BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ BẮC HÀ
--------------------------
Bộ Môn : Quản trị ngân hàng thương mại
Đề Tài : Xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do
2011
Sinh Viên: Hoàng Cao Qúy
MSV : 0854030065
Lớp : EFB404
Hà nội, 2011
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ BẮC HÀ
-------------------------------
Chuyên ngành: Tài chính- ngân hàng
Hệ : Đại học
Khóa : 2008 – 2012
Người Hướng Dẫn
Giảng Viên : LÊ THỊ HỒNG PHƯỢNG
Bài bổ sung kiểm tra tuần
Hà nội, 2011
2
GIỚI THIỆU
Vàng là hàng hoá đa dạng với chức năng là tiền tệ, công cụ tài chính và
hàng hoá thông thường. Mặc dù thực tế chức năng tiền tệ của vàng
không còn quan trọng như thời kỳ bản vị vàng, Chính phủ rất nhiều
nước vẫn giữ một lượng vàng đáng kể trong dự trữ. Vàng vẫn còn
chứng tỏ vai trò quan trong của mình như một công cụ tài chính bên
cạnh các công cụ tài chính khác như chứng khoán và trái phiếu. Đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển, nền kinh tế chưa thực sự vững
chắc, giá trị đồng bản tệ chưa thực sự ổn định. Cũng vì lý do đó tại một
số nước vẫn duy trì chính sách quản lý vàng một cách chặt chẽ.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế vai trò của vàng
cũng gắn liền với bước thăng trầm của nền kinh tế. Vai trò tiền tệ của
vàng đã phát huy rõ nét trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái, lạm phát
với tốc độ phi mã, vàng được coi là công cụ dự trữ, phương tiện thanh
toán, đơn vị tính toán đối với tài sản có giá trị. Nhà nước đã sử dụng
vàng làm công cụ ổn định giá trị đồng Việt Nam, góp phần chống lạm
phát.
Trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế nước ta đã qua thời kỳ khủng
hoảng và đang có bước phát triển ổn định, lạm phát được duy trì ở
mức thấp, xu hướng hội nhập toàn cầu hoá ngày càng tăng, thì giá vàng
3
cũng ổn định và biến động theo giá vàng của thị trường vàng quốc tế.
Vai trò tiền tệ của vàng ngày càng giảm, thị trường vàng trang sức mỹ
nghệ ngày càng phát triển, nhu cầu vàng trang sức mỹ nghệ ngày càng
tăng theo mức độ tăng của đời sống. Tuy nhiên do tập quán và thói
quen vàng vẫn được sử dụng như một loại tiền trong thanh toán dân
gian, trong thanh toán quốc tế (lậu) ở biên giới nên vàng vẫn có một
vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của nước ta.
Bên cạnh đó ngành sản xuất, kinh doanh vàng có truyền thống lâu đời
với hơn 8000 tổ chức, cá nhân sử dụng hàng chục vạn lao động, trong
đó có nhiều nghệ nhân, nhiều thợ có tay nghề cao phải là một thế mạnh
cần khai thác. Hàng trăm tấn vàng trong dân chưa trở thành vốn để
phục vụ đầu tư tăng trưởng. Sự manh mún, nhỏ lẻ của công nghệ sản
xuất, kinh doanh vàng, sự yếu kém của các đơn vị quốc doanh đang trở
nên nhức nhối trong khi đó những đơn vị kinh doanh vàng có vốn đầu
tư nước ngoài vẫn đang hoạt động có hiệu quả.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, cũng như
kinh nghiệm thực tế để đưa ra các giải pháp nhằm phát triển thị trường
vàng Việt Nam theo hướng sử dụng hợp lý nhất nguồn lực "vàng" cho
mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Chương 1: Khái quát về thị trường vàng ở Việt Nam
1.1.Tổng quan về thị trường vàng ở Việt Nam
1.1.1. Thị trường vàng Việt Nam trong những năm gần đây
4
Kinh tế thế giới đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng giá vàng liên
tục tăng mạnh do kinh tế phục hồi chậm chạp và không vững chắc,
trong đó số liệu kinh tế Mỹ không mấy khả quan và đồng USD suy yếu,
lãi suất tại Mỹ tiếp tục duy trì ở mức thấp là những động lực chính.
