Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát chức năng nội mô mạch máu bằng kỹ thuật Endopat ở bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.8 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT CHỨC NĂNG NỘI MÔ MẠCH MÁU BẰNG KỸ THUẬT
EndoPAT Ở BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
Nguyễn Hồ Hồng Hạnh*, Sophie Yacoub**, Đông Thị Hoài Tâm***, Du Trọng Đức****

TÓM TẮT
Mở đầu: Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD) hiện nay vẫn còn đang tăng cao trên toàn thế giới.
Rối loạn chức năng nội mô mạch máu là cơ sở gây ra các diễn tiến nặng của bệnh như sốc, xuất huyết nặng,..
Tuy nhiên, vẫn chưa có công cụ đánh giá vấn đề chức năng nội mô mạch máu trên lâm sàng, để có thể tiên luợng
sớm những thay đổi này. Kỹ thuật EndoPAT, sử dụng ở những bệnh lý có tổn thương về tính thấm thành mạch,
có thể là một dụng cụ áp dụng cho SXHD hay không?
Mục tiêu: Khảo sát chức năng nội mô mạch máu bằng kỹ thuật EndoPAT ở bệnh nhân SXHD.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Tuyển chọn nhóm bệnh nhân ≥10 tuổi có sốt ≤72h nghi ngờ
bị bệnh SXHD đến khám và theo dõi tại phòng khám ngoại trú và nhóm bệnh nhân ≥10 tuổi được chẩn đoán là
SXHD có dấu hiệu nặng được đưa vào điều trị tại các khoa hồi sức tích cực của bệnh viện Bệnh Nhiệt đới
TP.HCM từ đầu tháng 9/2014 đến hết tháng 1/2015. Các bệnh nhân được theo dõi lâm sàng hằng ngày. Đánh
giá chức năng nội mô mạch máu bằng kỹ thuật EndoPAT thông qua chỉ số RHI được thực hiện tại các thời điểm:
vào nghiên cứu, nhập viện, xuất viện và tái khám.
Kết quả: Có 62 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, trong đó có 49 ca được xác định là SXHD (79%) và 13 ca
sốt cấp tính do nguyên nhân khác (OFI) (21%). Trong giai đoạn nguy hiểm của bệnh, trung vị RHI đo được là
1,48 (1,17-1,89) và trị số càng thấp thì bệnh càng nặng. RHI cũng có khuynh hướng thấp ở những ca có bằng
chứng thoát huyết tương. Ngoài ra, chỉ số RHI có tương quan thuận với số lượng tiểu cầu và nồng độ albumin
máu. Giá trị RHI ở trẻ em thấp hơn so với người lớn.
Kết luận: Đây là một nghiên cứu nhỏ, bước đầu cho thấy có thể sử dụng kỹ thuật endoPAT để đánh giá rối
loạn chức năng nội mô mạch máu liên quan đến mức độ nặng của bệnh SXHD.
Từ khóa: Sốt xuất huyết Dengue, EndoPAT, chức năng nội mô mạch máu.

ABSTRACT


ASSESSMENT OF VASCULAR ENDOTHELIAL FUNCTION BY ENDOPAT IN DENGUE PATIENTS
Nguyen Ho Hong Hanh, Sophie Yacoub, Dong Thi Hoai Tam, Du Trong Duc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 51- 57
Background: The incidence of Dengue infection is still rising worldwide. The endothelial dysfunction,
considered as a pathophysiological basis, result in severe progression such as shock or severe bleeding… However,
there was no tool to assess this vascular endothelial function in clinical to have an early prognosis of these
changes. The EndoPAT technique used in diseases with damage of vascular permeability can be a tool applied to
Dengue disease or not?
Objectives: To assess of the vascular endothelial function by EndoPAT in Dengue patients.
Methods: A case series study. Participants criteria: patients ≥10 years old with fever ≤72h at the outpatient
department suspected as Dengue infection and patients ≥10 years old diagnosed as severe Dengue admitted to the
* Khoa Y, Đại học Quốc Gia Tp.HCM
**Imperial College London, London
*** Đại học Y Dược TP. HCM,
**** Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hồ Hồng Hạnh ĐT: 0938983011 Email:

