Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số yếu tố liên quan đến tình trạng sinh nhẹ cân: Nghiên cứu bệnh chứng thực hiện trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.23 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG SINH NHẸ CÂN:
NGHIÊN CỨU BỆNH CHỨNG THỰC HIỆN TRẺ SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH ĐẮK LẮK
Trương Ngô Ngọc Lan*, Hoàng Ngọc Anh Tuấn**, Đoàn Sỹ Hoàng**, Tăng Kim Hồng***

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trẻ sơ sinh nhẹ cân là nguyên nhân tử vong trực tiếp hay gián tiếp tới 60-80% tỷ lệ tử vong
chu sinh. Những yếu tố liên quan đến trẻ nhẹ cân lúc sinh thay đổi theo từng quốc gia, theo sự phát triển về kinh
tế, xã hội. Vì vậy, việc tìm ra các yếu tố liên quan đến thai nhẹ cân cho từng vùng miền khác nhau là quan trọng
để hạn chế tỷ lệ thai nhẹ cân cho từng vùng miền đó nói riêng và cho quốc gia nói chung.
Mục tiêu nghiên cứu là: Xác định một số yếu tố liên quan thuộc về mẹ, con, và chăm sóc y tế ảnh hưởng
đến cân nặng thấp lúc sinh của trẻ tại bệnh viện đa khoa Tỉnh Đắk Lắk.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh - chứng không bắt cặp thực hiện tại bệnh viện trên 117 bà mẹ
và trẻ sơ sinh nhẹ cân cùng117 bà mẹ và trẻ sơ sinh có cân nặng bình thường được sinh ra tại khoa Sản Bệnh viện
Tỉnh Đắk Lắk trong thời gian từ 02/2016 đến 06/2016.
Kết quả: Bà mẹ sinh con từ lần thứ 3 trở đi khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 19 lần các bà mẹ sinh con lần
đầu hoặc lần thứ 2. Giới tính của con lần này cùng giới với con lần trước làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân gấp
5,01 lần so với giới tính của con lần này khác giới với con lần trước. Bà mẹ nghén nhiều trong thai kỳ tăng khả
năng sinh con nhẹ cân cao gấp 8,78 lần bà mẹ không nghén, nghén ít hoặc trung bình. Bà mẹ mắc bệnh trong 6
tháng cuối của thai kỳ có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 4,7 lần các bà mẹ không mắc bệnh trong 6 tháng cuối.
Kết luận: Các yếu tô liên quan đến tình trạng sinh nhẹ cân bao gồm: số con đã có trong gia đình ≥ 2 con; con
lần này cùng giới với con đã sinh; bà mẹ bị nghén nhiều; bà mẹ mắc bệnh trong 6 tháng cuối của thai kỳ.
Từ khóa: sơ sinh nhẹ cân, các yếu tố liên quan.

ABSTRACT
FACTORS RELATED TO LOW BIRTH WEIGHT: A CASE-CONTROL STUDY CONDUCTED
ON NEWBORN CHILDREN AT DAK LAK PROVINCE HOSPITAL


Ngo Truong Ngoc Lan, Hoang Ngoc Tuan, Doan Sy Hoang, Tang Kim Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 108 - 114
Background: Low birth weight (LBW) is a cause directly or indirectly leading to 60% to 80% perinatal
death. Factors related to LBW vary by country, according to the economic and social development. Thus exploring
the factors related to underweight during pregnancy for different regions is important in order to reduce low birth
weight rates in each region and in the whole country in general.
Objectives: To define related factors including maternal, child and health care factors affecting low birth
weight in children born in Dark Lack Province Hospital.
Methods: A hospital-based unmatched case – control study was conducted on 117 mothers and newborns
with normal birth weight and 117 mothers and newborns with low birth weight at Obstetrics Department of Dark
Lack Province Hospital from 02/2016 to 06/2016.
** Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Đắk Lắk.
*** Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BSCKII. Nguyễn Thị Bảo Chi
ĐT: 0909 082 833
Email:

108

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017

Nghiên cứu Y học

Results: Mothers of high parity (three children or more) had odds of giving LBW babies 19 times higher than
those of low parity (one or two children). The similarity of children sex (this time and previous time) increased the
odds of LBW 5.01 times higher compared to the oppositeness of children sex. Mothers with heavy morning sick
during pregnancy had odds of LBW 8.78 times higher than those mothers having low or medium morning sick.