Theo các nhà phân tích thì đồng USD sẽ tiếp tục suy yếu trong
ngắn hạn. Điều này tạo áp lực cho giới đầu tư và thôi thúc họ tiến về thị
trường kim loại quý, trong đó vàng là một điển hình. Giá vàng trong
thời gian gần đây liên tục lập kỷ lục mới và đã tăng trên 24% trong năm
2009.
Như vậy, giá vàng tăng chủ yếu do kinh tế Mỹ còn yếu. Trên thực
tế, đồng USD mất giá từ sau ngày 11/9/2001, điều này liên quan đến
cuộc chiến của Mỹ tại Trung Đông, nhất là tại Afganistan, trong khi
cuộc chiến này còn rất cam go. Vì thế, giá vàng có thể sẽ tăng vững
trong dài hạn, nó sẽ chững lại và bắt đầu xu hướng giảm khi cuộc chiến
tại Afganistan có dấu hiệu kết thúc. Vì lý do đó, những nỗ lực của
nhiều nước trong việc chặn đà suy giảm USD như đã làm trong thời
gian qua, thậm chí một thỏa thuận nào đó giữa các nền kinh tế chủ chốt
cũng không thể cải thiện được tình hình. Tại những thời điểm nhất
định, Fed có thể điều chỉnh các biện pháp chính sách hỗ trợ phục hồi
kinh tế, góp phần kìm hãm tốc độ tăng giá vàng. Qua theo dõi cho thấy,
giá vàng tăng lên theo chu kỳ kinh doanh thông thường: củng cố, điều
chỉnh và tăng trở lại.
5
Trước đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng dầu lửa vào cuối
những năm 70 của thế kỷ trước, giá vàng thế giới đã tăng cao và đạt
mức kỷ lục 850 USD/ounce vào tháng 10/1980. Tuy nhiên, sau đó giá
vàng đã giảm liên tục và xuống dưới 260USD/ounce vào giữa năm
1999. Nhờ các biện pháp chống bán phá giá nên giá vàng phục hồi dần,
nhưng đã tăng mạnh sau sự kiện 11/9/2001.
Tại Việt Nam, vàng được đưa vào lưu thông rất đa dạng về chủng
loại và mẫu mã, nhưng thị trường vàng trong nước phụ thuộc vào vàng
nhập khẩu, cả về khối lượng và giá cả. Hàng năm, nước ta nhập khoảng
trên 60 tấn vàng, đáp ứng trên 90% nhu cầu trong nước, nhưng vàng
không ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Mặc dù
một bộ phận người dân vẫn sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán
mua bán nhà đất, cất trữ vàng làm tài sản hộ thân. Trên thực tế, tỷ trọng
vàng sử dụng trong thanh toán cũng như giao dịch gửi và vay tại các
ngân hàng là rất nhỏ so với M2, tổng vốn huy động và cho vay tại các
tổ chức tín dụng.
Trước những diễn biến của thị trường vàng trong nước (giá vàng
trong nước cao hơn giá vàng trên thị trường thế giới trên 6%). Ngày
11/11/2009, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời cấp phép nhập khẩu vàng
cho các đơn vị kinh doanh vàng nhằm tạo nguồn cung ổn định cho thị
trường, góp phần ổn định giá vàng trong nước.
6
Tiếp đó, ngày 30/12/2009, Văn phòng Chính phủ đã ban hành văn
bản số 369/TB-VPCP thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu không được tổ chức và
thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi
hình thức. Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày 30/12/2009, mọi hoạt động
liên quan đến kinh doanh sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên
tài khoản ở trong nước phải chấm dứt hoạt động.
Do hoạt động kinh doanh trên sàn vàng hay còn gọi là kinh doanh
vàng trên tài khoản đã cho thấy một số yếu tố tiềm ẩn có thể gây bất ổn
cho kinh tế - xã hội.