Bệnh Nhiễm

51


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017

intensive care unit of the Tropical Diseases Hospital. The patients were clinically monitored daily. Assess the
endothelial function by EndoPAT was done at enrolment, on admission, at discharge and follow-up. RHI
(Reactive Hyperemia Index) was automatically calculated and was the measure of vascular endothelial function.
The study was conducted from September 2014 to January 2015.

Results: 62 cases were recruited. 49 patients were confirmed dengue infection (79%) and 13 patients were
diagnosed as other febrile illness (OFI) (21%). In the critical phase, the median RHI was 1.48 (1.17-1.89) and
more the value was low, more the clinical presentation was severe. RHI tended to be low in cases with evidence of
plasma leakage. In addition, RHI was correlated with platelet count and serum albumin levels. Value of RHI was
lower in children than in adults.
Conclusion: Whether the study was small, our preliminary results suggested that endoPAT can be used to
assess that vascular endothelial dysfunction related to the severity of Dengue infection.
Key word: Dengue infection, EndoPAT, vascular endothelial function
Chí Minh (BVBNĐ) từ đầu tháng 9/2014 đến hết
ĐẶT VẤN ĐỀ
tháng 1/2015.
Một thách thức quan trọng trong chăm sóc
Đối tượng nghiên cứu
lâm sàng bệnh SXHD là xác định được ca bệnh
Bệnh nhân ≥10 tuổi có sốt ≤72h nghi ngờ bị
có nguy cơ diễn tiến nặng. Gần đây, các nhà
bệnh
SXHD đến khám và theo dõi tại PKNT;
khoa học đã nhận thấy vai trò trung tâm của tế
hoặc bệnh nhân ≥10 tuổi được chẩn đoán là
bào nội mô mạch máu nguyên nhân chính gây
SXHD có dấu hiệu nặng được đưa vào điều trị
ra hai biểu hiện nặng của bệnh là thất thoát
tại các khoa HSTC.
huyết tương và rối loạn đông máu. EndoPAT là
một kỹ thuật đánh giá chức năng nội mô thành
Tiêu chuẩn loại trừ
mạch thông qua chỉ số RHI (Reactive Hyperemia
Bệnh nhân có các dấu hiệu lâm sàng gợi ý
Index) với ưu điểm là không xâm lấn, hệ thống

nhiễm trùng khác gây sốt (viêm phổi, nhiễm
tự động hóa, có thể thực hiện được tại giường
trùng tiểu, nhiễm trùng da…);
bệnh. Nhiều nghiên cứu bước đầu cho thấy chỉ
Bệnh nhân có biểu hiện sốc trên lâm sàng
số RHI giúp phát hiện sớm sự suy giảm chức
nhập khoa HSTC nhưng nguyên nhân không do
năng nội mô mạch máu trước khi có biểu hiện
SXHD (dựa vào chẩn đoán của bác sĩ điều trị)
lâm sàng và có tương quan với độ nặng của một
Các bước thu thập số liệu:
số bệnh truyền nhiễm như nhiễm trùng huyết,
sốt rét. Vì vậy, nghiên cứu này thực hiện nhằm
(1) Tại PKNT và hai khoa HSTC: chọn các
khảo sát sự thay đổi chỉ số RHI trong bệnh lý
bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn.
SXHD, từ đó hy vọng tìm thấy một chỉ điểm hữu
(2) Tư vấn và cho ký phiếu đồng thuận.
ích trong vấn đề tiên đoán bệnh nặng nếu bệnh
(3) Khám và theo dõi bệnh nhân hằng
nhân đến với chúng ta trong giai đoạn sớm.
ngày, đo EndoPAT ở các thời điểm: (a) ngày

ĐỐITƯỢNGPHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Phòng khám ngoại trú (PKNT), Khoa cấp
cứu hồi sức tích cực chống độc người lớn và

khoa cấp cứu hồi sức tích cực chống độc trẻ em
(HSTC) của Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP. Hồ

52

vào nghiên cứu (b) ngày nhập viện – đối với
bệnh nhân khám tại PKNT (c) ngày ngưng
theo dõi tại PK hoặc ngày 6 của nghiên cứu
hoặc ngày xuất viện (d) ngày tái khám (ngày
16-20 của bệnh).
(4) Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS
22.0 và Stata SE 12.

Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Các biến số dùng trong nghiên cứu

PKNT và 18 ca nhận từ khoa HSTC. Có 49 ca

Biến số nền: tuổi, giới tính, tình trạng dinh
dưỡng, cơ địa và các bệnh nền kèm theo.

được xác định là SXHD (79%) và 13 ca OFI

Biến số về chẩn đoán nhóm bệnh lâm sàng:

SXHD và sốt cấp tính do nguyên nhân
khác (OFI).

định nhập viện sau đó. Những ca này không có

Biến số về bệnh SXHD: mức độ nặng của
bệnh theo tiêu chuẩn WHO 2009, mức độ thoát
huyết tương, các chỉ số cận lâm sàng.
Biến số về đánh giá chức năng nội mô mạch
máu: chỉ số RHI. Số liệu RHI được mô tả theo
giai đoạn bệnh (N1-3, N4-7, N8-12, tái khám).

Phương pháp đo EndoPAT
Tất cả bệnh nhân tham gia được đo tìm chỉ
số RHI bằng thiết bị EndoPAT (version 3.2.4, của
nhà sản xuất Itamar Medical, Israel) theo những
thời điểm như đã trình bày, riêng đối với bệnh
nhân trong tình trạng sốc sẽ được đo EndoPAT
sau khi được chống sốc và có tình trạng sinh
hiệu ổn định ít nhất 2 giờ); số lượng tiểu cầu gần
nhất tại thời điểm đo EndoPAT phải ≥20.000/ul.

Quá trình đo
Đầu dò được gắn vào ngón tay của cả hai tay
bệnh nhân. Sóng ghi nhận lưu lượng dòng máu
hiển thị trên màn hình máy tính. 5 phút đầu tiên
là đường biểu diễn cơ sở, tiếp theo bơm phồng
bao đo huyết áp (gắn ở cánh tay) đến áp lực =
200mmHg để làm tắc nghẽn động mạch cánh
tay trong 5 phút. Sau đó, xả nhanh bao đo huyết

áp để giải phóng động mạch, ghi nhận biên độ
sóng xung thêm 5 phút. Chỉ số RHI được tính
toán bằng phần mềm máy tính, là thước đo chức
năng nội mô thành mạch. Hiện tại vẫn chưa có
giá trị tham khảo chính thức cho chỉ số RHI, tuy
nhiên giá trị đưa ra của nhà sản xuất là RHI
<1,67 được xem như có rối loạn chức năng nội
mô dựa trên một số nghiên cứu EndoPAT trong
bệnh tim mạch ở người lớn(2).

KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Chúng tôi thu nhận được 62 trường hợp thỏa
tiêu chuẩn nghiên cứu, trong đó 44 ca nhận từ

Bệnh Nhiễm

(21%). Có 13 bệnh nhân khám ngoại trú có chỉ
ca nào tiến triển thành SXHD nặng và cần phải
truyền dịch.
Bảng 1. Đặc điểm dân số và lâm sàng ở nhóm bệnh
nhân SXHD và nhóm bệnh nhân OFI
SXHD
OFI (N= 13)
(N=49)
n (%)
n (%)
<16 tuổi
18 (36,7)
4 (30,8)