Mothers with infection in the last 6 months of pregnancy is increased the odds of low birth weight 4.7 times higher
than those without infection.
Conclusions: Factors related to low birth weight include: high parity (2 children or more), similarity of child
sex this time and previous time, mothers with heavy morning sick, and mothers with infection in the last 6
months of pregnancy.
Keywords: low birth weight, maternal risk factors.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cân nặng sơ sinh là một tiêu chí tốt để
đánh giá tình trạng sức khoẻ và tình trạng
dinh dưỡng của người mẹ, đồng thời thể hiện
cơ hội sống sót, trưởng thành, phát triển trong
thời gian dài và tâm lý xã hội của trẻ em mới
sinh(1,3).Theo WHO (2011), tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ
cân toàn cầu là 15,5%, tương ứng khoảng 20,6
triệu trẻ đẻ mỗi năm bị nhẹ cân, trong đó
96,5% là những trẻ sinh ra ở các nước đang
phát triển(10). Các yếu tố về phía mẹ liên quan
đến việc sanh con nhẹ cân có thể xuất hiện từ
lúc còn nhỏ, trước khi mang thai, trong quá
trình mang thai. Ngoài ra những yếu tố liên
quan đến trẻ nhẹ cân lúc sinh thay đổi theo
từng quốc gia, theo sự phát triển về kinh tế, xã
hội. Vì vậy, việc tìm ra các yếu tố liên quan
đến thai nhẹ cân cho từng vùng miền khác
nhau là quan trọng để hạn chế tỷ lệ thai nhẹ
cân cho từng vùng miền đó nói riêng và cho
quốc gia nói chung(9).
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi nằm ở trung
tâm vùng Tây Nguyên, có 47/54 dân tộc, trong

đó dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày,
Nùng... chiếm 30% dân số(2). Trong những năm
gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do
tăng cơ học, chủ yếu là di dân tự do, điều này đã
gây nên sức ép lớn cho tỉnh về giải quyết đất ở,
đất sản xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an
ninh trật tự và môi trường sinh thái. Bên cạnh đó
cũng gây nên sức ép không nhỏ lên ngành Y tế
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho
người dân đặc biệt là nạn tảo hôn đang tăng lên

một cách đáng kể. Mục tiêu của nghiên cứu này
làm nhằm xác định một số yếu tố liên quan
thuộc về mẹ, con, và chăm sóc y tế ảnh hưởng
đến cân nặng thấp lúc sinh của trẻ tại bệnh viện
đa khoa Tỉnh Đắk Lắk.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu bệnh-chứng không
bắt cặp thực hiện tại bệnh viện, với tiêu chuẩn
chọn mẫu bao gồm những trẻ sinh ra tại Khoa
sản Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk từ tháng
02/2016 đến tháng 06/2016 và có cân nặng lúc
sinh chính xác; bà mẹ phải biết được chính xác
tuần tuổi thai của mình dựa trên sổ khám thai
hoặc siêu âm 3 tháng đầu; và trẻ sau sinh sống
của những bà mẹ trên. Tiêu chuẩn loại trừ là
những sản phụ có rối loạn hành vi, bệnh tâm
thần, thiểu năng trí tuệ...; sản phụ không hiểu
hoặc không thể trả lời hoàn tất bản câu hỏi.

Cỡ mẫu của nghiên cứu tính dựa vào công
thức nhằm kiểm định tỷ số chênh OR, với tỷ số
bệnh chứng là 1: 1; với p0 (tỷ lệ bà mẹ không
khám thai hoặc chỉ khám thai 1 lần trong thai kỳ)
là 10,04%. Theo một nghiên cứu trước đây, bà
mẹ không khám thai hay chỉ đi khám thai 1 lần
có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 3,2 lần các
bà mẹ khám thai đầy đủ (6).
Với những thông tin trên, cỡ mẫu cần thiết
là: 100 trẻ thuộc nhóm sinh nhẹ cân, và 100 trẻ
thuộc nhóm có cân nặng bình thường. Cỡ mẫu
tối thiểu được tăng lên thành 110 trẻ có cân nặng
lúc sinh bình thường và 110 trẻ sinh nhẹ cân để
dự phòng việc điền thiếu thông tin trong quá

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 109


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

trình thu thập mẫu nghiên cứu. Tổng số trẻ cần
nghiên cứu là 220 trẻ.
Quá trình thu thập số liệu dựa vào sổ sinh
của phòng sinh khoa sản bệnh viện tỉnh Đắk
Lắk, hồ sơ bệnh án của bà mẹ tại bệnh viện, sổ
khám thai và các giấy tờ liên quan, và phiếu trả
lời câu hỏi.