Do đây là loại hình kinh doanh có rủi ro cao, không phải là hoạt
động sản xuất để tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Hơn nữa, đến
nay vẫn chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh này.
Do đó, Chính phủ cũng giao, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối
hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát lại tất cả các quy định hiện hành
về quản lý vàng để trình Chính phủ ban hành một quy định đầy đủ về
quản lý kinh doanh vàng theo hướng Nhà nước tập trung, thống nhất
quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
7
Ngoài ra, ngày 11/01/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng
đã có văn bản số 258/NHNN-CSTT gửi các Ngân hàng thương mại và
chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
yêu cầu ngừng cho vay để đầu tư kinh doanh trên sàn vàng.
1.1.2. Mối quan hệ giữa thị trường vàng và các thị trường
đầu tư khác.
a.Thị trường chứng khoán.
Chứng khoán và vàng là hai kênh đầu tư có tính chất thay thế cho
nhau, nghĩa là khi có tiền, nhà đầu tư có thể chọn đầu tư vào chứng
khoán, hoặc vàng hoặc cả hai để sinh lời. Về lý thuyết, luồng vốn đầu
tư sẽ dịch chuyển từ kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời thấp sang kênh đầu
tư có tỷ suất sinh lời cao hơn. Trên phương diện này, khi chứng khoán
lên, sẽ tạo nhiều cơ hội cho mọi người kiếm lợi nhuận từ thị trường
chứng khoán và giảm đầu tư vào vàng.
Tuy nhiên, khi nhận định như trên cần lưu ý 2 điều:
Không bao giờ chứng khoán và vàng là vật thay thế hoàn toàn cho
nhau, nghĩa là dù chứng khoán có hấp dẫn như thế nào thì vẫn có nhiều
nhà đầu tư quan tâm tới đầu tư vàng, đơn giản vì họ quen với hoạt động
kinh doanh này hơn.
Vàng và chứng khoán đều là những cấu phần của một thị trường
tài chính. Hoạt động nhộn nhịp đầu tư trong một cấu phần, có thể tạo
cho nhà đầu tư sự phấn khích cần thiết để đầu tư vào cả cấu phần kia.
Bên cạnh đó, đầu tư vào chứng khoán là rất rủi ro, vì khi doanh
nghiệp phá sản, số chứng khoán đang nắm giữ có thể mất giá trị. Đầu tư
8
vào vàng có thể lãi, có thể lỗ, nhưng không bao giờ mất trắng vì vàng
có giá trị nội tại của nó. Một nhà đầu tư khôn ngoan luôn chia sẻ rủi ro
bằng cách trong khi đầu tư chứng khoán thì vẫn đầu tư vàng.
Tóm lại, khi chứng khoán lên, có thể một số nhà đầu tư sẽ dồn
vốn đầu tư sang kênh này, nhưng điều này không hẳn dẫn tới sự trầm
lắng của thị trường vàng.
b.Thị trường tiền tệ và dầu mỏ.
Sau thế chiến năm 1945, Mỹ đứng đầu thế giới về tỷ lệ dự trữ
vàng (3/4 trữ lượng vàng của thế giới được dự trữ tại các nhà băng
Mỹ).
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1971, hầu hết các nước đều
bán vàng mua đồng đôla Mỹ để tăng dự trữ ngoại tệ, cũng là điều chỉnh
cân bằng thương mại giữa các nước. Thời kỳ này, đồng USD mặc nhiên
được coi như một đồng tiền chung trong giao dịch thương mại quốc tế.
Thời kỳ này, giá vàng dao động quanh ngưỡng 35USD/ounce, giá dầu ở
mức 3 USD/ thùng.
Năm 1971, Mỹ ngừng bán vàng ra thị trường thế giới. Để đáp lại,
các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) buộc phải bán lượng USD đang dự
trữ đề mua vàng trên thị trường thế giới. Hệ quả là đã đẩy giá dầu tăng
lên gấp chục lần lên mức 40USD/thùng và vàng là 850 USD/ounce
(tính theo thời giá hiện nay là khoảng 2500 USD/ounce). Đây được
đánh giá là một cú sốc lớn đối với nền tài chính thế giới, là hệ quả của
9
việc gỡ bỏ hệ thống bản vị vàng ra khỏi đồng USD trong tháng 8/1971
của tổng thống Mỹ Richard M Nixon.