Nhóm tuổi
≥16 tuổi
31 (63,3)
9 (69,2)
23
(14 –
*
Tuổi trung vị
19 (13 – 27)
38,5)
Giới tính: Nam
29 (59,2)
8 (61,5)
Nơi cư ngụ: TPHCM
42 (85,7) 11 (84,6)
Có hút thuốc lá
3 (6,1)
2 (15,4)
Nhẹ cân
7 (14,3)
2 (15,4)
Bình thường 17 (34,7)
4 (30,8)
Tình trạng dinh Thừa
25 (51)
7 (53,8)
dưỡng
cân/Béo phì
* 21,7 (19,5- 23,5(20,8BMI trung vị
24,1)

26,8)
Sốt tại thời điểm vào NC
23 (46,9) 10 (76,9)
0
Sốt ≥39 C
7 (30,4)
3 (30)
Tử ban điểm
31 (63,3)
1 (7,7)
Nôn ói
23 (46,9)
4 (30,7)
Đau bụng
8 (16,3)
0
Gan to
13 (26,5)
0
TDMP ± TDMB
8 (16,3)
0
Xuất huyết niêm mạc
27 (55,1)
1 (7,7)
Bầm máu chỗ chích 21 (77,7)
0
Chảy máu mũi
2 (7,4)
0

Chảy máu chân răng
5 (18,5)
1 (100)
Xuất huyết âm đạo
4 (14,8)
0

Các thay đổi của RHI trong bệnh SXHD
Bảng 2. Diễn tiến RHI theo ngày bệnh trong nhóm
bệnh nhân SXH Dengue và OFI
n
N1-3 n=31
N4-7 n=44
N8-12 n=28
Tái khám n=40

SXHD
OFI
1,73 (1,22-2,19) n=13 1,6 (1,26-2,51)
1,48 (1,17-1,89) n=12 1,55 (1,19-2,21)
2,05 (1,36-2,46)
1,59 (1,30-1,84) n=10 1,65 (1,37-2,17)

*

p
0,80
0,45
0,48


Trị số RHI thấp nhất ở N4-7 và RHI không
khác biệt giữa hai nhóm SXHD và OFI qua các
giai đoạn bệnh và khi tái khám.

53


Nghiên cứu Y học
Thayđổi RHI theo nhóm tuổi của bệnh nhân

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
càng nặng (p=0,02).

Biểu đồ 1. So sánh chỉ số RHI ở nhóm bệnh nhân
SXHD theo nhóm tuổi
Ngoại trừ giai đoạn N1-3 của bệnh, RHI ở
nhóm < 16 tuổi luôn thấp hơn có ý nghĩa thống
kê (p<0,01).

RHI và độ nặng của bệnh SXHD (theo tiêu
chuẩn phân loại của WHO 2009)
Có 17 ca được phân loại SXHD (34,7%), 19 ca
SXHD có dấu hiệu cảnh báo (38,8%) và 13 ca
SXHD nặng (26,5%). Trong 13 ca SXHD nặng, có
12 ca sốc và chỉ có 1 ca tăng men gan >1000 UI.

Biểu đồ 3. RHI thay đổi theo thời gian từng nhóm độ
nặng của bệnh SXH
Đối với nhóm SXHD có dấu hiệu cảnh báo,
RHI đo ở N4-7 thấp hơn so với khi tái khám

(p=0,01). Ngược lại, RHI ở N8-12 lại cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với N4-7 (p=0,005) và khi tái
khám (p=0,03).

