Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vi khuẩn lao không điển hình: Một thử thách mới trong điều trị lao tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.12 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Nghiên cứu Y học

VI KHUẨN LAO KHÔNG ĐIỂN HÌNH:
MỘT THỬ THÁCH MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ LAO TẠI VIỆT NAM
Mai Nguyệt Thu Huyền*, Phạm Thu Hằng*, Đặng Thị Minh Hà *, Nguyễn Đình Duy*,
Nguyễn Hữu Lân*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện tại, tỉ lệ nhiễm Non tuberculous mycobacteria (NTM) chưa được báo cáo ở Việt Nam.
Mục đích: Chúng tôi đánh giá tỉ lệ các chủng NTM được phân lập tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ
tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2018.
Phương pháp: Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu hồi cứu tần suất các chủng NTM thường gặp tại bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch được định danh bằng Genotype Mycobacterium Common Mycobacteria (CM) từ tháng 1
năm 2015 - tháng 6 năm 2018.
Kết quả: Trong 339 trường hợp cấyNTM dương tính, 177 (52,2%) là nam và162 (47,8%) là nữ, với độ tuổi
từ 20 - 80 tuổi. Trong số các trường hợp này, 126 (37,2%) M. abcessus, 49 (14,5%) M. intracellulare, 29 (8,6%)
M. fortuitum, 24 (7,1%) M.tuberculosis, 18(5,3%) M. avium, 18 (5,3%) M. scrofulaceum, 11 (3,2%) M.
gordonae, 6 (1,8%) M. kansasii, 1 (0,3%) M. malmoense,... đã được định danh. Ngoài ra, 18(5,3)% là hỗn hợp
của hai loại NTM khác nhau hoặc của một Mycobacterium tuberculosis (MTB) và một NTM.
Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, M. abcessus chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là M. intracellulare.
Mycobacterium avium complex vẫn là NTM phổ biến ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch (HIV).
Từ khóa: Mycobacterium tuberculosis, Non tuberculous mycobacteria.

ABSTRACT
NON TUBERCULOUS MYCOBACTERIA: A NEW CHALLENGE IN TUBERCULOSIS TREATMENT
IN VIET NAM
Mai Nguyet Thu Huyen, Pham Thu Hang, Đang Thi Minh Ha, Nguyen Đinh Duy, Nguyen Huu Lan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 201 – 206
Background: Until now, Non tuberculous mycobacteria (NTM) rates have not been reported in Viet Nam.


Methods: We conducted a retrospective study of the frequency of the common NTM strains identified by
Genotype Mycobacterium CMat Pham Ngoc Thach Hospital from January 2015 - June 2018.
Objectives: We assessed the rate of NTM isolates that were isolated in Pham Ngoc Thach hospital from
January 2015 to June 2018.
Results: In 339 cases with positive culture for NTM, 177 (52.2%) were male and 162 (47.8%) were female,
with ages ranging from 20 - 80 years old. Among them, 126 (37.2%) were identified as M. abcessus, 49 (14.5%)
M. intracellulare, 29 (8.6%) M. fortuitum, 24 (7.1%) M. tuberculosis, 18 (5.3%) M. avium, 18 (5.3%) M.
scrofulaceum, 11 (3.2%) M. gordonae, 6 (1.8%) M. kansasii, 1 (0.3%) M. malmoense; 25 (7.4%). In addition, 18
(5.3%) were either a mixture of two different types of NTM or a mixture of one MTB and one NTM.
Conclusions: In our study, M. abcessus accounted for the highest rate, followed by M. intracellulare.
Mycobacterium avium complex has still been a common NTM in patients with human immunodeficiency virus (HIV).
* Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: TS.BS Mai Nguyệt Thu Huyền,

ĐT: 028 3855 0207,

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Email:

