1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, các dạng thuốc kết dính niêm mạc miệng là
một trong những dạng thuốc mới đã và đang thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà bào chế. Rất nhiều các chế phẩm đã ra đời như viên nén kết dính, viên đổ
khuôn, miếng dán, cream, màng mỏng, gel,... Trong các dạng bào chế trên, màng
mỏng với ưu điểm nổi bật là đặc tính linh động và mềm mại hơn (so với dạng
viên nén kết dính và miếng dán), tránh được sự rửa trôi hay bong ra do nước bọt
(hay gặp ở dạng cream, gel) khi sử dụng nên có khả năng lưu giữ thuốc lâu hơn
ở niêm mạc miệng; tạo điều kiện để dược chất dược hấp thu hiệu quả hơn, kéo
dài và làm tăng hiệu quả điều trị bệnh của thuốc.
Theo thống kê, trên thế giới mỗi năm có khoảng 500.000 đến 1 triệu
người bị các bệnh viêm nhiễm do virus Herpes (HSV1, HSV2). Trong đó HSV1
thường gây viêm nhiễm ở miệng. Thêm vào đó, tại ổ viêm nhiễm do HSV1
thường là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn bội nhiễm gây ra viêm nhiễm trầm
trọng hơn. Bởi vậy, việc phối hợp thêm một chất sát khuẩn vào công thức thuốc
chống virus herpes để điều trị bệnh viêm nhiễm trong miệng là cần thiết.
Acyclovir là một trong những lựa chọn hàng đầu để điều trị các bệnh do nhiễm
virus Herpes ở da và niêm mạc, mắt, phổi, thần kinh, sinh dục... Clorhexidin cũng
là chất sát khuẩn phổ kháng khuẩn rộng trên các vi khuẩn Gr(+) và Gr() ở
miệng, da, vết thương. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu bào chế
màng mỏng chứa acyclovir và clorhexidin kết dính niêm mạc miệng ” với các
mục tiêu sau:
Xây dựng được phương pháp định lượng đồng thời acyclovir và
clorhexidin trong màng mỏng.
Bào chế được màng mỏng chứa acyclovir và clorhexidin kết dính niêm
mạc
miệng bằng phương pháp bốc hơi dung môi.
2
Khảo sát ảnh hưởng của tá dược và tỷ lệ dược chất đến khả năng giải
phóng dược chất và khả năng kết dính của màng mỏng.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Đại cương về acyclovir và clorhexidin
1.1.1. Acyclovir
* Công thức hóa học
Công thức phân tử : C8H11N5O3
Khối lượng phân tử: 225,2
Tên khoa học: 2 amino 9[(2 hydroxyethoxy)methyl]1,9dihydro6Hpurin 6
on [9], [20], [33], [44].
* Tính chất lý hóa
Acyclovir là dạng bột kết tinh trắng ít tan trong nước, rất ít tan trong alcol,
tan tự do trong dung môi dimethyl sulfoxyd, tan được trong dung dịch kiềm và
acid loãng [9], [33].
Nhiệt độ nóng chảy khoảng 2300C, sau đó bị phân hủy [9].
Các hằng số phân tích: Acyclovir có 2 hằng số phân ly:
pKa1= 2.41 0.27; pKa2= 9.06 0.88
* Dược động học
Hấp thu:
Sinh khả dụng theo đường uống thấp, chỉ khoảng 20%. Thức ăn không
ảnh hưởng đến hấp thu thuốc [4], [5], [16], [32].
3
Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt sau khi uống là 1,5 2h [4], [5], [16].
Phân bố:
Acyclovir phân bố rộng trong dịch cơ thể và các cơ quan như: não, thận,
phổi, gan, lách, cơ, tử cung, niêm mạc, dịch âm đạo, nước mắt, thủy dịch, tinh
dịch, dịch não tủy. Nồng độ trong dịch não tủy đạt tới 50% nồng độ trong huyết
tương. Liên kết với protein huyết tương thấp 9 33%. Thuốc qua được nhau thai
và phân bố trong sữa với nồng độ gấp 3 lần trong huyết thanh mẹ [4], [5], [16],
[32].
Chuyển hóa và thải trừ:
Phần lớn thuốc đào thải qua thận dưới dạng biến đổi. 8 carboxy methoxy
methyl quanine là chất chuyển hóa đáng kể nhất của acyclovir chiếm khoảng
14% tổng lượng thuốc này trong nước tiểu [4], [32].
Thời gian bán thải: Người lớn khoảng 3h. Trẻ em khoảng 23h. Trẻ sơ
sinh là 4h. Ở bệnh nhân suy thận mãn t1/2= 19,5h [4], [5], [32].
* Tác dụng dược lý
Acyclovir là một chất tương tự nucleosid, có tác dụng chọn lọc trên tế bào
nhiễm virus Herpes. Tác dụng của acyclovir mạnh nhất trên virus Herpes simplex
typ 1 (HSV1) và kém hơn trên virus Herpes simplex typ 2 (HSV2) và virus
Varicella zoster (VZV) [4], [5], [32].
Để có tác dụng acyclovir phải được phosphoryl hóa, lần 1 do
thymidinkynase đặc hiệu của virus HSV tạo thành dẫn chất monophosphat, lần
thứ 2 và lần thứ 3 do các enzym của tế bào vật chủ để tạo thành dẫn chất
diphosphat và triphospat. Ái lực của HSV thimidinkynase mạnh gấp 200 lần so
với enzym của tế bào vật chủ nên acyclovir được hoạt hóa hầu như chọn lọc
trong các tế bào nhiễm HSV. Acyclovir triphosphat ức chế tổng hợp ADN virus
và sự nhân lên của virus mà không ảnh hưởng đến chuyển hóa của tế bào bình
thường [4], [5], [32].
* Chỉ định
4
Dự phòng và điều trị các bệnh do nhiễm virus HSV1 và HSV2 ở da và
niêm mạc. Điều trị khởi đầu và tái phát nhiễm virus Herpes sinh dục.
Điều trị nhiễm virus Herpes zoster cấp tính ở mắt, phổi, thần kinh.
Dự phòng và điều trị nhiễm virus ở người suy giảm miễn dịch, bệnh thủy
đậu [4, 5].
* Liều dùng
Thông thường người lớn: 200mg/lần x 5 lần/ ngày (người suy giảm miễn
dịch 400mg/lần). Đợt điều trị 5 7 ngày.
Trẻ em dưới 2 tuổi: dùng 1/2 liều người lớn [4], [5].
* Một số chế phẩm acyclovir trên thị trường
Viên nén, viên nang: Zovirax 200mg, 400mg, 800mg.
Thuốc mỡ dùng ngoài: Zovirax 5%.
Lọ bột pha tiêm: Acirax 250mg, 500mg, 1g/5ml.
Cream bôi ngoài da: Acirax cream 5 %, Acyclovir Denk 5% [4], [14].
1.1.2. Clorhexidin
* Công thức hóa học
Công thức phân tử: C22H30Cl2N10
Khối lượng phân tử: 625,56
Tên khoa học: 1,1’ hexamethyllenebis[5pchlorophenyl] bisguanid [33].