Chúng ta có thể giải thích mối quan hệ này một cách đơn giản như sau:
Dầu là nguồn đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Bất cứ
sự biến động của giá dầu mỏ cũng tác động dây chuyền lên toàn bộ nền
kinh tế thế giới. Vì thế để giữ vứng nền kinh tế phát triển ổn định, các
nước có nền kinh tế lớn như Nga, Mỹ... có xu hướng xây dựng các kho
dự trữ dầu mỏ và tăng cường dự trữ vàng. Bởi lẽ đây là hai loại hàng
hóa không bị mất giá trị.
Tuy nhiên, dầu mỏ dưới vai trò lớn hơn hàng hóa tích trữ, khi giá
dầu mỏ tăng tất yếu dẫn đến hệ quả tiền USD giảm giá trị, và các nước
càng có xu hướng nhập vàng về tích trữ, do đó nhu cầu vàng trên thế
giới sẽ tăng và kéo theo sự tăng giá của vàng.
Năm 2006 cũng là năm đánh dấu mức kỷ lục của giá vàng, giá
dầu và một lần nữa minh chứng cho thấy sự đồng hành của giá vàng và
giá dầu. Giá dầu đạt mức kỷ lục 78,40 USD/thùng vào ngày 13/7/2006.
Mức kỷ lục này cao hơn 39% so với mức giá cao nhất trong năm 2004
là 56,37 USD/thùng (ngày 26/10/2004) và trên 10% so với mức cao
nhất năm 2005 là 70,85 USD/thùng vào ngày 27/8/2005.
Các kỷ lục về giá dầu tại thời điểm đó và những nguyên nhân của
nó cũng không nằm ngoài những nguyên nhân cố hữu như cầu tăng,
nguồn cung hạn chế do những xung đột về chính trị ở các nước sản xuất
10
dầu mỏ, dự trữ năng lượng tại Mỹ… Vào đầu năm 2006, giá vàng thế
giới từ mức 517 USD/ounce đã tăng liên tục và đến ngày 12/5 đã đạt
mức kỷ lục là 732 USD/ounce, để rồi giảm liền một mạch xuống còn
543 USD/ounce chỉ trong vòng 1 tháng.
Nhưng ngay sau đó, giá vàng lại tăng lại gần 140 USD/ounce lên
mức 675 USD/ounce vào nửa cuối tháng 7 - 2006. Một biến động chưa
từng có trong lịch sử giá vàng khoảng 1/4 thế kỷ trở lại đây. Giá vàng
thế giới trong phiên giao dịch cuối cùng của năm 2006 ở mức 635
USD/ounce, tăng gần 23% so với thời điểm đầu năm.
Nguyên nhân diễn biến thất thường của giá vàng và đạt được kỷ
lục cao chủ yếu là do xu hướng mất giá của đồng USD. Trong năm
2008, thị trường tài chính thế giới bước vào khủng hoảng. Sự đổ vỡ của
gần 70 Ngân hàng của Mỹ kéo theo sự u ám của nền kinh tế thế giới.
Vậy là chính phủ các nước phát triển mà đứng đầu là Mỹ, EU, Nhật,..
liên tiếp tung các gói hỗ trợ kinh tế nhằm hà hơi” thổi ngạt nền kinh tế.
Tuy nhiên, sự bơm vốn mạnh mẽ của các Chính phủ khiến gia
tăng sự thâm hụt ngân sách nặng nề. Ở đây ta hãy khoan bàn đến vấn đề
thâm hụt ngân sách Chính phủ, mà chỉ đánh giá tác động của việc bơm
tiền cứu nền kinh tế.
Trước hết, các gói hỗ trợ kinh tế có mặt tốt là thúc đẩy sự thanh
khoản của thị trường, cung ứng vốn cho các lính vực sản xuất quan
trọng. Tuy nhiên, viêc tăng cung tiền khi nền kinh tế chưa “hấp thụ”
11