Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Điều trị phù bạch mạch bằng chuyển vạt hạch bẹn có cuống nuôi: Một số kinh nghiệm ban đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.9 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học

ĐIỀU TRỊ PHÙ BẠCH MẠCH BẰNG CHUYỂN VẠT HẠCH BẸN
CÓ CUỐNG NUÔI: MỘT SỐ KINH NGHIỆM BAN ĐẦU
Nguyễn Văn Phùng*, Trần Vĩnh Hưng*, Trần Minh Hiếu*

TÓM TẮT
Mở đầu: Điều trị phù bạch mạch cho đến nay vẫn còn là vấn đề khó khăn và thách thức. Phẫu thuật chuyển
vạt hạch bẹn có cuống mạch nuôi (ghép hạch) là một kỹ thuật đầy hứa hẹn để điều trị phù bạch mạch ở chi.
Mục tiêu: Mục tiêu của báo cáo này là đưa ra một số kinh nghiệm ban đầu về phẫu thuật chuyển vạt hạch
bẹn có cuống nuôi trong điều trị phù bạch mạch ở chi.
Đối tượng và phương pháp: Gồm 12 bệnh nhân phù bạch mạch chi trên và chi dưới được phẫu thuật ghép
vạt hạch bẹn có cuống mạch nuôi.
Kết quả: Tất cả các vạt đều sống hoàn toàn, chỉ có 1 trường hợp tụ dịch ở nơi cho vạt. Thời gian phẫu thuật
trung bình là 6,8 giờ. Các bệnh nhân đều cảm thấy cải thiện sau phẫu thuật. Tỉ lệ giảm về chu vi của chi phù sau
mổ 1 tháng giảm 2%, 3 tháng giảm 10%, 6 tháng giảm 20% và 12 tháng giảm 32%.
Kết luận: Phẫu thuật chuyển vạt hạch bẹn có cuống nuôi mở ra một lựa chọn mới cho việc điều trị phù bạch
mạch với kết quả ban đầu đáng khích lệ.
Từ khoá: Phù bạch mạch, ghép hạch.

ABSTRACT
VASCULARIZED GROIN LYMPH NODE FLAP TRANSFERFOR LYMPHEDEMA MANAGEMENT:
SOME INITIAL EXPERIENCE
Nguyen Van Phung, Tran Vinh Hung, Tran Minh Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 556 – 561
Background - objectives: Today, the treatment of lymphedema has difficulties and challenges. Vascularized
lymph node flap transfer appears to be a potential solution for extremities lymphedema. The purpose of this report
was to provide some initial experience of vascularized lymph node transplantation for the treatment of limb
lymphedema.


Methods: 12 patients with upper and lower extremity lymphedema underwent lymph node graft. Evaluation
included qualitative assessment and quantitative volumetric analysis before surgery and at 1 month, 3 months, 6
months and 12 months after the procedure.
Results: All flaps survived, one case with seroma on donor site. The mean operative time was 6.8 hours.
Symptoms are improved by surgery. The reduction rate of the circumference of the lymphedematous extremity
was 2 % at 1 month, 10 % at 3 months, 20% at 3 months and 32% at 12 months.
Conclusions: Vascularized groin lymph node flap transfer will be a potential method for lymphedema.
Key words: Lymphederma, lymphatico-venous anastomosis, vascularized groin lymph node flap transfer,
lymph node graft.
thừa từ các mô, hấp thụ axít béo, vận chuyển
MỞ ĐẦU
chất béo cho hệ tuần hoàn, giúp các tế bào miễn
Hệ thống bạch huyết giúp loại bỏ lượng dịch
dịch trưởng thành, và cũng là con đường cho các
* Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: BS.Nguyễn Văn Phùng

