Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng chu phẫu ở bệnh nhân ung thư hạ họng – thanh quản có chỉ định phẫu thuật tại khoa tai mũi họng Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2015-2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.61 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP DINH DƯỠNG CHU PHẪU
Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ HẠ HỌNG – THANH QUẢN
CÓ CHỈ ĐỊNH PHẪU THUẬT TẠI KHOA TAI MŨI HỌNG
BỆNH VIỆN CHỢ RẪY NĂM 2015-2016
Thái Thị Thùy Dung*, Trần Minh Trường*, Lưu Ngân Tâm**

TÓM TẮT
Giới thiệu: Ung thư bản thân nó đã gây tình trạng suy mòn cơ thể người bệnh, cụ thể khi vị trí ung thư ở
vùng hạ họng – thanh quản chắc chắc sẽ ảnh hưởng đến khả năng ăn uống của bệnh nhân, đặc biệt ở khi bệnh ở
giai đoạn muộn. Do đó, hầu hết bệnh nhân này đều có suy dinh dưỡng khi nhập viện, và tình trạng suy dinh
dưỡng trước mổ được xem là một yếu tố tiên lượng sau mổ vì gây gia tăng tỉ lệ các biến chứng như chậm lành vết
mổ, nhiễm trùng sau mổ và kéo dài thời gian nằm viện, song vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đầy đủ.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng trước mổ theochỉ số khối cơ thể (BMI – Body mass index). Đánh giá
tổng thể chủ quan (SGA – Subjective global assessment), albumin, prealbumin và lympho bào. Đánh giá hiệu quả
can thiệp dinh dưỡng trước và sau mổ. Xác định mối liên quan giữa SGA và biến chứng sau mổ cũng như thời
gian nằm viện.
Phương pháp: Tiến cứu can thiệp hàng loạt ca không đối chứng.
Kết quả: Trên tổng số 41 bệnh nhân được chia làm hai nhóm với nhóm 1 có 20 bệnh nhân và được phẫu
thuật cắt thanh quản, nhóm 2 có 21 bệnh nhân được phẫu thuật cắt toàn bộ thanh thực quản và tái tạo bằng ống
dạ dày. Tỉ lệ suy dinh dưỡng của bệnh nhân trước phẫu thuật lần lượt là 31,7% theo BMI; 80,5% SGA-B, SGAC;14,6 % với albumin/ huyết thanh <3,5 g/dl; 29,3% với prealbumin/ huyết thanh <20 mg/dl và 29,3% với
lympho bào <1500mm3. Có 9 trường hợp được can thiệp dinh dưỡng trước mổ và kết quả cải thiện hơn so khi
nhập viện. Tất cả 41 bệnh nhân đều hỗ trợ dinh dưỡng. Kết quả là chi số cân nặng trung bình tăng hơn so khi
nhập viện với p=0,02.
Kết luận: Những bệnh nhân ung thư hạ họng – thanh quản đa phần có suy dinh dưỡng trước mổ với hơn
80% theo SGA. Do đó, việc phát hiện sớm những trường hợp này là cần thiết vì giúp chúng ta điều trị dinh
dưỡng kịp thời trước phẫu thuật với mục đích giúp hậu phẫu đạt kết quả tốt nhất và rút ngắn thời gian nằm viện
cho bệnh nhân.


Từ khóa: Suy dinh dưỡng, ung thư hạ họng – thanh quản, SGA, Hội dinh dưỡng lâm sàng và chuyển hóa
châu âu (ESPEN - European Society for Clinical Nutrition and Metabolism).

ABSTRACT
ASSESS EFFECT OF TREATING NUTRITION PERIOPERATION IN LARYNGEAL
AND HYPOPHARYNGEAL CANCER PATIENTS WHO INTEND TO SURGERY AT DEPARTMENT
OF OTORHINOLARYNGOLOGY IN CHO RAY HOSPITAL FROM 2015 TO 2016.
Thai Thi Thuy Dung, Tran Minh Truong, Luu Ngan Tam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 278 - 285
Background: Cancer, in itself, is a main reason for undermining people’s health, specifically cancer cells are
found in the larynx and hypopharynx. Moreover, the ability of eating food or having drink will be greatly affected,
* Bộ môn Tai Mũi Họng, ĐHYD TP.HCM
**Khoa Dinh Dưỡng, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Thái Thị Thùy Dung
ĐT: 0907457099
Email:

278

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

especially when patients are in the late stages of cancer. Therefore, most patients are malnourished when admitted
to the hospital. In addition, preoperative malnutrition can be seen as a postoperative prognostic predictor because
it increases the rate of postoperative complications, namely wound healing, infected wound and the length of
hospital stay. Unfortunately, this problem has been underestimated.

