Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát mối liên quan giữa tuân thủ dùng thuốc và hiệu quả điều trị ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại phòng khám Nội tiết - Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.6 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA TUÂN THỦ DÙNG THUỐC
VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2
TẠI PHÒNG KHÁM NỘI TIẾT - BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Dương Chí Hồng*, Quách Diệu Ái*, Nguyễn Thị Mai Hoàng*

TÓMTẮT
Mở đầu: Tuân thủ điều trị giữ vai trò quan trọng trong điều trị các bệnh mạn tính cũng như đái tháo
đường (ĐTĐ).
Mục tiêu: Khảo sát tình hình tuân thủ dùng thuốc điều trị ĐTĐ type 2 tại phòng khám Nội tiết - Bệnh
viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (BV ĐHYD), mối liên quan giữa tuân thủ dùng thuốc với hiệu quả
điều trị và xác định các yếu tố liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân (BN).
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn trực tiếp 250 BN
ĐTĐ type 2 từ 18 tuổi trở lên, sử dụng thuốc ĐTĐ đường uống ≥ 6 tháng và có giá trị HbA1c trong vòng 6
tháng gần nhất. Tuân thủ dùng thuốc được đánh giá dựa trên bộ câu hỏi MMAS-8.
Kết quả: Có 67,6% BN tuân thủ dùng thuốc (19,6% tuân thủ tốt và 48,0% tuân thủ trung bình). Các
yếu tố ảnh hưởng tuân thủ gồm tuổi (p = 0,002), số lần dùng thuốc trong ngày (p < 0,001) và chế độ điều
trị phức tạp (p = 0,002). Nghiên cứu ghi nhận mối tương quan yếu (rho = -0,285; p < 0,001) giữa tuân thủ
dùng thuốc và giá trị HbA1c của BN.
Kết luận: Mức độ tuân thủ dùng thuốc của BN ĐTĐ type 2 tại phòng khám Nội tiết – BV ĐHYD ở
mức trung bình. Kết quả nghiên cứu gợi ý cần đơn giản hóa chế độ dùng thuốc (ít thuốc, ít lần sử dụng
trong ngày) hơn nữa nhằm cải thiện tuân thủ của bệnh nhân.
Từ khóa: Tuân thủ dùng thuốc, đái tháo đường type 2, hiệu quả điều trị, yếu tố liên quan

ABSTRACT
INVESTIGATION ON RELATIONSHIP BETWEEN MEDICATION ADHERENCE AND
TREATMENT OUTCOMES IN TYPE 2 DIABETIC PATIENTS


AT THE ENDOCRINOLOGY CLINIC OF THE UNIVERSITY MEDICAL CENTER
AT HO CHI MINH CITY
Duong Chi Hong, Quach Dieu Ai, Nguyen Thi Mai Hoang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 221-226
Background/ Objectives: Medication adherence plays an important role in the treatment of chronic
dieseases as diabetes. This study aims to investigate medication adherence of patients with type 2 diabetes
(DT2) at the Endocrinology Clinic of the University Medical Center at Ho Chi Minh City, the relationship
between medication adherence and treatment outcomes and to determine factors associated with medication
adherence in diabetic patients.
Method: There were 250 DT2 patients included in this cross-sectional study. These patients were
18 years-old or older, using oral hypoglycemiants for at least 6 months and having at least 1 value of
*

Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Mai Hoàng
ĐT: 0356599822

Chuyên Đề Dược

Email:

221


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

HbA1c during 6 months prior to commencement of study. Patients were interviewed using MMAS-8
questionnaire to evalulate medication adherence.