556

ĐT: 0902727138

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
tế bào ung thư di căn. Phù bạch mạch là sự gia
tăng thể tích của một vùng trên cơ thể do sự lưu
thông kém của hệ thống bạch huyết. Có rất

nhiều nguyên nhân gây phù bạch mạch nhưng
có thể chia thành 2 nhóm nguyên nhân là: do
bẩm sinh (do dị dạng bẩm sinh của hệ thống
bạch mạch) hoặc do mắc phải do tổn thương hệ
thống bạch mạch và/hoặc bạch huyết (sau phẫu
thuật ung thư, xạ trị, nhiễm ký sinh trùng…). Tại
các nước phát triển, ung thư và các phương pháp
điều trị của nó là những nguyên nhân phổ biến
nhất của phù bạch mạch. Trong ung thư vú, tỷ lệ
phù bạch mạch khoảng từ 10% đến 40% cách
đây khoãng hơn 30 năm, trong vòng 10 năm trở
lại đây nhờ vào những tiến bộ trong phẫu thuật
điều trị ung thư vú mà tỉ lệ này giảm xuống còn
5% đến 10 %. Tỉ lệ phù bạch mạch tăng ở các
bệnh nhân có nạo vét hạch kèm xạ trị. Đây là
hậu quả đáng sợ của điều trị ung thư vú và vùng
chậu, nó gây khó chịu cho bệnh nhân vì sự biến
dạng tại chỗ của phù bạch mạch không thể dùng
quần áo bình thường để che dấu được, làm cho
bệnh nhân thường xuyên có cảm giác về bệnh
tình của họ, mất tự tin về cơ thể, giảm thể lực,
mệt mỏi và suy giảm tâm lý… từ đó làm giảm
chất lượng sống của bệnh nhân(8).
Phù bạch mạch có thể điều trị bằng phương
pháp nội khoa và phẫu thuật, tuỳ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể, từng giai đoạn khác nhau để
có thể áp dụng một hoặc nhiều phương pháp
phối hợp. Phẫu thuật điều trị phù bạch mạch có
thể chia thành 2 nhóm: Phẫu thuật giảm nhẹ và
phẫu thuật sinh lý. Phẫu thuật giảm nhẹ là

phương pháp giúp làm giảm thể tích chi bị phù
bằng cách cắt bỏ hoặc hút mỡ, phương pháp này
ngày nay ít sử dụng vì không giải quyết được
tình trạng ứ đọng bạch huyết và có thể để lại sẹo
xấu (cắt bỏ). Phẫu thuật sinh lý bao gồm các
phẫu thuật nhằm lập lại sự lưu thông của dòng
bạch huyết bằng cách tạo ra các kênh mới để
tăng công suất của hệ thống bạch huyết: phẫu
thuật nối bắc cầu bạch mạch - tĩnh mạch, bắc cầu
bạch mạch vùng phù sang vùng bạch mạch bình
thường, chuyển vạt hạch có cuống nuôi (ghép

Nghiên cứu Y học

hạch). Việc khôi phục sự lưu thông của hệ thống
bạch huyết bằng phẫu thuật nối bạch mạch –
tiểu tĩnh mạch hoặc bạch mạch – bạch mạch
trong giai đoạn đầu cho thấy hiệu quả. Tuy
nhiên về sau do áp lực trong mô kẽ tăng cao sẽ là
nguyên nhân làm tổn thương những bạch mạch
nhỏ này, với thành rất mỏng, áp lực trong lòng
bạch mạch thấp từ đó các miệng nối này không
còn hiệu quả, tình trạng phù bạch mạch không
cải thiện(3, 5).
Phẫu thuật ghép hạch được thực hiện bằng
cách lấy vạt kèm hạch có cuống mạch cấp máu
cho hạch và ghép vào vùng cơ thể bị phù bạch
mạch, các nhóm hạch có thể được lấy để ghép
là ở vùng cổ, vùng nách và vùng bẹn. Đây là
phẫu thuật điều trị phù bạch mạch được áp

dụng khá phổ biến trong thời gian gần đây ở
nhiều trung tâm trên thế giới với kết quả rất
khả quan(4,5,8). Tuy nhiên ở Việt Nam cho đến
hiện tại phương pháp điều trị phù bạch mạch
bằng chuyển vạt hạch có cuống nuôi vẫn chưa
phổ biến. Mục đích của nghiên cứu này nhằm
đưa ra một số nhận xét ban đầu về phương
pháp phẫu thuật chuyển vạt bẹn có cuống
nuôi trong điều trị phù bạch mạch.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng
Bao gồm 12 trường hợp phù bạch mạch
vùng tay và chân được điều trị bằng phẫu thuật
ghép hạch tại Bệnh viện Bình Dân từ tháng
7/2014 đến tháng 7/2015.