Xử lý và phân tích số liệu
Sau khi thu thập các số liệu được mã hóa và
nhập vào phần mềm STATA 12.0 để xử lý và
phân tích số liệu. Biến số phụ thuộc bao gồm:
cân nặng của trẻ sơ sinh. Các biến số độc lập bao
gồm: giới tính trẻ, phương pháp sinh, dân tộc bố,
dân tộc mẹ, nghề nghiệp bố, nghề nghiệp mẹ,
trình độ học vấn của bố mẹ, tiền sử sản khoa của
mẹ, số lần đi khám thai, dinh dưỡng trong thai
kỳ, tình trạng ốm nghén của bà mẹ trong thai kỳ.
Hồi quy logistics được sử dụng để xác định
các yêu tố liên quan theo các bước sau: Đầu tiền,
phân tích đơn biến được thực hiện để chọn ra
các yếu tố giữa các biến số độc lập « có khả năng
liên quan » đến tình trạng sinh con nhẹ cân với p
< 0,25. Sau đó, dùng hồi quy đa biến logistic
được áp dụng để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu
và phát hiện các yếu tố thay đổi tương quan (p
<0,05) là các yếu tố tương quan thực sự.

KẾT QUẢ
Tổng cộng có 117 bà mẹ và trẻ sơ sinh có cân
nặng thấp và 117 bà mẹ và trẻ sơ sinh có cân
nặng bình thường được đưa và nghiên cứu.
Bảng 1. Đặc điểm của trẻ sơ sinh trong nghiên cứu:
Nhóm
Nhóm
bệnh
chứng
1938 ± 3118 ±

Cân nặng của trẻ sơ sinh (gram)
467
354
(Cân nặng trung bình ± Độ lệch
chuẩn)
Chung: 2528 ± 722
33,5 ± 3,7 38,9 ± 1,5
Tuổi thai của trẻ (tuần)
(Tuổi thai trung bình ± Độ lệch chuẩn) Chung: 36,2 ± 3,9
< 1000 gram
5,1%
Mức độ nhẹ
1000 – 1499 gram
7,7%
cân
1500 – 2499 gram
87,2%
Giá trị

Ở nhóm trẻ nhẹ cân, đa số có cân nặng từ
1500 – 2499 gram (82,7%), tuy nhiên số sơ sinh
cực nhẹ cân < 1000 gram cũng chiếm gần 5%.

110

Tuần tuần tuổi thai của trẻ đưa vào nghiên cứu
phân bố từ 24 đến 42 tuần, đa số trẻ nhẹ cân tập
trung ở nhóm 32 – 36 tuần tuổi thai.
Bảng 2. Tổng hợp các yếu tố thuộc về mẹ liên quan
đến tình trạng trẻ nhẹ cân lúc sinh (TNCLS):

Các yếu tố liên quan
Khu vực sống
Nghề nghiệp

Dân tộc

Học vấn
Tình trạng hôn
nhân
Cân nặng
trước mang thai
Tiền sử sinh
con nhẹ cân
Kinh tế gia đình
Bố và mẹ cùng
là đồng bào dân
tộc thiểu số

OR

KTC
95%

P

Thành thị
1
1,44 –
0,001
4,38

ở nông thôn
2,51
Không làm nông 1
2,2 – 6,6 <0,001
Làm nông
3,82
Kinh

1

Ê đê

2,29

khác

3,49

>cấp 3
dưới cấp 3
Có chồng
Không có chồng
< 45kg.
≥ 45 kg
Không

Nghèo
Không nghèo



1
3,84
1
6,46
2,44
1
1
12,93
3,26
1
3,08

Không

1

1,15 –
4,56
1,65 –
7,36

0,018
0,001

2,19 –
< 0,001
6,72
1,84 –
22,69


0,004

1,35 –
4,42

0,03

2,83 –
59,1

0,004

1,45 –
7,34

0,004

1,64 –
< 0,001
5,77

Trong các yếu tố liên quan đến tình trạng
sinh trẻ nhẹ cân qua phân tích logistic đơn
biến (bảng 2) cho thấy: bà mẹ sống ở khu vực
nông thôn, làm nghề nông có khả năng sinh
con nhẹ cân cao gấp 2,51 lần và 3,82 lần so với
các bà mẹ khác. Bà mẹ là người đồng bào dân
tộc Ê đê hoặc người đồng bào dân tộc thiểu số
khác thì khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp
2,29 lần và 3,49 lần so với bà mẹ là người đồng

bào dân tộc Kinh. Bà mẹ không có chồng
(chưa kết hôn hoặc góa chồng) thì khả năng
sinh con nhẹ cân cao gấp 6,46 lần so với các bà
mẹ đã kết hôn (KTC 95%= 1,84 – 22,69;p =
0,004). Bố và mẹ cùng là người đồng bào dân
tộc thiểu số thì khả năng sinh con nhẹ cân cao
gấp 3,08 lần so với con của bố mẹ khác đồng
bào dân tộc (KTC 95%= 1,64 – 5,77; p < 0,001).