RHI và sự thoát huyết tương
Bảng 3. RHI ở nhóm bệnh nhân có và không có bằng
chứng thoát huyết tương

RHI N1-3
RHI N4-7

Bằng chứng thoát huyết tương

Không
1,44 (1,29-1,44)
1,64 (1,18-2,26)
n=2
n=24
1,19 (0,93-1,70)
1,52 (1,24-1,92)
n=16
n=24

*

p
-

0,03


Theo tiêu chuẩn bằng chứng thoát huyết
tương đã định nghĩa (sốc hoặc cô đặc máu
≥20% hoặc có thoát dịch trên hình ảnh học), có
16 trường hợp (37,5%) trong nhóm SXHD thỏa
điều kiện.

Biểu đồ 2. So sánh RHI theo phân độ nặng của bệnh
SXHD
Trong giai đoạn N4-7 của bệnh, RHI ở nhóm
nặng thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
SXHD đơn thuần (p=0,02, test Mann-Whitney).
Khi kiểm định xu hướng thay đổi của RHI theo
độ nặng của bệnh, chỉ số RHI càng giảm thì bệnh

54

Bảng 4. Độ nhạy và độ đặc hiệu theo ngưỡng cắt
RHI dùng để phân biệt bệnh nhân có hoặc không có
thoát huyết tương
Giá trị RHI
1,23
1,31
1,43
1,52
1,68

Độ nhạy
62,5%
62,5%
68,8%

75%
75%

Độ đặc hiệu
83%
62,5%
58%
50%
37,5%

Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

Biểu đồ 4. Đường cong ROC phân biệt nhóm SXHD
có và không có thoát huyết tương
Chỉ số RHI vào N4-7 của bệnh có thể phân
biệt được những bệnh nhân có thoát huyết
tương hay không với độ chính xác trung bình
(diện tích dưới đường cong =0,7).

RHI và các chỉ số cận lâm sàng
Bảng 5. Mối tương quan giữa RHI (N4-7) và các chỉ
số cận lâm sàng ở BN SXHD
n
DTHC cao nhất (%)
3
Tiểu cầu thấp nhất (10 /ul)
AST cao nhất (U/L)

Albumin thấp nhất (g/l)
Creatine kinase (U/L)

44
39
41
43
42

Hệ số
tương
*
quan r
0,18
0,34
-0,18
0,42
-0,01

p
0,23
0,03
0,25
0,005
0,90

RHI tương quan thuận với albumin máu và
số lượng tiểu cầu. Sự tương quan này ở mức độ
trung bình. Không có mối tương quan giữa RHI
và các chỉ số xét nghiệm khác.


BÀN LUẬN
Chỉ số RHI trong bệnh SXHD
Chỉ số RHI đo được ở các bệnh nhân khác
nhau theo ngày bệnh (Bảng 2). Ở các giai đoạn
tương ứng theo diễn biến tự nhiên của bệnh
SXH Dengue là N1-3, N4-7, N8-12 và thời điểm
tái khám, trung vị của chỉ số RHI đo được lần
lượt là 1,73; 1,48; 2,05 và 1,59.

Chỉ số RHI theo tuổi
Đối với các đặc điểm nền của bệnh nhân,
chúng tôi không tìm thấy có sự thay đổi đáng kể
của chỉ số RHI theo giới tính và theo tình trạng

Bệnh Nhiễm

Nghiên cứu Y học

dinh dưỡng. Riêng đặc điểm về lứa tuổi, ngoại
trừ giai đoạn N1-3, còn lại các giai đoạn khác của
bệnh và lúc tái khám, RHI ở nhóm bệnh nhân
<16 tuổi luôn thấp hơn nhóm ≥16 tuổi (p<0,01)
(Biểu đồ 1). Một số tác giả cũng nhận thấy rằng
những người trẻ tuổi thường có chỉ số RHI thấp
hơn so với người lớn tuổi(1,Error! Reference source not
found.). Nguyên nhân có thể là do chức năng vi
mạch máu ở trẻ em chưa hoàn thiện cho đến tuổi
trưởng thành. Một số chuyên gia đã đề xuất
RHI=1,35 là giá trị xác định rối loạn chức năng