Phương pháp
Mức độ phù bạch huyết của bệnh nhân đã
được phân loại theo tiêu chí Campisi như sau:
giai đoạn I, không thường xuyên phù nề; giai
đoạn II, phù liên tục, giai đoạn III, phù dai dẳng
tiến triển với viêm bạch mạch cấp tính; giai đoạn
IV, phù bạch mạch xơ hoá; và giai đoạn V, phù
chân voi. Đo chu vi của tay tại trước và sau mổ ở
các vị trí: Nếp khuỷu, trên nếp khuỷu 10 cm,
dưới nếp khuỷu 10 cm. Đo chu vi của chân tại
các vị trí: Nếp khoeo, trên và dưới nếp khoeo 10
cm. Các bệnh nhân đều được chụp cắt lớp vi tính


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016

557


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

(MDCT:
Multiple
detector
computed
tomography) trước mổ để khảo sát hạch vùng
bẹn và các mạch máu liên quan như động tĩnh
mạch mũ chậu nông.

tiếp nhận, chuyển vạt lên vị trí tiếp nhận và nối
động mạch tận – bên và tĩnh mạch tận - tận. Đối
với trường hợp ghép hạch ở vùng bẹn, rạch da
song song dưới nếp bẹn 1cm, dài khoảng 10 cm,
bộc lộ bó mạch mũ chậu nông, tĩnh mạch thượng
vị dưới nông để làm cuống mạch tiếp nhận,
chuyển vạt đến vị trí tiếp nhận và nối cuống vạt
với bó mạch tiếp nhận tận - tận. Khâu cố định
vạt sau khi đặt 1 penrose. Khâu đóng nơi cho vạt
sau khi đặt 1 dẫn lưu kín.

Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật thực hiện dưới gây gây mê. Bệnh

nhân ở tư thế nằm ngửa.
Lấy vạt hạch: Vạt hạch bạch huyết vùng bẹn
có cuống mạch nuôi được thiết kế ở dưới dây
chằng bẹn và ở phía trong cơ may. Vạt kèm đảo
da hình trám kích thước 4 x 8 cm được thiết kế
với trục dài song song và ở phía dưới dây chằng
bẹn. Rạch da theo hình thiết kế, phẫu tích bóc vạt
từ ngoài vào trong, ngay trên cân cơ may. Bộc lộ
cuống mạch của vạt là bó mạch mũ chậu nông.
Bóc vạt kèm nhóm hạch trên ngoài của vùng
bẹn. Trong quá trình phẫu tích không nên cố
gắng bộc lộ để nhận diện các hạch bạch huyết.

Hậu phẫu
Sau khi phẫu thuật, băng nhẹ vết mổ và kê
cao chi trên một cái gối. Theo dõi tình trạng
chung của bệnh nhân và theo dõi vạt. Sau khi
xuất viện bệnh nhân được khuyến cáo tiếp tục
điều trị bằng băng ép chi 5 ngày/ tuần trong 2
tháng đầu và 3 ngày/ tuần trong tháng thứ 3 sau
phẫu thuật.