* Tính chất lý hóa
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng dạng clorhexidin dược dụng là
clorhexidin gluconat. Clorhexidin gluconat là chất lỏng không màu hay vàng nhạt,
tỉ trọng 1.07, dung dịch 5% trong nước có pH = 5,5 7,0, tan được trong nước và
ethanol và aceton.
5
* Dược động học
Clorhexidin ít hấp thu vào cơ thể qua đường tiêu hóa khi rà miệng, qua da
cũng như khi rửa âm đạo. Vết cặn giữ trên bề mặt nơi bôi còn tác dụng trong 1
2 ngày. Hoạt tính của thuốc không bị ảnh hưởng bởi dịch cơ thể, nhưng bị mất
tác dụng khi gặp các chất diện hoạt anionic.
*Tác dụng dược lý
Clorhexidin có phổ tác dụng rộng, trên cả vi khuẩn Gr(+) và vi khuẩn
Gr(), nấm men, nấm da và virus ưa lipid (kể cả HIV). Thuốc không có hoạt tính
trên các bào tử vi khuẩn (trừ ở nhiệt độ cao).
Clorhexidin dùng để khử khuẩn trên da, vết thương, vết bỏng, đường âm
đạo, làm sạch dụng cụ.
Clorhexidin có thể phòng ngừa việc tạo thành cao răng và bảo vệ chống
lại viêm lợi, thậm chí ở nồng độ thấp [4], [9].
* Chỉ định
Viêm miệng, viêm lợi, viêm amidan, viêm họng, sát khuẩn tại chỗ sau phẫu
thuật khoa răng.
Viêm nhiễm trong trường hợp phẫu thuật, chấn thương và loét (do dãn tĩnh
mạch, đái tháo đường và do dinh dưỡng), rách da, côn trùng đốt, vết thương do
chọc dò.
Tiệt trùng dụng cụ trước khi phẫu thuật [4], [9].
* Liều dùng
Nhiễm khuẩn ở miệng: Người lớn ngậm 1 viên/lần x 4 lần/ngày. Trẻ em ngậm
1 viên/lần x 2 lần/ngày.
Bệnh nấm da, trứng cá: dùng dung dịch rửa 0,050,1%/ngày [4], [9].
* Một số chế phẩm clorhexidin trên thị trường
Dung dịch rửa: Dung dịch clorhexidin 2%, 4%, 5%.
Dung dịch súc miệng: Dung dịch clorhexidin 0,025%, 0,1%, 1%.
Dạng gel bôi da: Gel clorhexidin 60g.
6
1.2. Đại cương về thuốc kết dính niêm mạc
1.2.1. Khái niệm
Khoảng 10 15 năm gần đây, dạng thuốc kết dính niêm mạc được nghiên
cứu và phát triển với mục đích cải thiện SKD của dạng thuốc dùng tại chỗ hoặc
qua niêm mạc. Đây là dạng thuốc kiểm soát giải phóng dược chất khi tiếp xúc
với niêm mạc nhằm phát huy tác dụng tại chỗ hoặc dược chất thấm qua niêm
mạc vào tuần hoàn để có tác dụng toàn thân.
1.2.2.Phân loại
Hệ kết dính niêm mạc có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
Theo vị trí dính của thuốc có thể chia thành loại kết dính niêm mạc
miệng, niêm mạc mũi, niêm mạc đường tiêu hóa, niêm mạc âm đạo và hệ kết
dính giác mạc.
Theo dạng bào chế có viên nén kết dính, miếng dán, vi cầu, pellet, gel,
film, hỗn dịch,...
a) Dạng viên
7
Viên nén: Viên nén kết dính niêm mạc miệng được phát triển với mục
đích cải thiện sinh khả dụng của dạng thuốc dùng qua khoang miệng. Dạng
thuốc này có thể đặt ở các vị trí như vòm miệng, niêm mạc má giữa môi trên và
lợi. Vị trí đặt viên có thể ảnh hưởng đến thời gian lưu và khả năng dung nạp của
thuốc (ở vòm miệng và niêm mạc dưới lưỡi thời gian lưu có thể thay đổi từ 4
12h) [31]. Viên thường mềm và dính vào vị trí hấp thu (hay còn gọi chất nền)
nhờ sự có mặt của nước bọt, duy trì ở vị trí đó đến khi tan và giải phóng dược
chất hoàn toàn. Sau một thời gian ngắn thì nó không còn gây chú ý cho bệnh nhân
nữa [23], [45]. Viên nén kết dính thường nhỏ, nhẵn phẳng hoặc hình oval có
đường kính khoảng 58mm. Tuy nhiên dạng bào chế này có tính linh động cơ học
thấp dẫn đến bệnh nhân khó chịu khi dùng điều trị dài ngày và cần dùng nhiều
lần [34].
Viên nén kết dính thường được bào chế bằng phương pháp nén, bề mặt
của viên nén được bao bởi các polyme dính như ethylcelluosse, hydrogel. Viên
nén kết dính cũng có thể sử dụng vi cầu, hoặc pellet để dập viên nhằm đạt được
các đặc tính mong muốn như kiểm soát giải phóng và tăng SKD [34].
Một số chế phẩm viên nén kết dính trên thị trường như Nicorette
(nicotine), Suscard (glyceryl trinitrate), Striant (testosteron) [31].
Viên đổ khuôn: Viên đổ khuôn qui ước thường giải phóng dược chất lúc
đầu cao trong khoang miệng sau đó giảm nhanh vì vậy cần dùng nhiều lần trong
ngày. Viên đổ khuôn dính sinh học giải phóng chậm dẫn đến khả năng kéo dài
giải phóng để làm giảm bất tiện cho bệnh nhân. Dạng bào chế này thường chứa
dược chất tác dụng tại chỗ trong miệng như chất kháng khuẩn, kháng sinh, gây
tê tại chỗ, chống nấm, glucocorticoid [1], [25], [45].
b) Miếng dán
Miếng dán là những lớp mỏng gồm lớp nền không thấm và kho chứa
thuốc là nơi giải phóng một cách có kiểm soát. Miếng dán niêm mạc miệng có
những thiết kế khác nhau tùy theo mục đích điều trị, đặc tính lý hóa, dược động
8
học của dược chất. Liên quan đến mục đích điều trị, miếng dán có thể thiết kế
theo hai mục đích: miếng dán thiết kế để phân phối thuốc đến tuần hoàn và
miếng dán dùng tại chỗ. Một hệ phân phối thuốc dán phù hợp cần linh động,
mềm dẻo, có độ bền cơ học thích hợp và trương nở ở một mức độ nhất định khi
đặt trong môi trường thân nước. Chúng cũng đảm bảo liều dùng chính xác khi so
sánh với dạng gel và thuốc mỡ. Miếng dán không thích hợp với thuốc điều trị
nhiễm khuẩn chân răng. Dạng bào chế này sử dụng polyme không phân hủy sinh
học nên cần tháo bỏ ở cuối liệu trình điều trị [31].