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Bảng 3. Tổng hợp các yếu tố thuộc về chăm sóc và
quản lý thai liên quan đến tình trạng TNCLS:
Các yếu tố liên quan
Tăng cân < 8 kg
< 3 lần
Khám thai
3 – 5 lần
> 5 lần
Kém
Dinh dưỡng Bình thường
Tốt
Mắc bệnh 6 tháng cuối

OR
5,47
2,49
1

0,56
2,63
1
0,48
2,36

KTC 95%
p
2,83 – 10,6 < 0,001
0,97 – 6,38 0,057
0,31 – 1
0,98 – 7,05

0,051
0,055

0,27 – 0,84
1,09 – 5,09

0,01
0,029

Trong thời gian mang thai, bà mẹ tăng cân <
8kg trong thai kỳ có khả năng sinh nhẹ cân cao
gấp 5,47 lần các bà mẹ tăng cân 8 – 12kg (KTC
95%= 2,83 – 10,6, p < 0,001). Bà mẹ khám thai
dưới 3 lần có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp
2,49 lần so với bà mẹ khám thai từ 3 – 5 lần trong
thai kỳ, tuy nhiên điều này không có ý nghĩa
thống kê với p > 0,05. Bà mẹ có dinh dưỡng tốt

trong thời gian mang thai là giảm khả năng sinh
con nhẹ cân ít hơn 0,48 lần so với các bà mẹ có
dinh dưỡng bình thường (KTC 95%: 0,27 – 0,84,
p = 0,01) (bảng 3).
Bảng 4: Mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về mẹ,
con, chăm sóc y tế trong thời gian mang thai với tình
trạng sinh con nhẹ cân qua phân tích đa biến:
OR KTC 95%
hc
Số con đã có trong gia
1,71 –
2,16 0,89 – 5,26 19
đình ≥2 con.
209,6
Con lần này cùng giới
1,8 0,76 – 4,26 5,01 1,3 – 19
với con đã sinh
Nghén nhiều
1,46 0,87 – 2,45 8,78 1,6 – 48,3
Mắc bệnh 6 tháng cuối 2,36 1,09 – 5,09 4,7 0,9 – 25
Yếu tố liên quan

OR
thô

KTC 95%

hiệuchỉnh

Trong các yếu tố liên quan, sau khi thực hiên

mô hình hồi quy logistics đa biến (bảng 4) thì chỉ
còn lại 4 yếu tố thực sự liên quan đến tình trạng
sinh nhẹ cân của trẻ: số con đã có trong gia đình
≥ 2 con làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân ở các
đứa con sau lên 19 lần (KTC 95% = 1,71 – 209,6).
Con lần này cùng giới với con đã sinh trước đó
thì khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 5,01 lần so
với con lần này khác giới với con đã sinh (KTC
95% = 1,3 – 19). Bà mẹ bị nghén nhiều trong thời
gian mang thai làm tăng khả năng sinh con nhẹ
cân lên gấp 8,78 lần so với các bà mẹ không bị

Nghiên cứu Y học

nghén hoặc nghén ít (KTC 95% = 1,6 – 48,3). Bà
mẹ mắc bệnh trong suốt 6 tháng cuối của thai kỳ
sẽ làm tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân lên gấp 4,7
lần so với các bà mẹ khỏe mạnh hoặc chỉ mắc
bệnh trong 3 tháng đầu mang thai (KTC 95% =
0,9 – 25).

BÀN LUẬN
Đặc điểm của trẻ sơ sinh trong nghiên cứu
Ở nhóm trẻ nhẹ cân, đa số có cân nặng từ
1500 – 2499 gram (82,7%), tuy nhiên số sơ sinh
cực nhẹ cân < 1000 gram cũng chiếm gần 5%.
Nghiên cứu của Trần Thanh Nhàn và cộng sự
cho thấy, khi tiến hành phân tích trên 590 cặp bà
mẹ - trẻ sơ sinh: Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân (SSNC)
nhóm có trọng lượng lúc sinh (TLLS) từ 2.000 2.499g là 84,6% (33/39), nhóm 1.500 - 1.999g là

10,3% (4/39) và nhóm 1.000 - 1.499 là 5,1%
(2/39)(14). Nghiên cứu của Phạm Thị Kim Thủy và
cộng sự cho thấy khi tiến hành nghiên cứu trên
390 trẻ sơ sinh thi có 1,28% trẻ có TLLS từ 1000 –
1499g, 98,72% trẻ có TLLS từ 1500 – 2499g. So với
các nghiên cứu trên: Tỷ lệ trẻ nhẹ cân chiếm khá
cao so với các nhóm rất nhẹ cân và cực nhẹ cân,
tương ứng với tuần tuần thai tập trung ở nhóm
sinh non (32 – 36 tuần) nhiều.