Objective: Identifying preoperative nutritional status by Subjective Global Assessment (SGA), Body Mass
Index (BMI), serum albumin and serum prealbumin and total of lymphocyte. Evaluating the effectiveness of
nutritional treatment perioperation. Observing the correlation between SGA and postoperative complications as
well as length of hospital stay.
Method: Prospective studies, intervention uncontrolled case series
Result: 41 patients were separated into two groups. The first group was comprised of 20 patients treated by
total laryngectomy technique. The other one consisted of 21 patients operated by gastric pull up technique. The
rate of preoperative malnutrition was 31.7 % by BMI; 80.5% by SGA-B & C; 14.6% with serum albumin <3.5
g/dl; 29.3% with serum prealbumin <20 mg/dl and was 29.3% with total lymphocyte <1500 mm3.Nine patients
treated with the preoperative nutrition obtained better results. All of patients were treated postoperative nutrition.
As a result, patients’ mean weight was higher than the day they were admitted.
Conclusion: Most of patients were malnourished, approximately 80 per cent according to SGA. This is why
we discover these cases earlier will be essential for us to provide proper nutrition in time to get the best
postoperative outcomes and reduce the length of hospital stay.
Key words: Malnutrition, laryngeal and hypopharyngeal cancer, SGA, European Society for Clinical
Nutrition and Metabolism (ESPEN).
định mối liên quan giữa SGA tiền phẫu với biến
ĐẶT VẤN ĐỀ
chứng sau mổ và thời gian nằm viện.
Ung thư đầu mặt cổ là một trong những vị
ĐỐITƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
trí ung thư được xem là yếu tố nguy cơ về vấn
đề sụt cân. Theo Kubark, Catherine có 55% bệnh
Dân số nghiên cứu
nhân ung thư đầu mặt cổ có nguy cơ suy dinh
Những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư
dưỡng, trong đó có 33% là suy dinh dưỡng nặng
hạ họng - thanh quản có chỉ định điều trị bằng
cần can thiệp hỗ trợ dinh dưỡng(7). Ngoài ra,
phẫu thuật tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 05/2015 –

Persson (2002) cùng đưa ra nhận xét về tình
05/2016.
trạng rối loạn nuốt, rối loạn tiêu hóa…ở những
Thiết kế nghiên cứu
bệnh nhân ung thư vùng đầu mặt cổ và ung thư
Tiến cứu có can thiệp hàng loạt ca không
đường tiêu hóa có ảnh hưởng đến tình trạng ăn
đối chứng.
uống của bệnh nhân. Do đó, những trường hợp
này cần đánh giá dinh dưỡng và điều trị kịp thời
Phương pháp nghiên cứu
để nâng đỡ tổng trạng cho bệnh nhân và giúp
Những bệnh nhân ung thư hạ họng – thanh
quá trình hậu phẫu diễn tiến thuận lợi, giảm
quản được chúng tôi chia làm hai nhóm với
thiểu nguy cơ xảy ra biến chứng do liên quan
nhóm 1 được phẫu thuật cắt thanh quản toàn
đến tình trạng dinh dưỡng kém(11).
phần và nhóm 2 được phẫu thuật cắt toàn bộ

Mục tiêu
Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng đánh giá theo
BMI, SGA và albumin máu, prealbuminmáu và
lympho bào. Đánh giá hiệu quả của can thiệp
dinh dưỡng trước và sau phẫu thuật. Và xác

thanh thực quản có tái tạo bằng ống dạ dày. Tất
cả bệnh nhân sau khi nhập viện sẽ được đánh
giá tình trạng dinh dưỡng theoBMI, SGA và làm
một số xét nghiệm như albumin, prealbumin và

lympho bào bởi nghiên cứu viên. Sau đó sẽ phân

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

279


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

làm hai nhóm, nhóm suy dinh dưỡng cần được
hỗ trợ dinh dưỡng trước mổ và nhóm không suy
dinh dưỡng. Nhóm can thiệp dinh dưỡng này sẽ
được đánh giá lại trước mổ.
Sau mổ, tất cả 41 bệnh nhân thuộc nhóm 1 và
nhóm 2 đều được bổ sung dinh dưỡng và được
theo dõi, đánh giá lại tình trạng dinh dưỡng đến
lúc xuất viện.

