ở khía cạnh môi trường, đặc biệt là
việc thải suie. Suie Diesel là một hợp chất có cấu trúc phức tạp mà quá trình
hình thành của nó vẫn còn là một vấn đề đang nghiên cứu. Việc nắm rõ cấu
trúc, đặc điểm, và quá trình hình thành của suie có vai trò quan trọng trong việc
nghiên cứu các phương pháp khử suie. Người ta đã và đang nghiên cứu nhiều
phương pháp khác nhau để oxy hóa suie, như phương pháp nhiệt, xúc tác, … Nói
chung mỗi phương pháp đều có nhưng ưu và nhược điểm nhất định. Trong đó
bộ lọc xúc tác có vẻ là một phương pháp tối ưu nhất. Phương pháp này thể hiện
nhiều ưu điểm vượt trội, tuy nhiên việc tái sinh bộ lọc sau một thời gian sử
dụng vẫn còn là một vấn đề cần được tiếp tục cải thiện. Và trong các chất xúc
tác dùng cho bộ lọc xúc tác, các oxyde dạng perovskite chiếm được nhiều quan
tâm vì hoạt tính xúc tác cao, và kinh tế.