KẾT QUẢ

Chuẩn bị nơi ghép vạt hạch: Vị trí được lựa
chọn để ghép vạt hạch là mặt sau cổ tay hoặc ở
phía dưới – trong của nếp khuỷu đối với chi
trên, vùng bẹn đối với chi dưới. Đối với trường
hợp ghép vạt hạch ở vùng khuỷu, rạch da hình
chữ S từ trên xuống dưới và hướng ra ngoài của

cẳng tay, phẫu tích bộc lộ tĩnh mạch nền và động
mạch trụ hoặc nhánh trước của động mạch quặt
ngược trụ để làm cuống mạch tiếp nhận, chuyển
vạt lên vị trí tiếp nhận và nối động mạch tận –
bên và tĩnh mạch tận - tận. Đối với trường hợp
ghép vạt hạch ở mặt sau cổ tay, rạch da ngang
mặt sau cổ tay hình chữ S lệch về phía quay, chú
ý tránh làm tổn thương nhánh nông của thần
kinh quay, phẫu tích bộc lộ tĩnh mạch đầu và
nhánh động mạch quay trong hỏm lào hoặc bộc
lộ trực tiếp động mạch quay để làm cuống mạch

Đã có 12 trường hợp phù bạch mạch được
điều trị bằng phẫu thuật ghép hạch. Các bệnh
nhân có độ tuổi trung bình (từ 16 đến 62 tuổi).
Trong đó có 10 bệnh nhân nữ là phù bạch mạch
sau điều trị ung thư vú, 2 trường hợp còn lại là
bệnh nhân nam với phù bạch mạch bẩm sinh.
Các bệnh nhân phù bạch mạch mạch sau điều trị
ung thư vú đều có xạ trị, hoá trị và nạo hạch
nách. Tất cả các bệnh nhân đều có áp dụng
phương pháp băng ép, massage dẫn lưu bạch
huyết trên 6 tháng nhưng không cải thiện. Ở các
bệnh nhân ung thư vú, thời gian đã đoạn nhũ từ
3 đến 14 năm, thời gian từ khi đoạn nhũ đến khi
bắt đầu phát hiện phù là 2,2 năm (1 - 3 năm), thời
gian phù là 5,2 năm (1- 11 năm).

Bảng 1: Các thông số của bệnh nhân.
BN

1
2
3
4
5
6
7
8

558

Tuổi
45
50
55
58
31
52
50
45

Giới
Nữ
Nữ
Nữ
Nữ
Nam
Nữ
Nữ
Nữ


Chi phù Bệnh nguyên Nạo hạch
Tay P
Ung thư vú
+
Tay P
Ung thư vú
+
Tay P
Ung thư vú
+
Tay T
Ung thư vú
+
Tay P
Bẩm sinh
Tay T
Ung thư vú
+
Tay P
Ung thư vú
+
Tay T
Ung thư vú
+

Xạ trị
+
+
+

+
+
+
+

Giai đoạn phù
IV
IV
IV
IV
IV
IV
III
II

Thời gian phù
2
3
5
7
31
11
1
2

Điều trị bảo tồn
+
+
+
+

+
+
+
+

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
BN
9
10
11
12

Tuổi
46
42
50
16

Giới Chi phù Bệnh nguyên Nạo hạch
Nữ
Tay P
Ung thư vú
+
Nữ
Tay T
Ung thư vú
+

Nữ
Tay P
Ung thư vú
+
Nam 2 tay, chân Bẩm sinh
P

Phần lớn các bệnh nhân phù bạch mạch ở
giai đoạn IV theo tiêu chí Campisi. Tất cả các vạt
đều sống hoàn toàn, có một trường hợp có tụ
dich tại nơi cho vạt và khỏi sau 3 tuần. Ngoài ra
không ghi nhận biến chứng nào khác ở nơi nhận
cũng như nơi cho vạt. Thời gian mổ trung bình
6,8 giờ (5 - 7,5 giờ). Thời gian nằm viện sau mổ
từ 5 – 7 ngày. Có 2 bệnh nhân có thời gian theo
dõi sau mổ 12 tháng có tỉ lệ giảm về chu vi của
chi bệnh so với chi lành giảm 32%. Có 6 bệnh
nhân có thời gian theo dõi sau mổ 6 tháng có tỉ lệ
giảm về chu vi chi bệnh so với chi lành giảm