Tổng hợp các yếu tố thuộc về mẹ liên quan
đến tình trạng TNCLS
Trong các yếu tố liên quan đến tình trạng
sinh trẻ nhẹ cân qua phân tích logistics đơn biến
cho thấy: bà mẹ sống ở khu vực nông thôn, làm
nghề nông có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp
2,51 lần và 3,82 lần so với các bà mẹ khác. So
sánh với nghiên cứu của Đinh Phương Hoà, tỷ lệ
trẻ SSNC khác nhau từng khu vực. Nhìn chung,
bà mẹ sống ở khu vực nông thôn đều có tỷ lệ
sinh con nhẹ cân cao hơn bà mẹ sống ở khu vực
thành thị. Nghiên cứu của Tô Minh Hương và
cộng sự đã nghiên cứu ở các tỉnh thuộc đồng
bằng sông Hồng; nghiên cứu của Hoàng văn
Tiến (1998) ở huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội
cũng cho kết quả tương tự (4). Nghiên cứu của
Trần Thanh Nhàn cùng cộng sự cho thấy, tỷ lệ
SSNC ở nhóm bà mẹ có nghề nghiệp nông dân

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 111



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

cao nhất (14,6%), thấp nhất là nhóm bà mẹ là
công chức nhà nước (5,4%), nghiên cứu cũng cho
thấy có sự liên quan giữa nghề nghiệp của mẹ và
tình trạng SSNC với p<0,01(8). Theo nghiên cứu
của Đinh Thị Phương Hòa, mẹ làm nghề nông có
nguy cơ sinh con bị SSNC gấp 3,02 lần so với
nhóm bà mẹ làm nghề khác(4). Theo nghiên cứu
bệnh chứng các yếu tố nguy cơ sinh con nhẹ cân
của Termsri Chumijarakij tiến hành tại Thái Lan
(1988) cho thấy bà mẹ ở khu vực nông thôn có
nguy cơ sinh nhẹ cân gấp 1,2 lần so với bà mẹ
sống ở khu vực thành thị, bà mẹ làm nghề nông
có nguy cơ sinh nhẹ cân gấp 1,5 lần so với bà mẹ
làm nghề buôn bán, kinh doanh(3).
Kết quả nghiên cứu của tôi tương tự những
tác giả vừa nêu, tỷ lệ SSNC tập trung chủ yếu ở
nhóm bà mẹ là nghề nông. Đối với những bà mẹ
là nông dân thì phải lao động nặng nhọc, điều
kiện kinh tế gia đình khó khăn, chế độ dinh
dưỡng trước và trong khi mang thai thiếu thốn,
hiểu biết về sức khỏe sinh sản còn kém, thường
sống ở vùng nông thôn nên việc tiếp cận với các
dịch vụ y tế còn hạn chế.
Bà mẹ là người đồng bào dân tộc Ê đê hoặc

người đồng bào dân tộc thiểu số khác thì khả
năng sinh con nhẹ cân cao gấp 2,29 lần và 3,49
lần so với bà mẹ là người đồng bào dân tộc Kinh.
Đồng thời, nếu trẻ có bố và mẹ cùng là người
đồng bào dân tộc thiểu số thì khả năng sinh nhẹ
cân cao gấp 3,08 lần so với trẻ là con của bố mẹ
khác đồng bào dân tộc (KTC 95%= 1,64 – 5,77; p <
0,001).Theo Nguyễn Đỗ Huy nghiên cứu trên
228 trẻ sơ sinh tại 4 xã miền núi thuộc huyện Yên
Thế - Bắc Giang năm 2003 – 2004 cho thấy không
có sự khác biệt về tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân giữa
các nhóm dân tộc Kinh và dân tộc Nùng(6).
Người đồng bào dân tộc thiểu số thường
do hạn chế về mặt ngôn ngữ, công việc
thường là làm nông, điều kiện kinh tế khó
khăn nên khả năng tiếp xúc với các dịch vụ
chăm sóc y tế còn kém. Đặc biệt là đồng bào
dân tộc khác (Tày, Nùng, Mông, M’Nông…)
những năm gần đây di cư vào khu vực Tây
Nguyên khá nhiều, cuộc sống du canh du cư,