Phương pháp thống kê
Phép kiểm so sánh hai trung bình được sử
dụng để so sánh giá trị trung bình của các biến
liên tục, albumin huyết thanh, prealbumin huyết
thanh, thời gian nằm viện ở nhóm 1 và nhóm 2
giữa trước và sau can thiệp dinh dưỡng trước

mổ cũng như sự khác nhau giữa các giá trị lúc
nhập viện so khi xuất viện.Phép kiểm chi bình
phương được sử dụng để phân tích liên quan

giữa tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp
SGA với biến chứng sau mổ và thời gian nằm
viện. Độ tincậy là 95% được sử dụng trong khi
phân tích và giá trị p<0,05 được xem như có ý
nghĩa thống kê. Tất cả các phương pháp phân
tích số liệu dựa vào phần mềm SPSS verson 13.0
(Statistical Program for Social Science).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau 12 tháng nghiên cứu, cỡ mẫu chúng tôi
ghi nhận được là 41 bệnh nhân.

Bảng 1: Đặc điểm chung
Thông số
Tuổi
Chiều cao (m)
Cân nặng (kg)
2
BMI (kg/m )
Albumin máu (g/dl)
Prealbumin máu (mg/dl)
3
Lympho bào (mm )

Thấp nhất
36
1,42
35
12,5
2,8

5,5
900

BMI trung bình trong giới hạn bình thường,
nhưng tỉ lệ suy dinh dưỡng (SDD) theo BMI đến
31,7%. Các xét nghiệm đều có giá trị trung bình
trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên tỉ lệ SDD

Cao nhất
76
1,78
67
24,6
4,9
43
4142

Giá trị
Trung bình ± độ lệch chuẩn
58,15 ± 9,59
1,6 ± 0,06
50,53 7,75
19,36 ± 2,56
4,07 ± 0,48
24,11 ± 8,49
2126,15 ± 771,92

đánh giá theo albumin máu, prealbumin máu và
lympho bào lần lượt là 14,6% (albumin <3,5g/dl),
29,3% (prealbumin máu <10 mg/dl) và 29,3%

(lympho bào <1500 mm3).

Biểu đồ 1: Phân nhóm SGA lúc nhập viện
Nhóm 1 có 12 trường hợp xếp vào SDD.
Nhóm 2 với 21 bệnh nhân được đánh giá đều có
SDD với các mức độ khác nhau. Nhìn chung,

280

trên tổng số 41 bệnh nhân thì tỉ lệ SDD đánh giá
theo SGA là 80,5%.
Như vậy, theo tiêu chuẩn của điều trị suy
dinh dưỡng trước phẫu thuật (khi BMI<18,5 hay

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

SGA-C hay albumin máu <3,0g/dL), có 9 bệnh
nhân có chỉ định điều trị dinh dưỡng.

Bảng 2: Giá trị dinh dưỡng điều trị trước mổ giữa
khuyến nghị và cung cấp

Trong 09 trường hợp (TH), có 07 bệnh
nhân thuộc nhóm 2 và được hỗ trợ dinh
dưỡng phối hợp qua đường miệng và tĩnh

mạch. 02 trường hợp thuộc nhóm 1 và phương
pháp bổ sung dinh dưỡng qua đường miệng
đơn thuần.

Khuyến nghị
Cung cấp
P
Năng lượng
1393,33 ± 154,51 1500,56 ± 367,05 0,432
(kcal/ngày)
Đạm (g/ngày)
68,80 ± 8,22
70,72 ± 11
0,616

Thời gian điều trị trung bình 6,78 ± 3,19
ngày. Hầu hết các trường hợp suy dinh dưỡng
đều được điều trị trước phẫu thuật khoảng 6
ngày, tỉ lệ 55,6%, chỉ 01 TH can thiệp trong 2
ngày. Các TH còn lại chủ yếu can thiệp đủ
theo khuyến nghị dinh dưỡng từ 7-10 ngày
trước mổ với tỉ lệ 33,3%(3).