Xạ trị
+
+
+

Giai đoạn phù
IV
III
III
V


Phù bạch mạch cho đến nay vẫn còn là
một vấn đề khó khăn và thách thức trong việc
lựa chọn phương pháp điều trị hiệu quả. Điều
trị lý tưởng cho phù bạch mạch ở chi là phải
kiểm soát được tình trạng viêm nhiễm, giảm
sưng phù chi từ đó khôi phục chức năng, cải
thiện về mặt thẩm mỹ và nâng cao được chất
lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Trong thời kỳ
đầu, cách đây gần 100 năm, phương pháp
phẫu thuật được các tác giả đề xuất để điều trị
phù bạch mạch đó là phẫu thuật cắt bỏ hay
phẫu thuật giảm nhẹ (Charles năm 1912,
Sistrunk năm 1927. Phương pháp này chỉ giải
quyết triệu chứng tạm thời và để lại sẹo. Sau
đó một thời gian, Thomson sử dụng phươg
pháp chuyển vị bạch huyết bằng vạt da có
cuống (vạt da đã được bóc lớp thượng bì) đặt
vào vùng khuyết tổn sau khi cắt bỏ da và mô
mềm. Tuy vậy chưa có bằng chứng cho thấy
phương pháp tạo ra đường dẫn lưu bạch
huyết thành công. Phương pháp hút mỡ cũng
đã được áp dụng trong điều trị phù bạch với
báo cáo đầu tiên năm 1989 của O’brien(8). Tuy
nhiên cũng phương pháp này giúp giảm bớt

Thời gian phù
3
2
4

16

Điều trị bảo tồn
+
+
+
+

20%. Có 3 bệnh nhân có thời gian theo dõi sau
mổ 3 tháng có tỉ lệ giảm chu vi chi bệnh so với
chi lành là 10%. Một trường hợp còn lại có thời
gian theo dõi sau mổ 1 tháng thì tỉ lệ giảm về chu
vi của chi bệnh so với chi lành giảm chưa đáng
kể chỉ 2%. Tất cả các bệnh nhân đều nhận thấy
bắt đầu có sự cải thiện sau mổ khoảng 1 tháng
với các biểu hiện như: Chi bệnh nhẹ hơn, vùng
phù mềm mại hơn, ít đau hơn. Tỉ lệ giảm về chu
vi chi bệnh so với chi lành được xác định như
sau:

=

BÀN LUẬN

Nghiên cứu Y học

.
mô mỡ phì đại tuy nhiên cũng có thể làm tổn
thương hệ thống bạch mạch. Một số tác giả
như Baumeister, Siuda… cũng giới thiệu các

báo cáo về phương pháp nối bắc cầu bạch
mạch - bạch mạch từ vùng bệnh đến vùng
lành bằng đoạn ghép bạch mạch lấy từ chi
dưới. Tuy nhiên phương pháp này sẽ để lại
một vết sẹo dài và đôi khi có thể gây ra tình
trạng phù bạch mạch tại nơi cho mảnh ghép.
Để cải thiện một phần nhược điểm này tác giả
Campisi đưa ra ý tưởng dùng đoạn ghép tĩnh
mạch thay cho đoạn ghép bạch mạch(1,4). Laine
và Howard là những người đầu tiên mô tả
phương pháp nối bắc cầu bạch mạch - tĩnh
mạch (lymphovenous) ở chuột vào năm 1963
với kỹ thuật vi phẫu, sau đó Yamada áp dụng
kỹ thuật này trên chó, rồi trên người(2,10).
O’Brien mô tả lần đầu tiên phẫu thuật nối
bạch mạch – tiểu tĩnh mạch vào năm 1977 và
từ đó mở ra tiềm năng của việc ứng dụng vi
phẫu trong điều trị phù bạch mạch. Kết quả
lâu dài của phẫu thuật nối bạch mạch – tiểu
tĩnh mạch là 42 – 83% ở các bệnh nhân chọn
lọc. Tuy nhiên hiệu quả hiệu quả của phẫu
thuật này tỉ lệ thuận với số lượng bạch mạch