112

trình độ văn hóa thấp, phong tục lạc hậu, nạn
tảo hôn, sinh dày, sinh nhiều con… càng làm
tăng nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân.
Đồng bào dân tộc Ê đê là đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ ở Đắk Lắk, chiếm tỷ lệ khá cao,
được chính quyền quan tâm và tạo điều kiện
rất lớn, vì thế những năm gần đây đời sống

của đồng bào dân tộc Ê đê được cải thiện rất
nhiều. Chính vì thế mặc dù nguy cơ sinh con
nhẹ cân so với đồng bào Kinh còn cao, nhưng
tỷ lệ này vẫn ít hơn nhiều so với các đồng bào
dân tộc thiểu số khác.
Bà mẹ không có chồng (chưa kết hôn hoặc
góa chồng) thì khả năng sinh con nhẹ cân cao
gấp 6,46 lần so với các bà mẹ đã kết hôn (KTC
95%= 1,84 – 22,69;p = 0,004). Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi khá phù hợp với các nghiên
cưu tại Thái Lan: bà mẹ chưa kết hôn có nguy
cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 1,4 bà mẹ có hôn
thú. Bà mẹ đã ly thân, ly hôn có nguy cơ sinh
con nhẹ cân cao hơn nhiều so vơi bà mẹ đang
có chồng(3); và theo nghiên cứu tại Malaysia
(2008) cũng cho thấy, tỷ lệ bà mẹ chưa kết hôn
ở nhóm trẻ sinh ra bị nhẹ cân cao hơn ở nhóm
trẻ sinh không nhẹ cân.
Mang thai không có hôn thú thường là ngoài
ý muốn, thường gặp ở các bà mẹ còn nhỏ tuổi
nên có tâm lý lo lắng, mặc cảm với bạn bè, người
thân, chưa có đầy đủ kiến thức chăm sóc sức
khỏe trong thời gian mang thai đồng thời đa số
trường hợp này gia đình không được biết nên
không được gia đình hỗ trợ trong việc chăm sóc
thai. Đồng thời không được sự quan tâm chăm
sóc của bố đứa trẻ, bà mẹ thường cô đơn, buồn
bã, gặp nhiều áp lực về mặt tâm lý và xã hội nên
việc chăm sóc thai thường ít được quan tâm.


Các yếu tố thuộc về chăm sóc và quản lý
thai liên quan đến tình trạng TNCLS
Nghiên cứu cho thấy: Bà mẹ tăng cân trong
thai kỳ dưới 8 kg có khả năng sinh nhẹ cân gấp
5,47 lần so với bà mẹ tăng cân 8 – 12 kg trong
thai kỳ. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001. Theo nghiên cứu của Phạm Thị Kim

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017

Nghiên cứu Y học

Thủy và Tạ Văn Trầm kết luận: nếu trong thời
gian mang thai mà bà mẹ tăng cân < 8 kg thì
nguy cơ bị sinh nhẹ cân tăng gấp 9,3 lần. Theo
nghiên cứu của Trần Thanh Nhàn và công sự
cho thấy những bà mẹ có cân nặng tăng ít hơn
9kg trong suốt quá trình mang thai làm tăng cơ
sinh con bị SSNC với OR=3,5 (1,5 – 8,0)(8). Nghiên
cứu tại Thái Lan cũng cho kết luận tương tự: bà
mẹ tặng < 5 kg hoặc từ 5 – 10 kg trong thời gian
mang thai có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp
2,32 lần và 1,94 lần so với bà mẹ tăng > 10 kg
trong thai kỳ(3).

thấy có ý nghĩa thống kê(7). Nghiên cứu tại
Malaysia lại đưa ra kết quả trẻ sinh lần đầu có

nguy cơ sinh nhẹ cân cao hơn trẻ được sinh ở các
lần sau. Kết quả mà tôi có được khác với các kết
luận của các tác giả trên. Trong nghiên cứu của
tôi, những bà mẹ sinh nhiều con đa số là người
đồng bào dân tộc thiểu số, có trình độ học vấn
thấp, làm nghề nông nên ít được tiếp xúc với các
dịch vụ chăm sóc thai nghén, kế hoạch hóa gia
đình. Đa số đều có hoàn cảnh kinh tế gia đình
khó khăn nên dinh dưỡng trong thai kỳ ít được
bảo đảm.