Phương pháp bào chế miếng dán kết dính: phương pháp bốc hơi dung môi
và phương pháp cán ép [34].
c) Màng mỏng
Là hệ phân phối thuốc được tạo ra nhờ sự gắn kết dược chất với các tá
dược kiểm soát giải phóng. Màng mỏng thường được bào chế bằng phương
pháp bốc hơi dung môi, tá dược polyme được hòa tan trong dung môi hoặc hỗn
hợp dung môi thích hợp, sau đó hòa tan hoặc phân tán dược chất vào dung dịch
polyme trên. Làm bay hơi dung môi bằng phương pháp thích hợp để tạo ra màng
mỏng. Màng mỏng có thể gắn được trên lớp màng nền [21]. Lớp màng nền giúp
làm chậm sự khuyếch tán của nước bọt vào lớp thuốc do vậy tăng thời gian dính
và giảm hao hụt thuốc. Phương pháp bốc hơi dung môi có nhược điểm là thời
gian bào chế dài, giá thành cao, chịu sự ảnh hưởng của môi trường trong quá trình
bay hơi dung môi. Hạn chế này có thể khắc phục bằng phương pháp đùn nóng
chảy (hotmelt extrusion technology)[31], [34]. Phương pháp này được dùng để
tạo cốt màng mỏng kết dính dùng cho khoang miệng chứa clotrimazol để điều trị
nhiễm nấm candida [31].
d) Vi cầu kết dính
Vi cầu kết dính cũng tương tự viên nén kết dính. Vi cầu kết dính có khả
năng cải thiện khả năng hấp thu và nâng cao SKD của thuốc nhờ sự kết hợp chặt
chẽ với lớp chất nhầy và giữ thuốc lâu hơn tại niêm mạc đường tiêu hóa và khả
9
năng kết dính đặc hiệu của thuốc tại vị trí hấp thu. Các polyme như các receptor,
có thể phá vỡ nhân tố ngăn cản tốc độ thay đổi chất nhầy và thời gian tiềm tàng
ngắn. Sự đặc hiệu này cho phép chúng gắn với tế bào theo định hướng mong
muốn hơn là chỉ gắn với lớp chất nhầy. Ngoài ra dạng bào chế này ít gây kích
ứng tại vị trí kết dính hơn và ít gây cảm giác khó chịu hơn các dạng bào chế khác
tại khoang miệng. Vi cầu kết dính được bào chế bằng phương pháp vi nhũ
tương hoặc phương pháp phun sấy [25], [34], [46].
e) Gel
Hệ bán rắn được bào chế dựa trên các gel thân nước. Chúng được sử
dụng trong các thuốc theo đường niêm mạc miệng hoặc bao quanh răng nhằm
phát huy tác dụng tại chỗ. Gel được hydrat hóa trong môi trường thân nước mà
không cần hòa tan, hoạt động như một hệ phân phối thuốc từ từ bằng cơ chế
khuyếch tán và sói mòn. Hệ bán rắn cũng thích hợp cho việc dùng xi lanh để
phân phối chế phẩm một cách dễ dàng vào các túi quanh răng và thông qua
khoang miệng. Hạn chế chính của dạng thuốc có thời gian lưu ngắn, có thể cải
thiện bằng cách thêm các polyme dính sinh học vào công thức [31].
Dạng gel được sử dụng rộng trong các dạng thuốc dùng tại mắt, khoang
miệng, và âm đạo. Polyme dính là các acid polyacrylic liên kết chéo như
poloxame, NaCMC, Carbopol, gôm xanthan,... Các polyme dính này được sử dụng
để dính vào bề mặt niêm mạc miệng kéo dài thời gian tác dụng và kiểm soát giải
phóng dược chất tại vị trí hấp thu thuốc. Hạn chế của dạng bào chế này là khó
kiểm soát liều so với viên nén, miếng dán, màng mỏng vì thế không sử dụng
được với các dược chất có giới hạn điều trị hẹp [34], [25].
e) Dung dịch
Dạng dung dịch cũng có thể sử dụng tại chỗ ở khoang miệng. Các polyme
được sử dụng để làm tăng độ nhớt của chế phẩm tạo thành dung dịch nhớt có
thể phủ lên bề mặt niêm mạc vừa đủ để bảo vệ vừa phân phối thuốc vào niêm
mạc, làm tăng thời gian lưu của thuốc trong khoang miệng. Dung dịch nước bọt
10
nhân tạo giúp bôi trơn bề mặt niêm mạc miệng có thể dùng điều trị bệnh khô
miệng [45].
f) Dạng kết dính đặc hiệu
Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về việc sử dụng các thuộc tính kết
dính của polyme như một tác nhân kết dính sinh học, tuy nhiên các dạng này cũng
bộc lộ một vài nhược điểm: viên nén, viên nang dính niêm mạc có thể gây tổn
thương cho tế bào tại nơi dính, tương tác giữa thành phần công thức với chất
nhầy trong ống tiêu hóa tạo lớp bao bên ngoài dạng thuốc do đó thuốc không
được hấp thu tại vị trí đưa thuốc mà đi theo ống tiêu hóa ra ngoài. Trong khi đó,
chất kết dính đặc hiệu có vai trò như một loại phân tử sinh học đặc biệt có khả
năng nhận ra và gắn chặt với bề mặt tế bào hay trong chất nhầy. Một số phân tử
kết dính đặc hiệu như lectin, fimbrin và invasin của vi khuẩn. Việc phối hợp
những chất kết dính đặc hiệu này có thể làm tăng SKD của dạng thuốc kết dính
dạng rắn, bán rắn, lỏng [25].
1.2.3. Sơ lược về các thuốc kết dính niêm mạc miệng
a) Đặc điểm
Sử dụng dạng thuốc kết dính niêm mạc miệng là một đường dùng thuốc
khá an toàn và tránh được sự chuyển hóa qua gan lần đầu, hơn nữa bề mặt niêm
mạc miệng có tính thấm cao, được cung cấp lượng máu dồi dào nên thuốc hấp
thu tốt hơn. Hơn nữa, ở dạng thuốc này có sự tiếp xúc trực tiếp giữa dạng bào
chế và mô hấp thu nên nồng độ thuốc tập trung cao tại vị trí dính tạo thành dòng
thuốc lớn xuyên qua mô hấp thu làm tăng khả năng hấp thu của thuốc. Sự hấp
thu thuốc trong khoang miệng có thể đi theo 3 con đường chính: qua niêm mạc
dưới lưỡi, qua niêm mạc miệng (vùng niêm mạc trong má) và tác dụng tại chỗ.
Việc lựa chọn con đường nào phải dựa trên cơ sở cấu tạo giải phẫu và tính
thấm khác nhau của từng vị trí trong khoang miệng. Vùng niêm mạc dưới lưỡi có
khả năng thấm tốt thuận lợi cho việc hấp thu và làm tăng sinh khả dụng của
nhiều thuốc. Vùng niêm mạc miệng có tính thấm kém hơn vùng dưới lưỡi nên
11
thuốc hấp thu kém hơn và sinh khả dụng của thuốc cũng thấp hơn vùng dưới
lưỡi. Thuốc tác dụng tại chỗ chủ yếu là nhờ các mô trong khoang miệng được áp
dụng trong một số dạng thuốc điều trị bệnh răng miệng, nhiễm khuẩn, nhiễm
nấm,...[18], [31].