nội mô ở người lớn có nguy cơ bệnh tim mạch(2).
Trong khi giá trị RHI trung bình của trẻ em và
thanh thiếu niên khỏe mạnh trong nghiên cứu
của Kelly là 1,26±0,45(4). Vì vậy, chúng tôi nghĩ
rằng giá trị RHI khác nhau thật sự giữa trẻ em và
người lớn, kể cả trong điều kiện sinh lý bình
thường cũng như trong bệnh SXHD. Cần có
nhiều nghiên cứu hơn về chỉ số RHI ở trẻ em để
xác định một ngưỡng cắt thích hợp đánh giá
chức năng nội mô ở đối tượng này.

Chỉ số RHI theo từng giai đọan bệnh
Chỉ có trong giai đoạn N4-7, RHI mới có sự
thay đổi rõ rệt giữa các nhóm bệnh. Ở nhóm
SXHD đơn thuần, trung vị RHI là 1,62 (1,292,31); ở nhóm SXHD có dấu hiệu cảnh báo, trung
vị RHI là 1,53 (1,1-1,8); và ở nhóm SXHD nặng,
trung vị RHI là 1,2 (0,95 -1,72). Điều đó cho thấy
chỉ số RHI giảm dần theo độ nặng và sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (Biểu đồ 2). Kết quả
này của chúng tôi trái ngược với kết quả của một
nghiên cứu tương tự tại Singapore thực hiện
năm 2011. Ở đây các tác giả thấy rằng RHI tại
thời điểm vào nghiên cứu ở nhóm sốt Dengue
cao hơn so với nhóm SXHD và nhóm OFI (phân
loại theo tiêu chuẩn WHO 1997)(5). Tuy nhiên, họ
đã không phân tích RHI tương ứng theo các giai
đoạn trong diễn tiến tự nhiên của bệnh SXHD.
Theo y văn ghi nhận, quá trình tăng tính thấm
thành mạch hoặc rò rỉ huyết tương diễn tiến theo
ngày, trong giai đoạn nguy hiểm (N4-7) sẽ có

thay đổi rõ rệt hơn so với giai đoạn sớm của
bệnh (N1-3)(6). Do đó chỉ số RHI cũng có thể sẽ
khác biệt ở hai giai đoạn này của bệnh. Đây cũng

55


Nghiên cứu Y học
là nhận xét của tác giả Yacoub năm 2015, khi
thấy trung vị RHI thấp nhất ở nhóm bệnh SXH
Dengue nặng 1,54 (1,36-1,77), tiếp theo là nhóm
có dấu hiệu cảnh báo 1,78 (1,43-2,36) và cao nhất
ở nhóm SXH Dengue đơn thuần 2,18 (1,652,24)(7). Bên cạnh đó, các nghiên cứu về bệnh
nhiễm trùng huyết và sốt rét do Plasmodium
falciparum – là những bệnh được cho là có rối
loạn chức năng nội mô trong cơ chế bệnh
sinh,cũng cho thấy kết quả RHI tương quan với
mức độ nặng của bệnh: RHI càng giảm thấp khi
bệnh càng nặng(3,8).
Ở giai đoạn sớm của bệnh (N1-3), RHI ở
nhóm SXHD đơn thuần cao hơn so với nhóm
SXHD có dấu hiệu cảnh báo, nhưng không
khác biệt thống kê, khả năng do cỡ mẫu nhỏ.
Khi chỉ so sánh riêng hai nhóm SXHD và
SXHD nặng thì thấy rằng RHI ở nhóm nặng
thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm nhẹ (p=0,02).
Một điều đặc biệt ghi nhận được là RHI ở giai
đoạn hồi phục (N8-12) cao nhất trong quá
trình bệnh với trung vị là 2,14 (1,47-2,98) và
cao hơn có ý nghĩa so với lúc tái khám với