Mức năng lượng cung cấp trung bình là
1500,56 kcal/ngày, cụ thể 29,26 kcal/kg/ngày so
với khuyến nghị là 27,57 kcal/kg/ngày. Lượng
đạm cung cấp trung bình 1,39 g/kg/ngày so với
khuyến nghị 1,36 g/kg/ngày. Nhìn chung, không
có sự khác biệt giữa nhu cầu khuyến nghị với
việc cung cấp dinh dưỡng thật sự cho người

bệnh trước mổ.

Bảng 3: Đánh giá sau can thiệp dinh dưỡng trước mổ

Trọng lượng cơ thể (kg)
Albumin/máu (g/dL)
Prealbumin/máu (mg/dL)

Trung bình ± ĐLC
Sau điều trị dinh dưỡng
42,33 ± 4,52
3,65 ± 0,45
21,64 ± 2,93

Nhập viện
41,44 ± 4,66
3,62 ± 0,54
15,73 ± 5,57

Sau can thiệp chúng tôi ghi nhận sự thay
đổi có ý nghĩa vềtrọng lượng trung bình cơ thể
từ 41,44 kg tăng lên 42,33 kg (P=0,021);
prealbumin máu từ 15,73 ± 5,57 mg/dL tăng
lên 21,64 ± 2,93 mg/dL (P=0,003).
Tất cả 41 bệnh nhân sau mổ đều được điều
trị dinh dưỡng phối hợp giữa dinh dưỡng qua
đường ruột và dinh dưỡng tĩnh mạch. Dinh
dưỡng tĩnh mạch được bắt đầu từ ngày đầu sau
mổ cho tất cả bệnh nhân.


P
0,021
0,594
0,003

Thời gian bắt đầu ăn qua ống thông dạ dày
trung bình 1,29± 1,16 ngày, nhỏ nhất là 1 ngày và
lớn nhất là 8 ngày. Đa số bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu đều được cho ăn sớm trong vòng 24
giờ đầu sau mổ. Chỉ 04 trường hợp thuộc nhóm
cắt toàn bộ thanh – thực quản có tái tạo bằng ống
dạ dày không cho ăn sớm theo khuyến nghị hội
dinh dưỡng lâm sàng và chuyển hóa châu âu.

Bảng 4: Giá trị dinh dưỡng của can thiệp dinh dưỡng sau phẫu thuật

Từ ngày 1 – 3
Từ ngày 4 trở đi

Năng lượng
Khuyến nghị
Cung cấp
1268,29 ± 187,75
1262,15 ± 225,25
1520,15 ± 212,71
1593,29 ± 242,30

P
0,86
0,06


Lượng đạm
Khuyến nghị
Cung cấp
64,63 ± 9,64
62,99 ± 11,39
76 ± 10,63
79,66 ± 12,11

P
0,36
0,06

Chúng tôi không ghi nhận sự khác biệt về giá trị năng lượng cũng như lượng đạm ở các mốc sau
mổ 1-3 ngày và sau mổ 04 ngày giữa thực tế cung cấp so với khuyến nghị của ESPEN.
Bảng 5: Thay đổi tình trạng dinh dưỡng lúc nhập viện so với khi xuất viện

Trọng lượng cơ thể (kg)
Albumin/máu (g/dL)
Prealbumin/máu (mg/dL)
3)
Lympho bào (mm

Lúc nhập viện
Trung bình ± ĐLC
50,53 ± 7,75
4,07 ± 0,48
24,11 ± 8,49
2126,15 ± 771,92


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

Trước khi xuất viện
Trung bình ± ĐLC
51,13± 7,70
4,12 ± 3,84
24,64 ± 7,85
1878,29 ± 482,52

P
0,02
0,93
0,72
0,06

281


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Cân nặng trung bình khi nhập viện
khoảng 50 kg tăng lên 51 kg khi xuất viện và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (P=0,02). Trong
41 trường hợp, có 61% tăng cân, bên cạnh đó tỉ
lệ sụt cân cũng khá cao 31,7% với mức sụt
giảm trung bình 1,46kg.
Các chỉ số khác như albumin, prealbumin
và lympho bào lúc nhập viện so với trước khi

xuất viện thay đổi không có ý nghĩa thống kê
(P>0,05).
Bảng 6: Liên quan giữa SGA và biến chứng dò vết
mổ
Dò vết mổ
Không dò vết mổ