Thuốc có thể bị rửa trôi hoặc phân hủy bởi nước bọt và các tác động cơ
học trong khoang miệng. Thuốc cần có khả năng thấm tốt, không gây dị ứng và
cảm giác khó chịu trong miệng.
Một hệ kết dính niêm mạc miệng tốt cần có những đặc điểm sau [31],
[34]:
Dính tại vị trí điều trị vài giờ.
Giải phóng dược chất có kiểm soát.
Chứa được lượng thuốc đáp ứng được yêu cầu điều trị và chỉ nên giải
phóng theo một hướng về phía niêm mạc tiếp xúc.
Có mức độ và tốc độ hấp thu thuốc hợp lý.
Đủ nhỏ và mềm dẻo, bề mặt mềm mại không gây bất tiện cho bệnh
nhân cũng như không kích ứng.
Có các đặc tính kết dính sinh học tốt, bề mặt trơn nhẵn và dễ áp dụng.
Không cản trở các chức năng bình thường của khoang miệng.
b) Phân loại
Dạng thuốc kết dính niêm mạc miệng có thể phân loại như sau:
Dựa vào khả năng kiểm soát giải phóng từ dạng thuốc có thể xếp thành
2 nhóm: hệ kết dính (adhesive systems) và kẹo nhai (chewing gums) [31], [40].
Dựa vào dạng bào chế có thể chia thành các loại: viên nén dạng cốt,
màng mỏng, băng dán nhiều lớp, vi cầu, thuốc mỡ, gel, pellet.
Dựa vào hướng giải phóng thuốc: Dạng thuốc kết dính niêm mạc miệng
gồm 3 loại. Loại đơn lớp thuốc được giải phóng đa hướng trong khoang miệng
và loại này sẽ làm mất đáng kể 1 lượng thuốc do nuốt trôi. Loại hai lớp có thêm
một lớp nền không thấm chồng lên bề mặt nền dính chứa thuốc tạo ra dạng hai
12
lớp giúp ngăn cản thuốc mất đi từ bề mặt đối diện vào khoang miệng. Với loại
thứ 3, tất cả các cạnh của dạng bào chế được bao kín trừ cạnh tiếp xúc trực tiếp
với niêm mạc miệng. DC chỉ giải phóng một cách đơn hướng từ bề mặt dính tới
niêm mạc miệng nên sự mất mát thuốc là tối thiểu [34].
Theo kiểu tác dụng của dạng thuốc: gồm 2 loại hấp thu vào tuần hoàn
và tác dụng tại chỗ.
Ngoài ra, hệ kết dính niêm mạc miệng cũng có thể phân chia dạng bào chế
theo kiểu “bình chứa” và “cốt”. Dạng bình chứa một lượng lớn thuốc sẽ lưu trữ
trong kho được bao quanh bởi lớp màng polyme kiểm soát tỷ lệ giải phóng. Ở
dạng “cốt” thuốc được phân tán đồng nhất vào cốt polyme và thuốc được kiểm
soát giải phóng nhờ sự khuyếch tán qua mạng lưới polyme [34].
1.2.4. Sơ lược về màng mỏng kết dính niêm mạc miệng
a) Ưu điểm
Một số năm gần đây, trong các dạng thuốc kết dính niêm mạc miệng thì
màng mỏng được chú ý nghiên cứu và phát triển nhất do có nhiều ưu điểm nổi
bật như:
+ Khả năng linh động, mềm dẻo, dễ sử dụng, nhất là điều trị bệnh viêm
chân răng.
+ Thời gian lưu thích hợp.
+ Đảm bảo liều dùng chính xác hơn dạng gel và thuốc mỡ [45].
+ Màng polyme có khả năng bám dính giúp giảm hiện tượng rửa trôi và
bong ra do nước bọt, bảo vệ bề mặt bị tổn thương nên giúp giảm đau.
Ngoài việc dùng màng mỏng để đưa thuốc vào tuần hoàn, màng mỏng còn
thích hợp cho việc dùng tại chỗ các bệnh răng miệng chứa kháng sinh và các chất
kháng khuẩn. Hệ phân phối thuốc được tạo ra nhờ sự gắn kết dược chất với các
tá dược kiểm soát giải phóng. Việc sử dụng màng mỏng dính niêm mạc miệng
dùng cho vaccin cũng đã được nghiên cứu [31].
b) Nhược điểm: Nếu polyme trương nở quá nhiều sẽ gây bất tiện cho bệnh
13
nhân, hoặc có thể xảy ra tương tác giữa polyme và dược chất.
c) Một số tá dược thường dùng
Các polyme dính:
+ Chitosan: Chitosan là một polyme cation tự nhiên chứa glucosamin và N
acetylglucosamin. Chitosan có khả năng kết dính tốt, hạn chế tác dụng của
enzym và làm tăng tính thấm của dược chất qua niêm mạc, có khả năng tạo film
tốt, đặc biệt có tiềm năng đối với các dạng thuốc giải phóng kéo dài. Thêm vào
đó, do bản chất là một polysaccarid, là sản phẩm deacetyl hóa một phần của
chitin (chất có nguồn gốc thiên nhiên) nên chitosan có độc tính thấp, tương tác
sinh học tốt và có khả năng phân hủy sinh học. Nhóm amino của chitosan khi kết
hợp với 1 acid như acid acetic hoặc citric có khả năng cải thiện đặc tính hóa học,
ngoài ra khối lượng phân tử, mức độ deacetyl hóa, pH cũng làm tăng hiệu quả
trong bào chế. Trong ngành dược, chitosan được sử dụng rộng rãi trong trong các
dạng bào chế như viên nén, gel, vi cầu, dạng thuốc kết dính niêm mạc miệng,
hoặc dùng với mục đích tăng tính thấm của các dạng thuốc dùng cho khoang
miệng, mũi, nhãn khoa [24], [41], [45], [39].
Đặc biệt, các nghiên cứu gần đây đã công bố việc kết hợp nhóm amino
của chitosan với nhóm thiol tạo thành thiolat chitosan có khả năng kết dính cao
hơn so với chitosan. Điều này có thể giải thích do lực liên kết hóa trị với lớp chất
nhầy mạnh hơn lực liên kết không hóa trị. Một số dẫn chất khác của chitosan
cũng được tìm ra để cải thiện khả năng hòa tan, độ dính và tính thấm như
trimetylat chitosan, monoN carboxymetyl chitosan, N sulfo chitosan [39].
+ Các hydrogel: Các hydrogel thường là các polyme chứa liên kết chéo,
trương nở trong môi trường thân nước. Các sợi liên két chéo trong phân tử tạo
thành ma trận bảo vệ các hydrogel ít bị hòa tan và giúp chúng giữ nước. Khi nước
vào ma trận này, các chuỗi nới lỏng và phân tử thuốc trong ma trận được giải
phóng. Một số polyme loại này như: Metylcellulose, hydroxypropyl cellulose,
14
hydroxypropyl metyl cellulose, Carbopol, polycarbophyl, gelatin, natri alginat, gôm
tự nhiên.
+ Lectin: Lectin là một loại protein có trong vi khuẩn hoặc nhựa khoai tây.