Results: Among 67.6% of patients who were considered medication adherence, the rate of good and moderate
adherence were 19.6% and 48.0%, respectively. Medication adherence were associated with patients’ age (p =
0.002), number of doses per day (p < 0.001) and complexity of medication regimen (p = 0.002). There was a weak
correlation (rho = -0.285, p < 0.001) between medication adherence and patients’ HbA1c.
Conclusions: Medication adherence rate at the Endocrinology Clinic of University Medical Center at
Ho Chi Minh City is moderate. The results suggest that efforts should be made to simplify the therapeutic
regimen (fewer drugs, fewer daily frequency of drug use) to improve patients’ adherence.
Key words: Medication adherence, type 2 diabetes, treatment outcomes, associated factors.
đặc điểm BN (tên, tuổi, giới tính, trình độ học vấn,
ĐẶTVẤNĐỀ
nghề nghiệp, thời gian mắc bệnh, bệnh kèm), đặc
Đái tháo đường (ĐTĐ) type 2 là một trong
điểm điều trị (thuốc, liều, cách dùng, các kết quả
các bệnh mạn tính phổ biến nhất trên thế giới.
xét nghiệm đường huyết và HbA1c) và tuân thủ
Việc điều trị kéo dài và tốn kém gây ra thách
dùng thuốc. Bộ câu hỏi Morisky 8 câu (MMAS-8)
thức lớn đối với vấn đề tuân thủ dùng thuốc ở
được sử dụng để đánh giá tuân thủ dùng thuốc.
bệnh nhân (BN)(8). Việc nhận diện các BN gặp
BN được xem là tuân thủ điều trị khi đạt từ 6
khó khăn trong việc tuân thủ dùng thuốc điều trị
điểm trở lên. Trong đó, BN tuân thủ tốt khi đạt 8
cũng như các yếu tố góp phần cản trở tuân thủ
điểm và tuân thủ trung bình khi đạt 6 – 7 điểm(11).
sẽ giúp bác sĩ có chiến lược thích hợp nhằm gia
Hiệu quả điều trị được đánh giá dựa vào khuyến
tăng tuân thủ cũng như cải thiện hiệu quả điều
cáo của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA)
trị. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm

2018. Cụ thể, BN được xem là kiểm soát được
khảo sát mức độ tuân thủ dùng thuốc điều trị
đường huyết và HbA1c khi đường huyết đói trong
ĐTĐ, mối tương quan giữa tuân thủ dùng thuốc
khoảng 80 – 130 mg/dL và HbA1c < 7%(1). Số
với hiệu quả điều trị cũng như xác định các yếu
liệu nghiên cứu được trình bày dưới dạng tần
tố liên quan đến tuân thủ dùng thuốc trên các
suất và tỷ lệ % với các biến phân loại, số trung
BN ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú tại phòng
bình ± độ lệch chuẩn (giá trị nhỏ nhất – giá trị
khám Nội tiết - Bệnh viện Đại học Y Dược TP.Hồ
lớn nhất) với các biến liên tục tuân theo phân
Chí Minh (BV ĐHYD).
phối chuẩn và số trung vị (tứ phân vị thứ 2; tứ
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
phân vị thứ 3) với các biến liên tục không theo
phân phối chuẩn. Phép kiểm Chi bình phương
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành
được sử dụng để so sánh các tỷ lệ. Để so sánh
từ 15-5 đến 15-6-2018 tại phòng khám Nội tiết –
2 số trung bình, phép kiểm Student t-test được
BV ĐHYD. Tiêu chuẩn chọn mẫu là tất cả BN đến
sử dụng nếu các biến liên tục tuân theo phân
phòng khám Nội tiết trong thời gian nghiên cứu,
phối chuẩn và phép kiểm Mann-Whitney
có tuổi từ 18 trở lên, được chẩn đoán ĐTĐ type 2
được sử dụng khi các biến liên tục không tuân
và đang điều trị bằng các thuốc hạ đường huyết
theo phân phối chuẩn. Mối liên quan giữa 2

đường uống trong ít nhất 6 tháng với ít nhất 1 giá
biến được xác định dựa vào hệ số tương quan
trị HbA1c được ghi nhận trong vòng 6 tháng trước
Spearman (rho) và hồi quy logistic đa biến
nghiên cứu. Các BN được chọn để phỏng vấn trực
được dùng để xác định các yếu tố liên quan
tiếp bằng phương pháp lấy mẫu thuận tiện với
đến tuân thủ dùng thuốc. Các phép kiểm
bảng câu hỏi được thiết kế sẵn gồm các câu hỏi về

222

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS
22.0 với độ tin cậy 95%.

huyết đường uống và 225 BN (90,0%) được chỉ

KẾTQUẢ

104 BN (46,2%) được chỉ định dạng viên phối hợp.

Đặc điểm BN và đặc điểm điều trị


Số thuốc ĐTĐ trung vị BN phải sử dụng là 2,0

Trong thời gian khảo sát, có 250 BN được
phỏng vấn với tuổi trung bình 59,8 ± 9,9 tuổi
(32,0 – 80,0). Đa số BN là nữ giới (166 BN, 66,4%),
có trình độ học vấn cấp 2 hoặc cấp 3 (56,8%) và
59,2 % BN hiện không làm việc. Hầu hết BN (240
BN, tương ứng 96,0%) có mắc ít nhất một bệnh