trung vị 1,61 (1,12-2,01) với p=0,03. Chúng tôi
giả thuyết rằng có thể đây là giai đoạn tái hấp
thu, chức năng nội mô chưa thật sự trở về bình
thường như ở giai đoạn tái khám (N16-20).
Tuy nhiên, theo tìm hiểu trong y văn, hiện tại
chưa thấy tác giả nào khác nhận định về
vấn đề này.
Khi so sánh giữa hai nhóm có và không có
bằng chứng thoát huyết tương, nhận thấy trong
giai đoạn N4-7, RHI ở nhóm có bằng chứng
thoát huyết tương thấp hơn đáng kể so với
nhóm không có bằng chứng (p=0,03) (Bảng 3).
Trong số liệu tại Hà Nội của tác giả Yacoub, với
cỡ mẫu lớn hơn (121 bệnh nhân), cho thấy trong
vòng 72h đầu, những bệnh nhân có thoát huyết
tương có RHI thấp hơn có ý nghĩa so với những
ca không có bằng chứng(7). Những kết quả trên
cho thấy một cái nhìn lạc quan hơn về RHI với
vai trò như một công cụ tiên đoán bệnh nặng
trong SXHD. Tuy nhiên, khi phân tích sâu hơn
giữa hai nhóm có sốc và không sốc - một thể lâm

56

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
sàng nặng thường gặp, kết quả cho thấy trung vị
của chỉ số RHI ở nhóm có sốc là 1,2 (0,95-1,72)
thấp hơn so với nhóm không sốc, trung vị là 1,57
(1,24-1,96) nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê. Điều này có thể do cỡ mẫu

còn khá nhỏ.

Tương quan giữa RHI với tình trạng thoát
huyết tương
Từ những kết quả trên, có thể thấy RHI vào
N4-7 có thể phân biệt được những bệnh nhân có
thoát huyết tương hay không với độ chính xác
trung bình (AUC=0,7) (Biểu đồ 4). Độ nhạy và độ
đặc hiệu thay đổi tùy theo ngưỡng cắt của chỉ số
RHI, phụ thuộc nhiều vào mục đích chẩn đoán
và đối tượng bệnh nhân (tuổi, chủng tộc, bệnh
lý…) chúng tôi đề xuất các giá trị RHI có thể
phân biệt được có và không có thoát huyết
tương trong bệnh SXHD: nếu muốn hướng tới
độ đặc hiệu cao, chọn RHI=1,23 với độ nhạy và
độ đặc hiệu lần lượt là 62,5% và 83%; nếu muốn
tăng độ nhạy lên cao để sàng lọc, có thể chọn
RHI=1,43 với độ nhạy 68,8% và độ đặc hiệu là
58% (Bảng 4).

Mối tương quan giữa RHI và các trị số cận
lâm sàng khác
Các chỉ số cận lâm sàng thay đổi theo diễn
tiến của bệnh (thường đặc hiệu vào giai đoạn
nguy hiểm của bệnh). Chúng tôi chọn các trị số
xấu nhất trong những ngày diễn tiến bệnh
(dung tích hồng cầu cao, tiểu cầu thấp,
albumin thấp, creatine kinase cao và men AST
cao) để tìm mối tương quan với chỉ số RHI
(giai đoạn N4-7). Kết quả cho thấy RHI có

tương quan thuận với albumin máu và số
lượng tiểu cầu. Sự tương quan này ở mức độ
trung bình (đối với albumin: r=0,42; p=0,005;
đối với tiểu cầu: r=0,34; p=0,03) (Bảng 5). Điều
này cung cấp thêm bằng chứng RHI có liên
quan đến mức độ thất thoát huyết tương và
phản ánh được chức năng nội mô mạch máu
trong SXHD. Nhưng chúng tôi không tìm thấy
mối tương quan với dung tích hồng cầu
(p=0,23). Có thể do RHI ở nhóm có sốc (thời

Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

điểm DTHC cao nhất) được đo ở thời điểm sau
khi truyền dịch và sốc đã ổn định (thời điểm
DTHC đã giảm hơn) nên không tìm được mối
liên quan.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

So sánh RHI ở bệnh nhân SXHD và OFI

2.