Chúng như một loại polyme đặc biệt có khả năng gắn kết với phần đường của
màng tế bào nên tăng độ dính sinh học, cải thiện khả năng phân phối thuốc tiềm
tàng và tăng thời gian lưu giữ thuốc tại vị trí dính [34].
+ Chất kết dính vi sinh vật: Đây là loại chất kết dính lấy từ tế bào viền
của vi khuẩn có nhiều ưu điểm về khả năng kết dính nên trong thời gian gần đây
được ưu tiên phát triển. Chúng như rễ bám chặt vào các phần cụ thể hoặc phần
phụ trên bề mặt tế bào và gắn kết đặc hiệu trên tế bào như một receptor. Một số
chất kết dính loại này được chiết từ các loại vi khuẩn như các chủng E. Coli
[34].
Chất hóa dẻo: là những chất có khả năng làm cải thiện đặc tính cơ học màng
mỏng. Một số chất hóa dẻo thường dùng như glycerin, polyethylen glycol 400,
propylen glycol,...
Chất làm tăng tính thấm: là những chất có khả năng làm tăng tính thấm qua
màng của dược chất mà không hư hại hay gây độc màng tế bào. Chúng có thể
làm thay đổi tính chất lưu biến của niêm mạc, làm tăng tính linh động của lớp
màng lipit kép, tác động trên các “tiểu thể nối” gian bào, khắc phục hàng rào
enzym, tăng cường nhiệt động học của thuốc, tạo phức càng cua, chất diện
hoạt,... Một số chất thường dùng như EDTA, natri laurylsulfat, polysorbat 80,
acid citric [45].
1.2.5. Các phương pháp đánh giá độ kết dính sinh học
a) Độ kết dính sinh học
Độ kết dính là một đại lượng cần đánh giá đối với chế phẩm dán niêm
mạc miệng vì trong khoang miệng cơ chế di chuyển sinh lý (sự tiết nước bọt, áp
lực cơ học) sẽ làm tăng tính tẩy rửa thuốc, làm bật dạng bào chế ra khỏi vị trí sử
dụng dẫn tới sự phân phối thuốc không như mong muốn. Phương pháp thử
15
invitro gồm các phép định lượng được phân thành 3 loại theo hướng của lực tác
dụng (hình 1.1):
Hình 1.1: Nguyên tắc đánh giá độ kết dính
Đo lực kéo dãn đàn hồi (tensile strength): lực kéo căng tối đa mà chế
phẩm có thể chịu được mà không bị rách.
Đo lực gây bong tróc (peel strength): lực cần bóc tách chế phẩm ra khỏi
chất nền.
Đo lực nén gây ra sự chuyển dịch, trượt (shear strength): lực cần để chế
phẩm trượt về phía niêm mạc theo hướng song song với mặt phẳng tiếp xúc.
Chất nền là các mô lấy từ niêm mạc đường tiêu hóa (thực quản, dạ dày,
ruột) hoặc niêm mạc má, niêm mạc dưới lưỡi, niêm mạc quanh chân răng của
chuột, lợn, thỏ, bò, ... [31], [45].
Theo nghiên cứu của Noha Adel Nafee và các cộng sự, phương pháp đánh
giá lực kết dính được thực hiện như sau: Thiết bị của phép thử là một thiết bị
thăng bằng 2 cánh tay đòn, bên trái cánh tay đòn treo một miếng nhỏ platin thẳng
đứng thông qua một cái dây. Tại mép của tấm kim loại, một tấm nền di động
được giữ cố định trong đáy để gắn niêm mạc. Để đo lực kết dính sinh học
miếng dán niêm mạc miệng được gắn vào mảnh platin nhờ chất kết dính
16
cyanoacrylat. Một miếng niêm mạc dạ dày thỏ dài 3cm cũng được gắn trên nền,
bề mặt miếng dán được thấm ẩm bởi 15ml đệm phosphat pH 6,75 trong 30s
nhằm hydrat hóa và trương nở ban đầu. Sau đó tấm nền được di chuyển theo
hướng thẳng đứng sao cho bề mặt miếng dán luôn tiếp xúc với niêm mạc thử.
Trọng lượng thử ban đầu là 20g trong 3 giây để tạo lực kết dính. Ở bên phải đòn
trọng lượng được thêm vào cố định 5g/2 giây. Lực kết dính sinh học được xác
định bằng khối lượng quả cân mà tại thời điểm miếng dán bong ra khỏi vị trí
dính [35].
F: lực kết dính sinh học (kg/m.s)
Ww : tổng khối lượng thêm vào.
g : gia tốc trọng trường (cm.s2).
A: bề mặt của miếng dán (cm2).
b) Độ bền cơ học
Độ bền cơ học gồm độ cứng, độ mềm dẻo, khả năng chịu nén ép, khả
năng kết dính. Hiện nay, người ta thường dùng máy phân tích k ết cấu TPA
(Texture Profile Analyzer), thăm dò huỳnh quang ( Fluorescent Probe Method),
kính hiển vi lực nguyên tử AFM (Atomic Force Microcopy) để đánh giá [31].
c) Sinh khả dụng invitro
Sinh khả dụng invitro được đánh giá bằng thời gian lưu, khả năng hút
nước, lượng thuốc mất do rửa trôi, đánh giá khả năng thấm và khả năng giải
phóng dược chất. Vì đây là dạng bào chế mới nên chưa có thiết bị đánh giá thống
nhất [40].
d) SKD invivo
Đánh giá SKD invivo là đánh giá khả năng hấp thu dược chất qua niêm
mạc vào máu hoặc giải phóng thuốc tại chỗ, đo lực bám dính, thời gian lưu của
17
chế phẩm,… tại vị trí sử dụng trên niêm mạc các loài động vật như: chuột, chó,
mèo, thỏ.
1.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh khả dụng của dạng thuốc kết dính
niêm mạc miệng
a) Yếu tố sinh lý
* Cấu trúc niêm mạc miệng
Niêm mạc miệng có vai trò bảo vệ các cấu trúc nằm bên dưới khỏi các tác
nhân ngoại lai. Tại niêm mạc miệng thuốc được hấp thu trực tiếp, tránh chuyển
hóa qua gan lần đầu và là đường dùng thuốc tương đối an toàn [6]. Niêm mạc
miệng được chia thành 5 vùng: vùng dưới lưỡi, niêm mạc má, niêm mạc lợi, vòm
miệng, môi. Niêm mạc miệng gồm nhiều tầng tế bào biểu mô (khoảng 40 50
lớp tế bào). Các tế bào biểu mô có thể được tái lập sau 5 6 ngày. Độ dày của
niêm mạc miệng khác nhau tùy thuộc vào vị trí trong khoang miệng: Niêm mạc
má có độ dày 500 800 m, trong khi đó niêm mạc dưới lưỡi và vùng lợi khoảng
100 200 m. Bề mặt lớp niêm mạc xù xì, thô ráp nên thích hợp với các loại thuốc
cần lưu giữ lâu trong khoang miệng. Cấu tạo của tế bào biểu mô có thể bị sừng
hóa, nửa sừng hóa hoặc không bị sừng hóa tùy vào từng vị trí trong khoang
miệng. Điều này ảnh hưởng đến tính thấm của các thuốc hấp thu tại niêm mạc
miệng [18].