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016

559


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

được xác định và số lượng miệng nối. Mạch
bạch huyết ngoại biên phù hợp để thực hiện
các miệng nối rất khó để xác định ở trong mô
xơ, với tình trạng phù của chi. Các mạch bạch
huyết nhỏ, thành rất mỏng là thách thức thực
sự khi tiến hành các miệng nối. Hơn nữa
không thể theo dõi các miệng nối theo phương
thức truyền thống như đối với các vạt tự do(5,7).
Tác giả Puckett đã đưa ra một báo cáo đáng
lưu ý là 100% các miệng nối thông sau 1 tuần
đầu tiên nhưng sau đó 3 tuần thì các miệng
nối đều tắc(7).
Các nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm đã
chứng minh rằng sựu lưu thông của mạch bạch
huyết có thể được phục hồi một cách tự nhiên
bởi sự thông nối bạch mạch – bạch mạch hoặc
bạch mạch – tĩnh mạch. Từ các nghiên cứu đó,
một sự lựa chọn khác đầy tiềm năng cho điều trị
phù bạch mạch được mở ra, đó là phẫu thuật
chuyển hạch kèm tổ chức xung quanh hạch có
cuống mạch nuôi để tái lập lại lưu thông bạch
mạch(1,6,10). Năm 1990, Chen và cộng sự đã báo
cáo việc tái lập lưu thông bạch mạch mới khi
thực hiện chuyển hạch có cuống nuôi ở trên chó,
với kết quả giảm kích thước chi đáng kể(3). Thời
gian gần đây nhiều tác giả đã báo cáo về việc áp
dụng phương pháp ghép mô kèm hạch bạch
huyết có cuống mạch nuôi lấy từ vùng khác trên

cơ thể để điều trị phù bạch mạch trên lâm sàng
với kết quả rất khả quan, 95 % tình trạng phù cải
thiện và 40 % thể tích chi trở về bình thường. Về
lý thuyết, sau ghi ghép hach bạch huyết, tình
trạng phù bạch mạch cải thiện do 2 quá trình là
bơm bên trong và cơ chế hút, và sự tăng sinh
bạch huyết mới sẽ tạo đường dẫn bạch mạch
mới từ hạch bạch huyết đến mô xung quanh.
Hạch bạch huyết là miệng nối bạch mạch tĩnh
mạch sinh lý. Hạch bạch huyết cấy ghép sẽ hoạt
động với cơ chế bơm bên trong và hút: Cơ chế
bơm thúc đẩy bởi áp lực mạnh đẩy vào vạt từ
động mạch nơi cho và tiếp tục được hút bằng
tĩnh mạch nơi cho thông qua miệng nối bạch
mạch – tĩnh mạch sinh lý bên trong vạt. Khi áp
lực mô kẽ dưới da giảm, dịch bạch huyết ở mô

560

xung quanh sẽ sẽ dồn về qua “hiệu ứng lưu
vực”. Ngoài ra, các hạch bạch huyết cấy ghép sẽ
tạo ra yếu tố tăng trưởng nội mạch c (vascular
endothelial growth factor c: VEGF-c) thúc đẩy sự
tăng sinh của mạch bạch huyết(4,5,10). Theo Cheng
M. H qua nghiên cứu trên chuột, thì cơ chế tác
dụng của ghép vạt hạch có cuống cũng như sự
dẫn lưu bạch mạch tĩnh mạch tự nhiên, nghĩa là
bạch huyết từ mô kẽ tập trung về hạch sau đó
vào hệ thống tĩnh mạch.
Becker C qua theo dõi ghép vạt hạch sau 5