SGA-A
0
8

SGA-B
2
23

SGA-C Tổng
1
3
7
38

Cả 03 TH dò vết mổ đều có tình trạng suy
dinh dưỡng (SGA-B hoặc SGA-C) trước mổ với
tỷ lệ 10%. Tuy nhiên sự khác biệt về biến chứng
dò vết mổ và phân nhóm SGA không có ý nghĩa
thống kê.
Bảng 7: Liên quan giữa SGA và biến chứng nhiễm
trùng vết mổ
SGA-A SGA-B SGA-C Tổng
0

2
1
3
Nhiễm trùng vết mổ
8
23
7
38
Không nhiễm trùng vết mổ
P= 0,617

Sự khác biệt giữa biến chứng nhiễm trùng và
phân nhóm SGA không ý nghĩa thống kê,
p=0,617. Mặc dù ta thấy rằng những bệnh nhân
có biến chứng đều thuộc nhóm suy dinh dưỡng.

P= 0,617

Bảng 8: Mối liên quan giữa SGA và thời gian nằm viện
Nhóm 1
Nhóm 2

Thời gian nằm viện TB (ngày)
Số TH (N=20)
Thời gian nằm viện TB (ngày)
Số TH (N=21)

Thời gian nằm viện có khác nhau giữa hai
nhóm. Nói chung bệnh nhân càng suy dinh
dưỡng nặng thì thời gian nằm viện sẽ càng dài.


BÀN LUẬN
Tình trạng dinh dưỡng trước nhập viện
Theo tổ chức tế thế giới, chỉ số BMI < 18,5
được xếp vào nhóm suy dinh dưỡng. Trong
nghiên cứu của chúng tôi thì tỉ lệ suy dinh
dưỡng là 31,7%. Kết quả của chúng tôi tương
đương với tác giả Phạm Thanh Thúy (2010) là
30%(12), nhưng lại thấp hơn so với nghiên cứu của
Bruzgielewicz (2009) khi theo dõi 252 bệnh nhân
ung thư hạ họng và ung thư thanh quản tại Phần
Lan, có tỷ lệ suy dinh dưỡng là 41%(4), và tỷ lệ
này trong nghiên cứu của Righini (2013) là
49,27%(15). Nguyên nhân cho sự khác biệt này có
thể vì trong nghiên cứu của Bruzgielewicz đa số
bệnh nhân đều ở giai đoạn T3 hay T4. Tình trạng
dinh dưỡng bệnh nhân ung thư đầu mặt cổ ảnh
hưởng bởi nhiều vấn đề như vị trí u, kích thức u
và giai đoạn của bệnh. Chúng tôi không ghi

282

SGA-A
11,25 ± 1,28
8
0
0

SGA-B
13,2 ± 2,74

10
15,47 ± 2,13
15

SGA-C
20 ± 7,07
2
20,17 ± 4,26
6

P
0,003
0,003

nhận cụ thể giai đoạn bệnh nên không đưa ra kết
luận về mối liên quan giữa giai đoạn bệnh và
tình trạng suy dinh dưỡng, vì vậy kết quả có thể
không tương đồng với tác giả trên.
BMI là phương pháp nhanh chóng và tiện lợi
tuy nhiên kết quả thiếu chính xác vì tiêu chuẩn
lấy từ người bình thường giống nhau ở mọi tuổi
tác, sắc tộc, quốc gia. Những bệnh lý gây mất
nước hay dự trữ nước làm biến đổi cân nặng dẫn
đến chỉ số BMI không chính xác. Trong trường
hợp bướu đặc lớn khoảng 10% trọng lượng ở
người lớn và 4 – 5% ở trẻ em cũng làm BMI mất
chính xác. Những thay đổi lâu dài mới ảnh
hưởng BMI(2).
SGA là phương pháp có độ nhạy, độ đặc
hiệu cao, không xâm lấn, chi phí thấp và dễ

thực hiện(16). Vì vậy chúng tôi lựa chọn
phương pháp này để đánh giá tình trạng dinh
dưỡng bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu. Kết
quả có 80,5% bệnh nhân trong mẫu nghiên
cứu có suy dinh dưỡng với (SGA-B hay SGAC). Kết quả của chúng tôi gần tương tự Dilek