Niêm mạc miệng có khả năng thấm cao hơn da khoảng 4 4000 lần. Tuy
nhiên, các vùng khác nhau trong khoang miệng có tính thấm lại rất khác nhau:
Niêm mạc dưới lưỡi có tính thấm tốt, đem lại sự hấp thu nhanh và SKD cao đối
với nhiều loại thuốc và việc sử dụng khá thuận lợi, nhưng thường xuyên bị rửa
trôi bởi một lượng đáng kể nước bọt nên niêm mạc dưới lưỡi chỉ thích hợp với
những dạng thuốc dùng trong thời gian ngắn và không yêu cầu liều duy trì. Niêm
18
mạc má có tính thấm kém hơn niêm mạc dưới lưỡi và thường không đem lại sự
hấp thu nhanh nhưng đây là vùng cơ phẳng và bất động nên thích hợp với các
thuốc giải phóng kéo dài [19].
* Nước bọt:
Nước bọt là dịch bảo vệ toàn bộ khoang miệng, bảo vệ các mô mềm khỏi
chày xước bởi các nguyên liệu thô giáp và hóa chất. Nước bọt là dịch nước chứa
1% thành phần hữu cơ và các thành phần vô cơ. Nước bọt chứa enzym như
amylase, lysozym, lipase và các enzym khác với tỉ lệ thấp và có thể làm phân hủy
thuốc [7].
Nước bọt có pH = 5,5 7 (phụ thuộc vào tốc độ chảy). Độ pH có
thể làm thay đổi trạng thái ion của các polyme làm thay đổi khả năng bám dính và
tính thấm của các thuốc dạng ion [31]. Khả năng thấm lớn nhất xảy ra tại pH mà
ở đó các thuốc tồn tại dạng không ion. Do vậy điều chỉnh pH là một trong những
biện pháp làm tăng khả năng hấp thu của thuốc [34].
Tốc độ chảy của nước bọt phụ thuộc vào 3 yếu tố: thời gian trong ngày,
loại kích thích và mức độ kích thích. Thể tích nước bọt hàng ngày là 0,5 2 lít,
phù hợp cho sự hydrat hóa dạng thuốc qua niêm mạc miệng. Vì vậy cốt polyme
thân nước thường được dùng cho hệ phân phối thuốc [18]. Tuy nhiên việc nuốt
nước bọt lại làm ảnh hưởng đến sinh khả dụng của thuốc. Sự chuyển động của
các mô trong miệng khi ăn uống và nói chuyện, ngủ có thể làm bong thuốc [31].
b) Yếu tố bệnh lý
Một số bệnh hoặc điều trị bệnh có thể ảnh hưởng tới bề dày lớp tế bào
biểu mô hoặc biến đổi đặc tính của niêm mạc dẫn đến ảnh hưởng đến sinh khả
dụng của thuốc.
c) Dược lý
Dạng bào chế niêm mạc miệng có thể được thiết kế cho mục đích điều trị
tại chỗ hoặc toàn thân, tùy mục tiêu điều trị, đặc tính thuốc, và vị trí điều trị mà
lựa chọn dạng bào chế thích hợp.
d) Các yếu tố thuộc về công thức
19
* Dược chất
Sự ion hóa, hệ số phân bố D/N, pH, độ tan, tính thấm,... ảnh hưởng lớn
đến SKD của thuốc [19].
Ngoài ra dược chất dùng cho khoang miệng không nên có mùi vị riêng,
không kích ứng niêm mạc miệng và không kích thích dây thần kinh vị giác,...vì
các yếu tố này gây tiết nước bọt và kèm theo phản xạ nuốt [1], [3].
* Polyme dính
Đặc tính kết dính của dạng thuốc kết dính niêm mạc miệng được quyết
định bởi 2 yếu tố: khả năng dính của polyme và môi trường polyme tiếp xúc. Các
polyme dược sử dụng làm thành phần dính, chúng tan trong nước và khi khô có
thể hút nước từ bề mặt sinh học và sự di chuyển của nước dẫn đến tương tác
mạnh. Những polyme này cũng có thể ở dạng sền sệt khi hydrat hóa có thể làm
tăng thời gian lưu của thuốc trên bề mặt niêm mạc và dẫn đến tương tác dính.
▪ Các thuộc tính của polyme tác động đến khả năng dính của dạng thuốc
[13], [34]:
Khối lượng phân tử: Lực kết dính sinh học tăng khi khối lượng phân tử
polyme tăng. Thông thường khối lượng phân tử polyme từ 100,000 800,000 .
Độ linh động: Sự kết dính sinh học bắt đầu với sự khuếch tán của các
chuỗi polyme trong vùng tiếp xúc. Vì thế, mức độ linh động đáng kể của các
chuỗi polyme quyết định sự kết dính với chất nhầy. Khả năng linh động của
polyme là do độ nhớt và hệ cốt khuếch tán quyết định.
Mật độ liên kết chéo: Khi tăng mật độ liên kết chéo, khả năng khuếch
tán của nước vào hệ thống polyme sẽ chậm đi, khả năng trương nở của polyme
giảm dẫn đến khả năng xâm nhập của polyme với chất nhầy giảm.
Sự tích điện: Các polyme không ion hóa thì mức độ kết dính sẽ nhỏ hơn
các polyme được ion hóa. Thêm vào đó, những cation polyme có khối lượng phân
tử lớn như chistosan thường có khả năng kết dính tốt.
20
Nồng độ polyme: Nồng độ polyme nhỏ, khả năng xâm nhập của polyme
vào chất nhầy nhỏ và tương tác giữa polyme và chất nhầy không bền. Thông
thường nồng độ polyme tăng thì khả năng xâm nhập của polyme vào niêm mạc
tăng dẫn đến độ kết dính tăng. Tuy nhiên mỗi polyme đều có một nồng độ tới
hạn, vượt quá nồng độ này các polyme không xáo trộn được, vì vậy giảm khả
năng kết dính của polyme.
Sự trương nở: Quá trình hydrat hóa sẽ giúp polyme trương nở và tạo
thành một mạng lưới phân tử thích hợp cũng như tăng độ linh động của các
chuỗi polyme nhằm tăng khả năng xâm nhập của polyme vào hệ thống màng
nhầy.
Cấu trúc không gian của polyme: Cấu trúc không gian ảnh hưởng không
nhỏ tới khả năng kết dính của polyme.
▪ Polyme được gọi là lý tưởng khi đạt được các tiêu chí sau [31], [45]:
Polyme và các sản phẩm thoái hóa của nó không độc và không hấp thu
qua niêm mạc miệng.
Không kích ứng niêm mạc miệng.
Có khả năng bao phủ, thấm ẩm, trương nở, độ tan và phân hủy sinh học
tốt.
Dính nhanh vào niêm mạc và có độ bền cơ học tốt.
Dễ phối hợp với thuốc và không gây cản trở tới sự giải phóng dược
chất, không phân hủy trong khi bảo quản.
Có đặc tính mềm dẻo, độ dính tốt, kéo dãn, bong tróc tốt ở mức độ kết
dính sinh học và phù hợp với dạng bào chế.
Khối lượng phân tử tối ưu và pH thích hợp.