Để trả lời cho câu hỏi chỉ số RHI có giúp các

nhà lâm sàng nhận diện được một ca SXHD hay
không khi gặp một trường hợp sốt cấp tính đến
khám bệnh, chúng tôi so sánh RHI giữa hai
nhóm SXHD và OFI. Ở mỗi giai đoạn bệnh,
chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt giữa RHI
của hai nhóm (Bảng 2). Kết quả này có thể cũng
do số lượng ca bệnh OFI trong khảo sát của
chúng tôi còn ít, và chưa đại diện cho các lọai
bệnh lý nhiễm trùng cấp.

KẾT LUẬN

1.

3.

4.

5.

6.

Đây là một nghiên cứu nhỏ giúp chúng tôi
có cái nhìn sơ khởi về chức năng nội mô của

7.

bệnh nhân SXHD thông qua những thay đổi của
chỉ số RHI. Giá trị RHI ở trẻ em thường thấp hơn


8.

so với người lớn. Trong giai đoạn nguy hiểm của
bệnh (N4-7), chỉ số RHI thấp tương quan với độ
nặng của bệnh, ở những ca có bằng chứng thoát
huyết tươngvới độ chính xác trung bình
(AUC=0,7). Chỉ số RHI có tương quan thuận với
số lượng tiểu cầu và nồng độ albumin máu ở
mức độ trung bình.

Bệnh Nhiễm

9.

Bhangoo A, Sinha S, Rosenbaum M, Shelov S, Ten S(2011),
"Endothelial Function as Measured by Peripheral Arterial
Tonometry Increases during Pubertal Advancement".Hormone
Research in Pædiatrics,76(4), pp. 226-233.
Bonetti PO, Pumper GM, Higano ST, Holmes DR Jr, Kuvin
JT, Lerman A(2004), "Noninvasive identification of patients
with early coronary atherosclerosis by assessment of digital
reactive hyperemia".Journal of the American College of
Cardiology,44(11), pp. 2137-2141.
Davis JS, Yeo TW, Thomas JH, McMillan M, Darcy CJ, et al
(2009), "Sepsis-associated microvascular dysfunction measured
by peripheral arterial tonometry: an observational study".Crit
Care,13(5), pp. R155.
Kelly AS, Marlatt KL, Steinberger J,Dengel DR (2014),
"Younger Age is Associated with Lower Reactive Hyperemic
Index but not Lower Flow-Mediated Dilation among Children

and Adolescents".Atherosclerosis,234(2), pp. 410-414.
Radtke T, Khattab K, Eser P, Kriemler S, Saner H, et al (2012),
"Puberty and microvascular function in healthy children and
adolescents".J Pediatr,161(5), pp. 887-91.
Thein TL, Wong J, Leo YS, Ooi EE, Lye D, Yeo TW(2015),
"Increased Vascular Nitric Oxide Bioavailability is Associated
with Progression to Dengue Hemorrhagic Fever in
Adults".Journal of Infectious Diseases.
WHO (2009), "Dengue: Guideline for Diagnosis, Treatment
Prevention and Control".
Yacoub S, Wertheim H, Simmons CP, Screaton G,Wills B
(2015), "Microvascular and endothelial function for risk
prediction in dengue: an observational study".Lancet,385 Suppl
1, pp. S102.
Yeo TW, Lampah DA, Gitawati R, Tjitra E, Kenangalem E, et al
(2007), "Impaired nitric oxide bioavailability and l-arginine–
reversible endothelial dysfunction in adults with falciparum
malaria".The Journal of Experimental Medicine,204(11), pp. 26932704.

Ngày nhận bài báo:

29/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

21/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017


57



×