năm, nhận thấy 98% trường hợp cho kết quả tốt
trên lâm sàng cũng như trên chụp bạch mạch,
2% tình trạng phù không thay đổi và cũng
không nặng hơn. Chụp xạ hình bạch huyết sau 1
năm cho thấy các hạch bạch huyết cấy ghép hoạt
động và những mạch bạch huyết mới. Assouad J
và CS tái tạo vú vạt DIEP kết hợp ghép hạch bẹn
cho kết quả rất khả quan(9).
Đối với trường hợp phù bạch mạch bẩm
sinh, thông thường có sự thiểu sản của hệ thống
mạch bạch huyết vì vậy phẫu thuật nối bạch
mạch – tiểu tĩnh mạch không phù hợp. Với
những trường hợp này, theo Becker nên cần tiến
hành ghép hạch sớm để tránh quá trình viêm
nhiễm lặp đi lặp lại và tình trạng xơ hoá của tổ
chức dưới da.
Vạt da bẹn bao gồm các hạch bẹn nông là nơi
thường được lựa chọn vì đó là vùng giải phẫu
quen thuộc và có thể giấu sẹo. Các hạch vùng
bẹn bao gồm các hạch bẹn nông và sâu. Đối với
hạch bẹn nông thì chia thành 4 nhóm với mốc là
trục có gốc là vị trí đổ vào của tĩnh mạch mũ
chậu nông: trên ngoài, dưới ngoài, trên trong và
dưới trong. Nhóm trên ngoài có từ 2 – 4 hạch,
nằm dọc theo tĩnh mạch mũ chậu nông, dẫn lưu
bạch huyết chủ yếu từ thành bụng. Dẫn lưu bạch
huyết của chi dưới không bị ảnh hương khi lấy
đi nhóm hạch trên ngoài này. Vì vậy đây cũng là
một trong nhưng lý do để lựa chọn vạt da bẹn
kèm nhóm hạch này để điều trị phù bạch mạch ở

các vị trí khác(4,5). Trong trường hợp không thể
lấy hạch bẹn thì lựa chọn tiếp theo có thể là hạch

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
vùng nách, vùng cổ hoặc nhóm hạch dọc theo
động mạch ngực ngoài.
Vị trí để tiếp nhận vạt da kèm hạch có cuống
mạch nuôi đối với chi trên có thể ở nách, khuỷu
và vùng cổ tay. Trong đó vị trí ở cổ tay theo một
số tác giả đem lại kết quả tốt hơn về mặt chức
năng, 2 vị trí còn lại thì cho kết quả tốt về mặt
thẩm mỹ(4,5). Đối với chi dưới, vị trí tiếp nhận vạt
hạch có thể là ở vùng bẹn, vùng khoeo hoặc
vùng cổ chân. Trong nghiên cứu của chúng tôi
có 10 trường hợp ghép hạch ở cổ tay, 1 trường
hợp còn lại có kèm theo tình trạng tổn thương
đám rối thần kinh cánh tay trái do xạ trị nên
chúng tôi ghép hạch ở vùng dưới nếp khuỷu để
vùng cổ tay phục vụ cho việc chuyển gân để
điều trị tình trạng liệt bàn tay trái, 1 trường hợp
ghép hạch vùng bẹn.
Phần lớn các báo cáo trong y văn đề cập đến
ghép hạch trong điều trị phù bạch mạch ở chi
trên, một số ít trường hợp là chi dưới(8,9,10). Trong
nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là chi trên
(11/12 trường hợp). Chỉ có một trường hợp
chúng tôi ghép hạch để điều trị phù ở chi dưới