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Unal (2013) SGA-A: 15,7%; SGA-B + SGA-C:
84,3% (18)và Peng Pan (2015) SGA-A 16,2%,
SGA-B 66,2% và SGA-C là 17,6%(10).
Ngoài ra, tỉ lệ suy dinh dưỡng theo chỉ số
albumin máu (<3,5 g/dl), prealbumin máu (<20
mg/dl) và lympho bào (<1500mm3) lần lượt là
14,6%, 29,3% và 29,3%. Như vậy dựa vào
albumin thấp đánh giá suy dinh dưỡng thì tỷ
lệ này thấp là không đúng. Do đó, albumin chỉ
phản ánh độ nặng mà không phản ánh tình
trạng dinh dưỡng nhưng nó lại là chỉ số tiên
lượng tốt cho nguy cơ phẫu thuật(6). So với
dùng chỉ số albumin máu, tỷ lệ suy dinh
dưỡng đánh giá theo chỉ số prealbumin máu
lại cao hơn. Giải thích điều này do prealbumin
máu là protein có thời gian bán hủy ngắn
(khoảng 2 – 3 ngày), trong khi thời gian bán
hủy của albumin máu là 18 – 21 ngày, đồng
thời bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như
tính thấm thành mạch, sự cân bằng dịch, tình

trạng viêm…nên giá trị prealbumin máu nhạy
hơn trong sự thay đổi tình trạng dinh dưỡng,
giúp ta theo dõi và hỗ trợ dinh dưỡng kịp thời
cho bệnh nhân. Dựa vào lympho đánh giá suy
dinh dưỡng thì kết quả của chúng tôi tương tự
Gianluigi Devoto (2006) là 28%(5). Theo nghiên
cứu của tác giả Bruzgielewicz, khi đánh giá
tình trạng dinh dưỡng dựa vào chỉ số giảm
lympho bào trên 160 bệnh nhân thì có đến 37%
trường hợp bị suy dinh dưỡng, trong đó 25%
trường hợp lympho bào nằm trong khoảng
trong khoảng 900 – 1500mm3 (4).
Tóm lại, theo ESPEN thì bệnh nhân có 1
trong những tiêu chí sau cần được can thiệp
dinh dưỡng trước mổ là BMI < 18 kg/m2; sụt cân
>10% trong 6tháng; SGA-C hoặc albumin máu
<3g/dl(3). Trong nghiên cứu chúng tôi có tất cả 09
trường hợp cần điều trị dinh dưỡng trước mổ.

Điều trị dinh dưỡng trước mổ
Theo khuyến cáo của ESPEN, thời gian để
can thiệp dinh dưỡng trước mổ trung bình từ 7
đến 14 ngày(3,11). Thời gian chúng tôi can thiệp
dinh dưỡng trước mổ trung bình chưa đạt như

Nghiên cứu Y học

khuyến nghị đã nêu và chỉ 33,% là phù hợp với
khuyến nghị dinh dưỡng. Nguyên nhân sự khác
biệt này do 01 trường hợp can thiệp trước mổ

ngắn vì chúng tôi sơ suất trong quá trình sàng
lọc bệnh, phát hiện trễ. Những trường hợp khác
do việc cải thiện dinh dưỡng (cải thiện albumin,
prealbumin/máu và/hoặc tăng trọng lượng cơ
thể) và được chỉ định theo phẫu thuật viên.
Chúng tôi cung cấp năng lượng trung bình là
29,8 kcal/kg/ngày và lượng đạm trung bình 1,39
g/kg/ngày. Điều này hoàn toàn phù hợp với tiêu
chuẩn năng lượng cần cung cấp của ESPEN là 25
– 30 kcal/kg/ngày và lượng đạm 11,5g/kg/ngày(1,3).
Sau khi can thiệp dinh dưỡng trước mổ, tình
trạng dinh dưỡng của bệnh nhân nói chung có
cải thiện, dựa vào sự thay đổi của cân nặng và
prealbumin máu.