201


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Keywords: Mycobacterium tuberculosis, Non tuberculous mycobacteria.
làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh phổ biến ở
ĐẶT VẤN ĐỀ

quần thể này(8).
Hiện nay bên cạnh bệnh lao nguyên nhân do
vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis (MTB),
lao kháng đa thuốc, lao siêu kháng thuốc đang là
một vấn đề gây nhiều khó khăn cho công tác
chống lao thì các bệnh lao do các vi khuẩn lao
không điển hình (Non-tuberculous mycobacteria:
NTM) cũng được đề cập đến nhiều hơn, đây là
những vi khuẩn cùng họ Mycobacterium nhưng
phản ứng MPT 64 âm tính.
Tương tự như bệnh lao, nhiễm NTM có thể
xảy ra khắp cơ thể. Tuy nhiên, nhiễm trùng phổi,
viêm hạch và nhiễm trùng da và mô mềm là
những bệnh thường gặp nhất(1). Cả hai yếu tố ký
chủ và các đặc điểm sinh vật đều ảnh hưởng đến
tính nhạy cảm và biểu hiện của nhiễm trùng(4).
NTM có mặt khắp nơi trong môi trường
nhiều nhất là trong đất và nguồn nước. Chúng
kết hợp với sự hình thành màng sinh học(13), góp
phần vào việc kháng thuốc khử trùng và kháng
kháng sinh(5,9), nhiều chủng có khả năng đề
kháng nhiệt độ cao và tương đối kháng với pH
thấp(3,7). Do đó thuốc kháng lao thông thường
hầu như ít hoặc không có tác dụng với NTM.
NTM thường gây bệnh trên người có hệ
miễn dịch bị suy giảm do HIV, dùng thuốc ức
chế miễn dịch, người có tiền sử bệnh phổi mãn
tính như giãn phế quản, lao phổi, bệnh xơ hóa
kén, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Hiện nay, có hơn 150 loài Mycobacterium, từ

những năm gần đây do kỹ thuật nuôi cấy được
cải thiện và sự phát triển các kỹ thuật sinh học
phân tử để định danh nhóm NTM dựa trên sự
khác biệt giữa các loài trong gen rRNA 16S nên
gia tăng nhanh chóng của các loài NTM được
xác định(14).
Hiện nay, hơn 90% các mẫu cấy NTM ở
Hoa Kỳ là từ dịch tiết phổi(12). Ở đỉnh cao của
dịch HIV, NTM thường được nuôi cấy từ máu
do nhiễm trùng lan tỏa, nhưng liệu pháp
kháng retrovirus và dự phòng thích hợp đã

202

Các chủng gây bệnh phổ biến hiện nay có
thể được phát hiện bằng kỹ thuật Genotype
Mycobacterium CM/AS.
M. avium, M. chelonae, M. abscessus complex,
M. fortuitum, M. gordonae, M. intracellulare, M.
scrofulaceum, M. szulgai, M. interjectum, M.
kansasii, M. malmoense, M. marinum/M. ulcerans,
M. tuberculosis complex, M. xenopi, M. simiae, M.
mucogenicum, M. goodii, M. celatum, M. smegmatis,
M. genavense, M. tentiflavum, M. heckeshornense,
M. szulgai/M. intermedium, M. phlei, M.
haemophilum, M. kansasii, M. ulcerans, M. gastri,
M. asiaticum và M. shimoidei.
Hiện tại tỉ lệ nhiễm NTM chưa được báo cáo
nhiều về tần suất vi khuẩn nào thường gặp ở
Việt nam. Từ năm 2015 sau khi kỹ thuật