Như vậy kết quả nghiên cứu của tôi cũng
đưa ra kết luận tương tự với các nghiên cứu đã
nêu trên. Điều này cho thấy rằng cân nặng tăng
lên trong khi mang thai là một yếu tố liên quan
rất mật thiết đến nguy cơ SSNC. Theo tác giả Vũ
Ngọc Ruẩn (2005)(9), cân nặng cơ thể tăng khi
mang thai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau: trẻ tuổi tăng trọng nhiều hơn người nhiều
tuổi, có thai lần đầu tăng trọng nhiều hơn thai
lần sau, thai phụ có BMI thấp sẽ tăng trọng
nhiều hơn BMI cao. Mặc dù có nhiều yếu tố ảnh
hưởng nhưng mức tăng trọng trung bình đòi hỏi
từ 11-12kg. Nếu tăng trọng dưới 9kg, dinh
dưỡng cần thiết cho thai nhi phải lấy từ nguồn
mô tồn trữ trong cơ thể mẹ. Nếu mẹ bị suy dinh
dưỡng hoặc nhẹ cân thì chắc chắn thai sẽ không
đủ dinh dưỡng để phát triển.

Giới tính con lần này cùng giới với con đã

sinh làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân gấp
5,01 lần so với giới tính của con lần này khác giới
với con lần trước. Do tâm lý muốn “có nếp có tẻ”
của các gia đình và tư tưởng “trọng nam khinh
nữ”, nên các gia đình thường không muốn sinh
con một bề đặc biệt là sinh con gái. Khi đứa trẻ
lần này được xác định cùng giới tính với đưa trẻ
đã sinh trước đó, sự quan tâm chăm sóc dành
cho bà mẹ cũng giảm đi. Bản thân bà mẹ cũng sẽ
lơ là trong việc chăm sóc thai nghén của mình.
Đôi khi vì áp lực sinh con trai mà nhiều bà mẹ
khi biết giới tính thai nhi thường rơi vào trạng
thái tinh thần không vui vẻ, thêm vấn đề từ phía
gia đình chồng nên dẫn đến căng thẳng tâm lý,
dễ dẫn đến dinh dưỡng trong thai kỳ kém và có
thể sinh non.

Các yếu tố liên quan trong mô hình phân
tích đa biến

Bà mẹ nghén nhiều trong thời gian mang
thai làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp
8,8 lần các bà mẹ không bị nghén nhiều. Huxley
R. khi nghiên cứu về ảnh hưởng của việc nôn
nghén lên sự khát triển của thai nhi cho thấy:
Ốm nghén đã được báo cáo là có tác động tích
cực lên thai kỳ và có liên quan với giảm nguy cơ
sẩy thai, sinh non, sinh nhẹ cân (LBW), và tử
vong chu sinh. Các nghiên cứu ở người và động
vật đã chỉ ra rằng giảm khẩu phần năng lượng

trong đầu thai kỳ có liên quan với tăng trọng
lượng nhau thai(5). Trong nghiên cứu này lại cho
kết quả ngược lại với các tác giả nước ngoài.
Trong nghiên cứu của tôi các bà mẹ bị nghén
nhiều thường có thời gian nghén kéo dài qua

Qua mô hình phân tích đa biến cho thấy, bà
mẹ sinh con lần thứ 3 trở lên làm tăng khả năng
sinh ra trẻ có CNLS thấp cao gấp 19 lần các bà
mẹ sinh lần đầu hoặc lần hai. Theo nghiên cứu
tại Thái Lan bà mẹ sinh con từ lần thứ 4 trở lên
có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 1,33 lần bà
mẹ sinh con lần 2 hoặc lần 3, p < 0,05(3). Nguyễn
thị Diệu Trang khi nghiên cứu về các yếu tố liên
quan đến trẻ sơ sinh nhẹ cân ở đồng bào dân tộc
Ê đê tỉnh Đắk Lắk nhận thấy các bà mẹ có tiền sử
đã sinh từ 2 lần trở lên làm tăng nguy cơ sinh
con nhẹ cân lên gấp 1,16 lần tuy nhiên không

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 113


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

đến > 5 tháng. Việc nôn nghén nhiều làm ảnh
hưởng đến việc ăn uống của bà mẹ kém, giảm
hấp thu dinh dưỡng dẫn đến tăng cân ít trong
thai kỳ thậm chí còn bị giảm cân. Do đó năng