Có khả năng ức chế enzym và có tính thấm tốt.
Có cấu trúc không gian thích hợp.
Giá thành hợp lý.
* Chất hóa dẻo
21
Chất hóa dẻo trong công thức bào chế có tác dụng làm tăng độ mềm dẻo
và khả năng bám dính của màng. Các chất hóa dẻo được sử dụng thường tương
đối giống về mặt hóa học với polyme. Sự có mặt của chất hóa dẻo có thể làm
thay đổi tốc độ giải phóng của dược chất [2].
1.3. Một số nghiên cứu về thuốc kết dính niêm mạc và màng mỏng kết dính
niêm mạc miệng
1.3.1. Về thuốc kết dính niêm mạc
a) Thuốc kết dính niêm mạc chứa ACV:
Nhằm cải thiện SKD của ACV, Yunying Tao và các cộng sự đã nghiên
cứu phát triển vi cầu ACV kết dính niêm mạc. Vi cầu được bào chế bằng
phương pháp vi nhũ tương với ethylcellulose (EC), Carbopol (CB) với các tỷ lệ
khác nhau (1/9, 1/7, 1/5, 1/3 w/w). Ethylcellulose, Carbopol được hòa tan trong
ethanol sau đó phân tán ACV vào dung dịch trên. Rót nhanh hỗn dịch trên vào dầu
parafin nhẹ chứa 2,5% span 80 và khuấy từ tạo nhũ tương. Bốc hơi ethanol với
áp suất giảm. Sản phẩm để ở nhiệt độ 250C trong 2h sau đó giảm nhiệt độ
xuống 150C cho đến khi ethanol bay hơi hết. Vi cầu tạo thành được tách ra bằng
cách ly tâm và loại hết parafin bằng ether dầu hỏa. Vi cầu được để khô ở nhiệt
độ phòng trong 12h. Vi cầu tạo thành được đánh giá hình thái bằng kính hiển vi
điện tử; khả năng giải phóng thuốc; đánh giá độ kết dính của vi cầu trên niêm
mạc dạ dày chuột, invivo trên chuột và theo dõi độ ổn định. Kết quả nghiên cứu
cho thấy vi cầu kết dính với tỷ lệ CB/EC 1:3 kl/kl có hình cầu; khả năng giải
phóng trung bình, tốc độ giải phóng cao trong môi trường đệm HCl pH 1,3 và
đệm phosphat pH 7,4 và thấp ở môi trường đệm phosphat pH 3,6. Tăng tỷ lệ CB
tốc độ giải phóng tăng, tăng tỷ lệ EC tốc độ giải phóng giảm. Đánh giá SKD cho
thấy giá trị AUC khi sử dụng vi cầu kết dính cao gấp 3 lần dạng hỗn dịch.
Nghiên cứu invivo còn cho thấy vi cầu trên có khả năng duy trì nồng độ ACV
trong huyết tương chuột 7,2h (dạng hỗn dịch chỉ duy trì được 3,7h) [46].
22
Sumeet Dhaliwal và cộng sự đã nghiên cứu bào chế và đánh giá SKD của
vi cầu ACV kết dính niêm mạc đường tiêu hóa. Vi cầu với chitosan được bào
chế bằng phương pháp vi nhũ tương với polyme chitosan, thionat chitosan,
Carbopol 71G và Methocel K15. Nhũ tương được tạo thành bằng cách nhũ hóa
dung dịch ACV trong nước, dung dịch polyme trong acid acetic vào dầu parafin
chứa Span 80. Tiếp tục thêm từ từ gluteraldehyd, khuấy trộn trong 3,5h. Vi cầu
tạo thành được tách ra bằng cách ly tâm và rửa trong ether dầu hỏa để loại
parafin. Vi cầu Carbopol và Methocel được bào chế bằng phương pháp phun sấy.
Vi cầu được đánh giá hình dạng và kích thước, đánh giá khả năng trương nở, tỷ
lệ vi cầu hóa, khả năng kết dính, giải phóng invitro và invivo. Kết quả nghiên
cứu cho thấy thời gian tồn tại của ACV tại vị trí hấp thu (tá tràng) tăng lên với
công thức sử dụng chitosan, thiolat chitosan, Carbopol 71G và Methocel K15M. Vi
cầu được tạo thành từ thiolat chitosan có khả năng kết dính lớn nhất. Giá trị
AUC khi sử dụng vi cầu gấp 4 lần so với uống dạng dung dịch. Nghiên cứu
invivo còn cho thấy vi cầu trên có khả năng duy trì nồng độ ACV trong huyết
tương chuột 24h (dạng dung dịch chỉ duy trì được 5h) [43].
Lợi dụng đặc tính niêm mạc mũi có diện tích hấp thu thuốc tương đối lớn
và khả năng lưu trữ thuốc lâu hơn tại vị trí hấp thu. Ibrahim và các cộng sự đã
tiến hành nghiên cứu khả năng kết dính của các hydrogel trong hệ phân phối
thuốc tại mũi chứa ACV với các polyme chitosan, Carbopol 971P, PVP. Gel
Carbopol và PVP (có PEG 600 hoặc glycerin được tạo thành bằng cách phân tán
polyme vào nước kết hợp khuấy trộn. Gel PVP tiếp tục được chiếu tia với
cường độ 15kGy, 20kGy để tạo liên kết chéo. Gel chitosan được bào chế bằng
cách hòa tan chitosan trong dung dịch acid lactic và aldehyd glutaric. Khả năng của
gel được xác định bằng lực để tách rời dạng bào chế ra khỏi mô màng mũi cừu.
Kết quả cho thấy: gel chitosan và gel PVP 3% với sự có mặt của PEG có lực kết
dính lớn nhất. Sự có mặt của PEG và glycerin làm tăng tốc độ giải phóng ACV ra
khỏi gel. Tăng cường độ chiếu sáng tốc độ giải phóng dược chất giảm và cường
23
độ 15kGy là đủ để tạo liên kết chéo cho gel PVP. Nghiên cứu tương tác của
thành phần gel với niêm mạc mũi cừu ủ bệnh cho thấy trong các gel đã bào chế,
gel PVP là an toàn nhất với niêm mạc (gel chitosan và gel Carbopol có hiện tượng
viêm, xung huyết mạch), công thức có PEG sử dụng an toàn hơn glycerin [26].
b) Thuốc kết dính niêm mạc chứa dược chất khác:
L.B.Rodrigues và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu màng mỏng
dexamethason kết dính niêm mạc mắt với polyme là chitosan. Màng mỏng được
bào chế dưới dạng 1 lớp và 2 lớp. Dexamethason được phân tán đồng nhất vào
dung dịch chitosan. Dạng 1 lớp được bào chế bằng cách hòa tan dược chất vào
dung dịch chitosan 2% và acid acetic 2% sau đó để khô trong đĩa petri ở nhiệt độ
phòng từ 1 3 ngày cho đến khi màng mỏng hình thành. Màng mỏng 2 lớp được
bào chế bằng cách đổ thêm 1 lớp polyme lên trên màng mỏng 1 lớp, tiếp tục sấy
khô cho đến khi màng mỏng hình thành. Màng mỏng được nghiên cứu về khả
năng hút nước, giải phóng trên invitro, phân tích nhiệt vi sai,... Kết quả nghiên
cứu cho thấy: khả năng hút nước tất cả các màng mỏng đều có khả năng hydrat
hóa nhanh và cao nhất với màng mỏng chitosan 2 lớp. Dexamethason có bản chất
không tan trong nước nên có thể làm giảm liên kết giữa các chuỗi polyme làm
tăng khả năng hút nước. Màng mỏng 1 lớp hút nước tới 200% và màng mỏng 2
lớp tới 253% trọng lượng ban đầu, gấp 2 lần màng mỏng không chứa dược chất.