Genotype mycobacterium CM được triển khai tại
bệnh viện Phạm Ngọc Thạch chúng tôi đã có cơ
hội chẩn đoán và định danh các chủng NTM từ
các bệnh nhân đến khám tại bệnh viện Phạm
Ngọc Thạch.
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu hồi cứu
tần suất các chủng NTM thường gặp tại bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch phân lập từ tháng 1 năm
2015 đến tháng 6 năm 2018.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ các chủng NTM thường được
phân lập tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ
tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2018.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu và đối tượng nghiên
cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu, thu
thập số liệu tất cả các bệnh nhân có kết quả 2
mẫu cấy tại hai thời điểm khác nhau đều là AFB
dương tính và MTP 64 âm tính đã được định
danh NTM bằng Genotype Mycobacterium CM, từ
tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2018.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Tiêu chuẩn Vi sinh chẩn đoán NTM(6)
Thỏa 1 trong các tiêu chuẩn sau:

Cấy AFB dương tính và MPT 64 âm tính
(NTM) từ ít nhất 2 mẫu đàm sáng sớm khác nhau.
Hoặc cấy AFB dương tính và MPT 64 âm
tính từ ít nhất 1 mẫu dịch rửa phế quản.
Hoặc sinh thiết xuyên vách hay sinh thiết
phổi có đặc điểm mô bệnh học là lao như: viêm
mô hạt hay AFB (+)và cấy NTM dương tính.
Hoặc sinh thiết xuyên vách hay sinh thiết
phổi có đặc điểm mô bệnh học là lao như: viêm
mô hạt hay AFB (+) và có ít nhất một mẫu đàm
hay dịch rửa phế quản cấy là NTM dương tính.
Genotype Mycobacterium CM

Nguyên lý
Genotype Mycobacterium CMtest dựa trên kỹ
thuật DNA-Strip® cho phép định danh các vi
khuẩn lao không điển hình.
Trên thanh giấy Nitrocellulose có gắn sẵn
các mạch đơn DNA đặc hiệu cho mỗi loại vi
khuẩn NTM. Một mạch đơn của sản phẩm
khuếch đại (một đầu có gắn Biotine) sẽ gắn với
mạch đơn DNA thích hợp trên thanh giấy. Sau
đó cho Conjugate (streptavidin) vào phức hợp

Nghiên cứu Y học

này, chất này sẽ kết hợp với Biotin. Cuối cùng
cho Substrate (Alkaline -phosphate) sẽ gắn vào
Streptavidin. Bộ ba phức hợp trên sẽ tạo một
vạch màu trên thanh giấy(15).


Kỹ thuật
Dùng mẫu cấy MGIT dương nhưng MPT 64
âm tính, ly trích DNA, khuếch đại với các đoạn
mồi đặc hiệu một đầu có gắn với biotine; sau đó
lai sản phẩm khuếch đại trên thanh giấy có sẵn
các đoạn DNA đơn và đọc kết quả(15).

KẾT QUẢ
Từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2018,
tổng cộng 172.394 trường hợp cấy MGIT (MGIT:
Mycobacteria Growth Indicator Tube) trong đó:
45,667 (26,5 %) dương tính với MTB.
10,649 (6,2%) là AFB dương tính MPT 64 âm
tính. Trong 10649 AFB dương tính MPT 64 âm
tính, 6764 (63,5%) là nam, 3885 (34,9%) là nữ,
95,2 % mẫu cấy từ bệnh phẩm là đàm. Trong
10649 trường hợp AFB dương tính MPT 64 âm
tính có 339 (3,1%) trường hợp đáp ứng đủ 2 mẫu
cấy AFB dương tính và MPT64 âm tính được Bác
sĩ yêu cầu định danh NTM (Sơ đồ 1).