Điều trị dinh dưỡng sau mổ
Tất cả bệnh nhân sau mổ đều được phối hợp
dinh dưỡng qua đường ruột và dinh dưỡng tĩnh
mạch.Phần lớn bệnh nhân được bắt đầu cho ăn
qua sonde sớm 90,24%. Nguyên nhân chủ yếu
khi cung cấp dinh dưỡng qua đường ruột sớm
sau mổ để bảo đảm tính toàn vẹn của ruột như
tính thấm của ruột, điều hòa đáp ứng hệ miễn
dịch cũng như làm giảm độ nặng của tình trạng
bệnh(9). Tuy nhiên có 04 trường hợp nuôi ăn trễ
là có 03 trường hợp biến chứng chảy máu, viêm
phổi + tràn dịch màng phổi được xử trí và
chuyển ngoại tổng quát theo dõi. 01 trường hợp
trong ngày đầu sau mổ bệnh nhân đau bụng,
trào ngược nên không được nuôi ăn qua đường

ruột sớm.
Bệnh nhân được bổ sung dinh dưỡng tăng
dần từ từ về năng lượng cũng như lượng đạm
cung cấp theo như khuyến nghị của ESPEN để
hạn chế xảy ra biến chứng do nuôi ăn như rối
loạn chuyển hóa trong hội chứng nuôi ăn lại.
Tóm lại, mục tiêu chính khi can thiệp dinh
dưỡng chu phẫu của ESPEN là hạn chế tối đa
cân bằng nitơ âm tính bằng cách không để bệnh
nhân đói, giữ được khối cơ, cân nặng, chức năng

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

283


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

miễn dịch cũng như nhận thức và giúp hồi phục
nhanh hơn sau mổ(8). Chỉ số cân nặng trung bình
của bệnh nhân sau mổ tăng hơn so khi mới nhập
viện và sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê với
p=0,02. Bên cạnh đó, tỉ lệ sụt cân trong nghiên
cứu cũng khá cao, do những nguyên nhân sau:
06 bệnh nhân có biến chứng sau phẫu thuật
(chảy máu, nhiễm trùng vết mổ cổ và loét họng,
viêm phổi, dò vết mổ cổ), 03 bệnh nhân bị buồn
nôn, trào ngược, đau chướng bụng, tiêu chảy sau

ăn qua ống thông, 02 bệnh nhân ăn không theo
hướng dẫn điều trị trong đó có 1 trường hợp
nhiễm trùng vết mổ bụng, 02 bệnh nhân cung
cấp không đủ theo nhu cầu.

Mối liên quan SGA với biến chứng sau mổ
Với biến chứng dò vết mổ cũng như nhiễm
trùng vết mổ, chúng tôi không thấy mối liên
quan giữa SGA và các biến số trên. Mặc dù ta
thấy rằng những bệnh nhân có biến chứng đều
thuộc nhóm suy dinh dưỡng. Nguyên nhân có
thể do cỡ mẫu nghiên cứu chúng tôi còn khá nhỏ
(N=41). Tuy nhiên, đã có nhiều nghiên cứu
chứng minh được mối liên quan này như
Nguyễn Thùy An tỷ lệ biến chứng nhóm SGA-C
cao gấp 3,5 lần nhóm SGA-A(11), hay nghiên cứu
của Phạm Văn Năng về yếu tố nguy cơ dinh
dưỡng của biến chứng nhiễm trùng sau mổ trên
262 bệnh nhân phẫu thuật bụng ghi nhận tỷ lệ
dò vết mổ và nhiễm trùng vết mổ ở nhóm SGAA là 6% và SGA-C là 33,6%(13). Vì thế, khi bệnh
nhân có vấn đề về dinh dưỡng trước mổ thì cần
phải được can thiệp điều trị để hạn chế tối đa bất
lợi có liên quan đến suy dinh dưỡng, điều này
phù hợp với khuyến cáo của ESPEN(3,8).

thời gian theo nhóm SGA-A, B, C tăng dần tuần
tự 05, 07 đến 10 ngày(17).

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy

việc đánh giá và phát hiện sớm những trường
hợp suy dinh dưỡng để kịp thời bổ sung dinh
dưỡng cho bệnh nhân trước mổ cũng như bổ
sung dinh dưỡng sau mổ là cần thiết vì giúp
nâng đỡ tổng trạng và hạn chế xảy ra biến chứng
cũng như rút ngăn thời gian nằm viện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

Mối liên quan SGA với thời gian nằm viện
Sau khi nghiên cứu trên 41 bệnh nhân chúng
tôi thấy rằng thời gian nằm viện khác nhau theo
từng nhóm dinh dưỡng và phương pháp phẫu

thuật và khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Nói
chung, điều này phù hợp với kết luận của nhiều
tác giả như Pirlich (2006), thời gian nằm viện
trung bình của 3 nhóm SGA-A, B, C lần lượt là
11.15 và 17 ngày (P<0,001)(14). Shirodkar (2005) thì

284

10.