và trường hợp này vị trí trên cơ thể do bẩm sinh.
Lin C. H và cộng sự có 13 bệnh nhân và đều
ghép hạch ở cổ tay, trong có một trường hợp tắc
tĩnh mạch phải phẫu thuật lại nhưng vạt đều
sống 100%, có 2 trường hợp nhiễm trùng vết mổ,
ngoài ra không còn ghi nhận biến chứng nào
khác, thời gian theo dõi trung bình 56,31 tháng
với tỉ lệ giảm trung bình chu vi tay bệnh là
50,55%(5). Tất cả 12 trường hợp của chúng tôi vạt
đều sống hoàn toàn, chỉ có 1 trường hợp tụ dịch
tại nơi cho vạt sau mổ, ngoài ra không ghi nhận
biến chứng nào khác. Tất cả các bệnh nhân đều
nhận thấy có sự thay đổi tích cực như: Cánh tay
nhẹ hơn, vùng phù mềm mại hơn, ít đau hơn.
Kết quả ban đầu ghi nhận tình trạng phù cải
thiện, tỉ lệ giảm trung bình chu vi chi bệnh so với
chi lành đạt được 32% sau 12 tháng, các bệnh
nhân đều hài lòng với phẫu thuật. Mặc dù đã đạt
được một số kết quả bước đầu, nhưng số lượng
nghiên cứu của chúng tôi còn có hạn và thời gian

Nghiên cứu Y học

theo dõi còn ngắn. Vì vậy cần tiến hành tiếp tục
nghiên cứu với số lượng bệnh nhân lớn hơn và
thời gian theo dõi dài hơn để từ đó có thể đánh
giá một cách khách quan hiệu quả của phẫu
thuật này trong điều trị phù bạch mạch.

KẾT LUẬN

Phẫu thuật chuyển vạt hạch bẹn có cuống
nuôi mở ra một lựa chọn mới cho việc điều trị
phù bạch mạch với kết quả ban đầu đáng
khích lệ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.
8.

9.

10.

Baumeister R. G. H (1997). An investigation of lymphatic
functionfollowing free-tissue transfer (Discussion). Plast
Reconstr Surg, 99: pp.742–743.
Chang D. W (2010). Lymphaticovenular bypass surgery
for lymphedema management in breast cancer patients: a

prospective study. Plast Reconstr Surg, 126(3): pp. 752-758.
Chen H. C, O’Brien B. M, Rogers I. W, Pribaz J. J, Eaton C. J
(1990). Lymph node transfer for the treatment of obstructive
lymphoedema in the canine model. Br J Plast Surg, 43: pp.578–
586.
Cheng M. H, Henry S. L, Tan B. K,Lin M. C,Huang J. J (2013).
Vascularized groin lymph node flap transfer for
postmastectomy upper limb lymphedema: flap anatomy,
recipient sites, and outcomes. Plast Reconstr Surg, 131(6):pp.
1286 - 98.
Lin C. H,Ali R,Chen S. C,Wallace C,Chang Y. C,Chen H. C,
(2009). Vascularized groin lymph node transfer using the wrist
as a recipient site for management of postmastectomy upper
extremity lymphedema. Plast Reconstr Surg, 123(4): pp.1265-75.
Penha T. R, Ijsbrandy C, Hendrix N. A, Heuts E. M, Voogd A. C,
von Meyenfeldt M. F, van der Hulst R. R (2013). Microsurgical
Techniques for the Treatment of Breast Cancer—related
Lymphedema: a Systematic Review. J Reconstr Microsurg, 29(2):
pp.99-106.
Puckett C. L (1983). Microlymphatic surgery for lymphedema.
ClinPlast Surg, 10: pp.133 -138.
O'Brien B. M, Mellow C. G, Khazanchi R. K, Dvir E, Kumar
V, Pederson W. C (1990). Long-term results after
microlymphaticovenous anastomoses for the treatment of
obstructive lymphedema. Plast Reconstr Surg, 85(4): pp.562-572.
Rausky J, Robert N, Binder J. P, Revol M (2012). À la recherche
d’un traitement idéal du lymphoedème. Compte-rendu de la 2e
Conférence européenne de supermicrochirurgie (Barcelone Mars 2012). Annales de chirurgie plastique esthétique, 57,pp.594
– 599.
Smith A. R, Van Alphen W. A, van der Pompe W. B (1987).

Lymphaticdrainage in patients after replantation of extremities.
Plast Reconstr Surg, 79:pp.163–170.

Ngày nhận bài báo:
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016

29/11/2015
29/12/2015
22/02/2016.

561



×