Hình 1. Vị trí và tên các chủng NTM phát hiện bằng Genotype Mycobacterium CM(15)

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

203


Nghiên cứu Y học


204

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Nghiên cứu Y học

173394 cấy MGIT

56316 MGIT dương tính (32,5%)

45667 MTB(26,5%)

10649 (6,2% ) AFB (+) và MPT 64(-)

339 bệnh nhân có 2 mẫu cấy khác nhau là AFB (+) và MPT 64(-)

Định danh NTM bằng Genotype Mycobacterium CM

Sơ đồ 1. Thu thập mẫu định danh NTM.
Trong 339 trường hợp đó có 177 (52,2%) là
nam và 162 (47,8%) là nữ, với độ tuổi dao động
từ 20 - 80 tuổi, 139 trường hợp (41%) từ 51tuổi 70 tuổi; có 9 trường hợp (2,7%) bệnh nhân HIV
dương tính còn lại 93,3% không rõ về tình trạng
nhiễm HIV. Bằng kỹ thuật Genotype

Mycobacterium CM chúng tôi định danh được:
126 (37,2%) M. abcessus, 49 (14,5%), M.
intracellulare, 29 (8,6% ), M. fortuitum, 24 (7,1%)
M. tuberculosis, 18 (5,3%), M. avium, 18 (5,3% ), M.
scrofulaceum, 11 (3,2 %), M. gordonae, 6 (1,8% ), M.
kansasii, 1 (0,3%), M. malmoense; 25 (7,4 %)
Mycobacterium sp. và 7 (2,1% ) là nhóm High G+C
gram positive bacterium; hơn nữa có 18 (5,3) % là
một hỗn hợp gồm 2 loại NTM khác nhau hay
một hỗn hợp gồm 1MTB và 1 NTM (Bảng 1).
Bảng 1. Kết quả định danh NTM bằng Genotype
Mycobacterium CM
Kết quả định danh

Sốca Tỷ lệ %

Kết quả định danh

Sốca Tỷ lệ %

Mycobacterium kansasii

6

1,8

Mycobacterium abscessus và Mycobacterium
intracellulare

3


0,9

Mycobacterium chelonae

3

0,9

Mycobacterium interjectum

3

0,9

Mycobacterium abscessus và Mycobacterium
fortuitum

3

0,9

Mycobacterium fortuitum và Mycobacterium
intracellulare

3

0,9

Mycobacterium fortuitum và Mycobacterium

scrofulaceum

2

0,6

Mycobacterium malmoense

2

0,6

Mycobacterium tuberculosis complex và
Mycobacterium abscessus

2

0,6

Có khả năng đồng nhiễm Mycobacterium
intracellulare, Mycobacterium scrofulaceum,
Mycobacterium kansasii và Mycobacterium
malmoense

1

0,3

Mycobacterium abscessus complex và
Mycobacterium gordonae


1

0,3

Mycobacterium avium và Mycobacterium
abcessus

1

0,3

Mycobacterium avium và Mycobacterium
intracellulare

1

0,3

Mycobacterium abscessus

126

37,2

Mycobacterium intracellulare

49

14,5


Mycobacterium fortuitum

29

8,6

Mycobacterium sp

25

7,4

Mycobacterium tuberculosis complex

24

7,1

Mycobacterium avium

18

5,3

Mycobacterium tuberculosis complex và
Mycobacterium fortuitum group

1


0,3

Mycobacterium scrofulaceum

18

5,3

Tổng cộng

339

100

Mycobacterium gordonae

11

3,2

High G+C gram positive bacterium

7

2,1

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

205



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Trong 9 bệnh nhân HIV dương tính thì 6
trường hợp (66,7%) là M. avium; 2 (22,2%) là M.
abcessus và 1(11,1%) là M. intracellulare.

BÀNLUẬN
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy
M. abcessus chiếm tỉ lệ cao nhất 37,2% trường
hợp; kế đến là M. intracellulare14,5% và M. avium
5,3% tỉ lệ này khác và có ý nghĩa thống kê với
nghiên cứu tại Saudi Arabia 48% là M. avium và
25% là M. abcessus(1) (p < 0,05), sự khác biệt này
có thể do khác biệt về vùng địa lý nhưng cũng có
thể do tình hình HIV khác nhau giữa Việt nam
và Saudi Arabia, giống các nghiên cứu khác M.
avium thường phân lập được ở bệnh nhân HIV
với tỉ lệ 66,7%(2). Trước đây khi chưa có Genotype
Mycobacterium CM/AS để định danh, tỉ lệ nhiễm
NTM tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch chủ yếu là
M. fortuitum, trong khi đó theo nghiên cứu này tỉ
lệ nhiễm NTM đa số là M. abcessus sự khác biệt
này là do trước đây chúng tôi định danh bằng
phương pháp sinh hóa cổ điển, phương pháp
này không chính xác như định danh bằng kiểu
gen đặc hiệu.
Có 7,1% bệnh nhân có kết quả nuôi cấy là