11.

ASPEN Board of Directors and the Clinical Guidelines Task
Force (2002). Guidelines for the use of parenteral and enteral
nutrition in adult and pediatric patients. JPEN J Parenter
Enteral Nutr, 26(1):1-138.
Bauer J, Capra S, Ferguson M (2002). Use of the scored
Patient- Generated Subjective Global Assessment (PGSGA) as
a nutrition assessment tool in patients with cancer. Eur J Clin
Nutr, 56(8):779-785.
Braunschweig C, Gomez S, Sheean PM (2000). Impact of
declines in nutritional status on outcomes in adult patients
hospitalized for more than 7 days .J Am Diet Assoc,
100(11):1316-1322.
Bruzgielewicz A, Hamera M, Osuch-Wojcikiewicz E (2009).
Nutritional status of patients with cancer of larynx and
hypopharyx. Otolaryngol Pol, 63(2):141-146.
Devoto G, Gallo F, Marchello C, et al. (2006). Prealbumin
serum concentrations as a useful tool in the assessment of
malnutrition in hospitalized patients. Clin Chem, 52(12):22812285.

Fuhrman MP, Charney P, Mueller CM (2004). Hepatic
proteins and nutrition assessment. J Am Diet Assoc,
104(8):1258-1264.
Khoshnevis N, Ahmadizar F, Alizadeh M, et al. (2012).
Nutritional assessment of cancer patients in Tehran, Iran.
Asian Pac J Cancer Prev, 13(4):1621-1626.
Kreymann KG, Berger MM, Deutz NE, et al. (2006). ESPEN
(European Society for Parenteral and Enteral Nutrition):
ESPEN Guidelines on Enteral Nutrition: Intensive care. Clin
Nutr, 25(2):210-223
Martindale RG, McClave SA, Vanek VW, et al. (2009).
Guidelines for the provision and assessment of nutrition
support therapy in the adult critically ill patient: Society of
Critical Care Medicine and American Society for Parenteral
and Enteral Nutrition: Executive Summary. Crit Care Med,
37(5):1757-17.
Pan P, Tao G, Sun X (2015). Subjective global assessment and
prealbumin levels of esophageal cancer patients undergoing
concurrent chemoradiotherapy. Nutr Hosp, 31(5):2167-2173.
Persson MD, Brismar KE, Katzarski KS. et al. (2002).
Nutritional status using mini nutritional assessment and
subjective global assessment predict mortality in geriatric
patients. J Am Geriatr Soc, 50(12):1996-2002.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
12.


13.

14.
15.

16.

17.

Phạm Thanh Thúy, Ngô Mộng Tuyền, Đoàn Trung Phúc và
CS (2010). Khảo sát tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân ung thư
vùng đầu cổ. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 14(4):776.
Phạm Văn Năng (2008). Yếu tố nguy cơ dinh dưỡng của biến
chứng nhiễm trùng sau mổ trên bệnh nhân phẫu thuật bụng.
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 12 (3):87-93.
Pirlich M, Schutz T, Norman K, et al. (2006). The German
hospital malnutrition study. Clin Nutr, 25(4):563-572.
Righini CA, Timi N, Junet P, et al. (2013). Assessment of
nutritional status at the time of diagnosis in patients treated
for head and neck cancer. Eur Ann Otorhinolaryngol Head Neck
Dis, 130(1):8-14.
Santarpia L, Contaldo F, Pasanisi F (2011). Nutritional
screening and early treatment of malnutrition in cancer
patients. J Cachexia Sarcopenia Muscle, 2(1):27-35.
Shirodkar M, Mohandas KM (2005). Subjective global
assessment: a simple and reliable screening tool for

18.

Nghiên cứu Y học


malnutrition among Indians. Indian J Gastroenterol, 24(6):246250.
Unal D, Orhan O, Eroglu C, Kaplan B. (2013). Prealbumin is a
more sensitive marker than albumin to assess the nutritional
status in patients undergoing radiotherapy for head and neck
cancer. Contemp Oncol (Pozn), 17(3):276-280.

Ngày nhận bài báo:

12/02/2017

Ngày phản biện đánh giá bài báo:

28/02/2017

Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

285



×