lượng cung cấp cho thai cũng bị giảm sút, ảnh
hưởng đến sự phát triển của thai, dễ dẫn đến
tình trạng suy dinh dưỡng bào thai.
Bà mẹ mắc bệnh trong 6 tháng cuối của
thai kỳ làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân
cao gấp 4,7 lần các bà mẹ khác. So với nghiên
cứu của Phạm Thị Kim Thủy và Tạ Văn Trầm
cho thấy nếu trong thời gian mang thai mà
những bà mẹ bị bệnh (Tăng huyết áp thai kỳ,
nhau tiền đạo, nhiễm khuẩn đường sinh dục,
bướu cổ) thì nguy cơ sinh non tăng gấp 9,7 lần
(p < 0,001). Theo Nem Yun-Boo khi nghiên cứu
các yếu tố nguy cơ gây sinh nhẹ cân ở người
Malaysia cũng cho kết quả tương tự, bà mẹ
mắc bệnh nhiễm khuẩn cấp tính hoặc các bệnh
mãn tính không làm tăng nguy cơ sinh trẻ nhẹ
cân. Bà mẹ có thai kỳ nguy cơ cao: tăng huyết
áp trong thai kỳ, tiền sản giật làm tăng nguy
cơ sinh con nhẹ cân.
Như vậy quả nghiên cứu của tôi phù hợp với
kết luận của tác giả trên khi phân tích các yếu tố
liên quan đến SSNC đưa ra. Đó là những bà mẹ
bị mắc bệnh trong thời gian mang thai là yếu tố
ảnh hưởng gây nên SSNC.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 117 trường hợp trẻ nhẹ cân
lúc sinh và 117 trường hợp trẻ có cân nặng từ
2500gr trở lên tại Bệnh viện Đa Khoa Tỉnh
ĐăkLăk trong thời gian từ 2/2016 – 6/2016, chúng

tôi thấy các yếu tố làm tăng khả năng sinh con
nhẹ cân bao gồm: sinh nhiều con, giới tính của
con lần này trùng với giới tình của con đã sinh,
bà mẹ nghén nhiều trong thời gian mang thai và
mắc bệnh trong 6 tháng cuối của thai kỳ. Các yếu

114

tố này không có sự tương quan với nhau. Từ
nghiên cứu này, chúng tôi đề nghị cấn phải có
những chính sách khuyến khích những phụ nữ
khi mang thai nên đi khám thai ít nhất 3 lần
trong 3 quý, để theo dõi sự phát triển của thai
đồng thời phát hiện những bất thường cho mẹ
và thai để can thiệp kịp thời. Đồng thời thực hiện
tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt là
cho đồng bào dân tộc thiểu số ít người đang sinh
sống tại Tây Nguyên, khuyến khích những cặp
vợ chồng nên sinh ít con và khoảng cách sinh
hợp lý (từ 3 – 4 năm) để có điều kiện chăm sóc
sức khỏe cho mẹ và trẻ tốt hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

4.


5.

6.

7.

8.

9.
10.

Bộ Y tế - Viện Dinh dưỡng (2012), " Chiến lược quốc gia về
dinh dưỡng giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030".
21.
Chi cục Thống kê Tỉnh ĐăkLăk (2014).
CHUMNIJARAKIJ T (1988), "Maternal risk factors for low birth
weight newborns in ThaiLand". international Development
Research Center (IDRC) Ottawa, Canada.
Đinh thị Phương Hòa (2000), "Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ
đối với trẻ thấp cân và tử vong chu sinh ở một số vùng miền
Bắc Việt Nam".
Huxley RR1 (2000), "Nausea and vomiting in early pregnancy:
its role in placental development.". PubMed: Obstet Gynecol.,
95(5), 779-782.
Nguyễn Đỗ Huy, Lê Thị Hợp, Lê Danh Tuyên & Nguyễn Đức
Vinh (2010), "Tình hình cân nặng sơ sinh và một số vấn đề liên
quan ở Việt Nam hiện nay". Tạp chí Y học thực hành, 5, 88.
Nguyễn Thị Diệu Trang (2015), "Tỷ lệ trẻ nhẹ cân lúc sinh và
các yếu tố liên quan ở người dân tộc Ê Đê tại Bệnh viên Đa
khoa Tỉnh Đắk Lắk ". Đại học Y dược TP. Hồ Chí Mình - Luận

văn Thạc sỹ chuyên ngành Sản Khoa.
Trần Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Từ Vân & Nguyễn Quang
Vinh (2009), "Tỉ lệ trẻ sinh nhẹ cân và các yếu tố liên quan ở
huyện củ chi từ 09/2007 đến 2/2008". Tạp chí Y học TP. Hồ Chí
Minh, 13(1), 1-5.
Vũ Ngọc Ruẩn (2005), "Dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai".
Nhà xuất bản đại học quốc gia TP. HCM 329-346.
WHO/UNICEF (2011), "State of the World's Children".

Ngày nhận bài báo:

19/01/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

18/02/2017

Ngày bài báo được đăng:

20/04/2017

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt



×