AFB dương và MPT 64 âm tính nhưng khi định
danh bằng Genotype Mycobacterium CM là M.
tuberculosis, điều này chứng tỏ trong quần thể M.
tuberculosis vẫn có một tỉ lệ khoảng 7% chủng có
MPT 64 âm tính có thể là do các vi khuẩn lao
trong mẫu cấy MGIT còn quá non chưa tiết đủ
các Antigen để MPT 64 kit có thể phát hiện được;
hơn nữa chúng tôi nhận thấy có 2,1% là vi khuẩn
gram dương không phải Mycobacterium sp (Bảng 1).
Điều này cho thấy rằng khi nhận 1 kết quả
AFB dương và MPT 64 âm tính không nên vội
vàng kết luận là NTM cần phải định danh.
Nhiễm cùng lúc hai loại vi khuẩn ở Việt nam đã
được đề cập với vi khuẩn lao với tỉ lệ 3,1%(11) và
trong nghiên cứu này chúng tôi cũng tìm thấy
5,3% là một nhiễm hỗn hợp của 2 loại NTM khác
nhau hoặc giữa 1 MTB và 1 NTM tỉ lệ này không
khác với nghiên cứu trước (p > 0,05)(11). Cho đến
nay việc điều trị NTM vẫn là một thử thách đối

206

với các Bác sĩ, vì hiện tại các phòng xét nghiệm
tại Việt nam chưa thực hiện được kháng sinh đồ
nên chưa có một phác đồ cụ thể cho các chủng
NTM, Bác sĩ thường dựa vào các phác đồ của
hiệp hội bệnh phổi Hoa kỳ(6) để điều trị. Tại
bệnh viện chúng tôi đa số bệnh nhân nhiễm M.
abcesssus đây là vi khuẩn thường kháng thuốc tự
nhiên(10) nên rất khó điều trị thành công. Ngày

nay nhờ các kỹ thuật sinh học phân tử đã giúp
việc định danh nhiễm NTM nhanh và chính xác
hơn ít nhiều hỗ trợ cho bác sĩ trong việc chẩn
đoán và điều trị NTM hiệu quả hơn.
Trong nghiên cứu này còn một số hạn chế
do chúng tôi chỉ có bộ kit Genotype
Mycobacterium CM để định danh, nên có 7,4%
chủng chúng tôi chưa định danh được loài, và
kết quả xét nghiệm HIV chỉ có ở một số ít bệnh
nhân nên không đủ để đánh giá tỉ lệ nhiễm
NTM ở nhóm này như thế nào.

KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy
các NTM thường gặp tại bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch là M. abcessus chiếm tỉ lệ cao nhất, kế đến
là M. intracellulare. Có một số tỉ lệ nhỏ là một
nhiễm hỗn hợp từ 2 loại NTM trở lên;
Mycobacterium avium complex vẫn là vi khuẩn
NTM thường gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn
dịch (HIV).
LỜI CÁM ƠN: Xin chân thành cám ơn khoa Vi sinh bệnh viện
Phạm Ngọc Thạch, các kỹ thuật viên phòng Sinh học phân tử và
phòng Cấy đã thực hiện các kỹ thuật cũng như cung cấp các số
liệu cho chúng tôi hòan tất nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.


3.

4.