Nghiên cứu invitro cho kết quả thời gian giải phóng của màng mỏng dài hơn
thuốc nhỏ mắt qui ước với cùng liều dùng. Tỷ lệ giải phóng DC lớn nhất ở
màng mỏng 1 lớp. Màng mỏng 2 lớp có khả năng kéo dài giải phóng DC trong
nhiều tuần [30].
Jingshu Piao và cộng sự đã nghiên cứu phát triển pellet metflomin.HCl kết
dính niêm mạc miệng với 4 loại polyme HPMC, natri alginat, HPMC/Carbopol,
NaCMC. Đầu tiên, pellet được bào chế bằng cách bao metflomin.HCl lên nhân
trơ. Sau đó 4 loại polyme HPMC, Na alginat, HPMC/Carbopol, Na CMC được
phun lên pellet vừa tạo ra với nhiệt độ đầu vào giữ ở 60 0C. Pellet tạo thành được
24
đánh giá độ bền, độ kết dính, tương tác giữa phân tử chất nhầy với polyme, đánh
giá giải phóng invitro và invivo. Kết quả nghiên cứu cho thấy về hình thái pellet
hình cầu bề mặt trơn nhẵn, kích thước từ 1,51,7mm. Pellet bao bởi HPMC có độ
bền cơ học tốt hơn pellet bao bởi NaCMC. Khi k ết h ợp HPMC/Carbopol thì
khoảng chịu lực nén lớn hơn pellet HPMC. Pellet được bao bởi Na CMC có khả
năng kết dính cao nhất. Pellet được bao bởi natri alginat có tương tác giữa polyme
và chất nhầy thì cao nhất và có thời gian lưu tại dạ dày lâu nhất. Natri alginat và
NaCMC làm tăng độ dẻo dai của pellet và có tốc độ giải phóng dược chất đều
đặn và ổn định hơn hai loại pellet còn lại [27].
Noha Adel Nafee và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về đặc tính của
miếng dán kết dính niêm mạc miệng chứa cetylpyridinium clorid. Miếng dán sử
dụng tá dược polyvinyl alcohol (PVA), hydroxyethyl cellulose (HEC), chitosan với
tỷ lệ 1%, 1.5%, 2%, Glycerin được cố định là 5%. Miếng dán được bào chế bằng
phương pháp hòa tan. Miếng dán được đánh giá độ đồng đều khối lượng và bề
dày, pH, độ nhớt, co dãn, thời gian tiềm tàng, lực kết dính sinh học, nồng độ
dược chất và khả năng giải phóng và tuổi thọ của thuốc. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: miếng dán có đường kính 10mm, bề dày 0,6 0,2mm, khối lượng từ 84
234mg, pH bề mặt chênh lệch nhau khoảng 1,5 đơn vị do đó không kích ứng
niêm mạc, thời gian tiềm tàng từ 3 10h , miếng dán chứa PVA có lực kết dính
sinh học và khả năng giải phóng dược chất cao nhất và ổn định trong 7h [35].
Nhằm mục đích điều trị các bệnh nhiễm nấm vùng âm đạo. Afat A.
Ramadam đã nghiên cứu bào chế và đánh giá gel kết dính sinh học chứa
miconazol nitrat. Gel được tạo thành bằng cách phối hợp miconazol nitrat với các
gel HPMC, natri alginat, Carbopol 934. Đánh giá gel tạo thành thu được kết quả:
Độ tan của dược chất trong đệm pH 4,75 là 10,88 mg/ml, đây là môi tương tự pH
âm đạo (pH 4 5). Đánh giá pH, độ nhớt, độ dính giữa 3 gel trên thì pH của gel
HPMC và Na alginat nằm trong vùng 4 5, độ nhớt và độ dính của gel Na alginat
cao nhất. Tốc độ giải phóng của gel giảm dần từ gel HPMC> gel Carbopol> gel
25
natri alginat. Khi thêm tween 80 thì khả năng thấm của gel qua màng cellulose,
qua da được tăng rõ rệt và mức độ ảnh hưởng của tween 80 nồng độ 1% là cao
nhất [15].
1.3.2. Màng mỏng kết dính niêm mạc miệng
Nguyễn Thị Thảo đã sử dụng các tá dược chitosan, Carbopol, HPMC khi
nghiên cứu màng mỏng kết dính niêm mạc miệng chứa acyclovir bằng phương
pháp tráng film. Kết quả cho thấy loại tá dược và tỷ lệ tá dược có ảnh hưởng
đến khả năng giải phóng dược chất từ màng mỏng. Tăng lượng chitosan và
Carbopol, HPMC thì khả năng giải phóng ACV giảm. Khả năng giải phóng ACV
ở màng mỏng HPMC cao hơn màng mỏng chitosan. Khi Carbopol phối hợp với
HPMC E6 thì khả năng giải phóng ACV tăng lên và giảm khi phối hợp với
HPMC E15. Khi natri alginat phối hợp với HPMC E6 thì khả năng giải phóng
ACV tăng lên và giảm khi phối hợp với HPMC E15. Màng mỏng tạo ra có khả
năng giải phóng dược chất cao, đều đặn, kéo dài trong 4 giờ [12].
Lê Ngọc Bích đã tiến hành nghiên cứu bào chế và đánh giá độ dính và khả
năng giải phóng dược chất invitro màng mỏng chứa ACV kết dính niêm mạc
miệng. Polyme dính sử dụng trong nghiên cứu là HPMC, natri alginat. Màng
mỏng được bào chế bằng phương pháp tráng film. Kết quả nghiên cứu cho thấy
khi tăng lượng HPMC thì khả năng giải phóng dược chất và thời gian dính giảm.
Tăng tỷ lệ chất hóa dẻo tốc độ và mức độ giải phóng dược chất tăng nhưng thời
gian dính giảm, trong 3 loại chất hóa dẻo sử dụng, thời gian dính dài nhất ở
màng mỏng chứa PG và ngắn nhất ở màng mỏng chứa PEG 400, tuy nhiên ảnh
hưởng của loại chất hóa dẻo lên khả năng giải phóng dược chất không theo quy
luật. Từ phân tích ảnh hưởng trên tác giả đưa ra công thức tối ưu trong phạm vi
khảo sát đạt yêu cầu về giải phóng trong 6h [11].
Padmavathy Tallury và cộng sự đã nghiên cứu sử dụng poly(ethylen co
vinyl acetat) (EVA) để bào chế màng mỏng dạng cốt chứa hỗn hợp clorhexidin
(CHX) và acyclovir (ACV) dính niêm mạc miệng. Màng mỏng được bào chế