AlHarbi A, Al-Jahdali H, Al-Johani S, Baharoon S, Bin Salih S,
Khan M (2016). Frequency and clinical significance of
respiratory isolates of non- tuberculous mycobacteria in
Riyadh, Saudi Arabia. The Clinical Respiratory Journal, 10:198203.
Benson CA (1994) Disease due to the Mycobacterium avium
complex in patients with AIDS: epidemiology and clinical
syndrome. Clinical Infectious Diseases, 18 Suppl 3: 218-222
Bodmer T, Miltner E, Bermudez LE (2000). Mycobacterium
avium resists exposure to the acidic conditions of the stomach.
FEMS Microbiol Letter Journal, 182:45-9
Chan ED, Iseman MD (2013). Underlying host risk factors for
non tuberculous mycobacterial lung disease. Seminars in
respiratory and critical care medicine, 34:110-23

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
5.

6.

7.

8.


9.

10.

Falkinham JO (2007). Growth in catheter biofilms and
antibiotic resistance of Mycobacterium avium, The
Journal of Medical Microbiology, 56:250-4.
Griffith DE, Aksamit T, Brown-Elliott BA, Catanzaro A, Daley
C, Gordin F, Holland SM, Horsburgh R, Huitt G, Iademarco
MF, Iseman M, Olivier K, Ruoss S, Reyn von CF, Wallace RJ Jr,
Winthrop K (2007). An official ATS/IDSA statement: diagnosis,
treatment, and prevention of non tuberculous mycobacterial
diseases.American Journal of Respiratory and Critical Care
Medicine, 175:367-41.
Horsburgh CR, Jr, Selik RM (1989). The epidemiology of
disseminated nontuberculous mycobacterial infection in the
acquired immunodeficiency syndrome (AIDS). The American
review of respiratory disease, 139:4-7.
Jarlier V, Nikaido H. (1994) Mycobacterial cell wall: structure
and role in natural resistance to antibiotics. FEMS Microbiol
Letter Journal, 123: 11-8.
Kirschner RA, Jr, Parker BC, Falkinham JO(1992).
Epidemiology of infection by nontuberculous mycobacteria.
Mycobacterium avium, Mycobacterium intracellulare, and
Mycobacterium scrofulaceum in acid, brown-water swamps of
the southeastern United States and their association with
environmental variables. The American review of respiratory
disease, 145: 271-5.
Lee MR, Sheng WH, Hung CC, Yu CJ, Lee LN, Hsueh PR

(2015). Mycobacterium abscessus Complex Infections in Humans.
Emerging Infectious Diseases, 21: 1638-46.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

11.

12.

13.

14.

15.

Nghiên cứu Y học

Mai Nguyệt Thu Huyền. Kremer K, Nguyễn Thị Ngọc Lan,
Cobelens FG, Trần Ngọc Bửu, Nguyễn Huy Dũng, Caws M,
Tiemersma EW and Soolingenvan D (2012). Mixed
Tuberculosis Infections in Rural South Vietnam. Journal of
Clinical Microbiology, 50:1586-92.
O’Brien RJ, Geiter LJ, Snider DE (1987). Jr The epidemiology of
nontuberculous mycobacterial diseases in the United States.
Results from a national survey. The American review of
respiratory disease, 135:1007-14.
Schulze-Röbbecke R, Janning B, Fischeder R (1992). Occurrence
of mycobacteria in biofilm samples. Tuberculosis and Lung
Diseases, 73:141-4
Tortoli E (2003). Impact of genotypic studies on mycobacterial

taxonomy: the new mycobacteria of the 1990s. Clinical
Microbiology Reviews, 16:319-54
Hain Lifescience GmbH (2014). GenoType Mycobacterium CM Ver 1.
/>obacteria/ntm/genotype-mycobacterium-cm.html.

Ngày nhận bài báo:

31/07/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

31/08/2018

Ngày bài báo được đăng:

20/10/2018

207



×