định phối hợp thuốc điều trị ĐTĐ. Trong số đó, có

thuốc một ngày (2,0 ; 2,0) và số lần dùng thuốc
trung vị mỗi ngày là 2,0 lần (2,0 ; 3,0). Chế độ
dùng thuốc phức tạp (dùng thuốc nhiều lần so với
thời điểm của một bữa ăn), ví dụ uống 1 thuốc
trước ăn sáng và 1 thuốc sau ăn sáng được ghi
nhận ở 130 BN trong nghiên cứu (52,0%).

kèm. Trong số đó, tăng huyết áp và rối loạn lipid

Tuân thủ dùng thuốc

máu là các bệnh phổ biến nhất với tỷ lệ lần lượt

Về tuân thủ dùng thuốc, có 169 BN (67,6%)
tuân thủ dùng các thuốc điều trị. Trong đó, tỷ lệ
BN tuân thủ tốt và tuân thủ trung bình lần lượt
là 19,6% và 48,0%. Kết quả từng câu hỏi trong bộ
câu hỏi MMAS-8 được trình bày trong bảng 1.


là 64,4% và 74,4%. Ngoài ra, có 42 bệnh nhân
(16,8%) được ghi nhận có các biến chứng của
ĐTĐ như biến chứng thận, biến chứng thần kinh.
Về thuốc điều trị, nghiên cứu ghi nhận được
có 171 BN (68,4%) chỉ sử dụng các thuốc hạ đường
Bảng 1: Kết quả trả lời bộ câu hỏi MMAS-8
Câu hỏi

Số BN trả lời Tỷ lệ (%)
“CÓ”
Cô/bác/anh/chị có đôi lúc quên uống thuốc điều trị đái tháo đường không ?
117
46,8
Trong 2 tuần qua, có ngày nào cô/bác/anh/chị không dùng thuốc điều trị đái tháo đường ?
59
23,6
Cô/bác/anh/chị có từng bỏ hay ngưng uống thuốc mà không báo bác sĩ vì cô/bác/anh/chị cảm
9
3,6
thấy mệt khi dùng thuốc ?
Khi cô/bác/anh/chị đi du lịch, đi chơi, có đôi lúc cô/bác/anh/chị quên mang theo thuốc không ?
38
15,2
Cô/bác/anh/chị có uống đủ thuốc ngày hôm qua không ?
238
95,2
Thỉnh thoảng, cô/bác/anh/chị có ngưng dùng thuốc khi cảm thấy đường huyết đã được kiểm
16
6,4
soát không ?

Uống thuốc mỗi ngày thật sự bất tiện với một số người. Cô/bác/anh/chị có thấy bất tiện khi phải
130
52,0
tuân theo kế hoạch điều trị không ?
Cô/ bác/anh/chị có thường xuyên thấy khó khăn khi phải nhớ uống tất cả thuốc không ?
Không bao giờ/hiếm
173
69,2
Đôi khi
75
30,0
Thỉnh thoảng
0
0
Thường xuyên
0
0
Luôn luôn
2
0,8

Mối liên quan giữa tuân thủ dùng thuốc và
hiệu quả điều trị
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh nhân đạt
được đường huyết đói và HbA1c mục tiêu tại
thời điểm khảo sát lần lượt là 39,2% và 22,8%.
Nhóm tuân thủ dùng thuốc có tỷ lệ bệnh nhân
kiểm soát đường huyết và HbA1c cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm không tuân thủ


Chuyên Đề Dược

(45,6% so với 26,3%, p = 0,004 và 29,9% so với
9,9%, p = 0,001). Ngoài ra, có mối tương quan
yếu giữa tuân thủ dùng thuốc và giá trị HbA1c
(rho = -0,285; p < 0,001).
Các yếu tố liên quan với tuân thủ dùng thuốc
Bảng 2 trình bày kết quả so sánh đặc điểm
BN và đặc điểm điều trị giữa 2 nhóm tuân thủ
và không tuân thủ dùng thuốc điều trị ĐTĐ.

223


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Bảng 2: So sánh đặc điểm BN và đặc điểm dùng thuốc giữa 2 nhóm BN
Đặc điểm
Tuổi
Có việc làm
Trình độ học vấn
- Cấp 1
- Cấp 2 + cấp 3
- Đại học
Thời gian điều trị ĐTĐ (năm)
Số thuốc điều trị
Số lần dùng thuốc trong ngày
Có chế độ dùng thuốc phức tạp

Có sử dụng viên phối hợp

Tuân thủ
(169 BN)
61,0 ± 9,2
49,4%

Không tuân thủ
(81 BN)
57,4 ± 10,9
36,7%

30,9%
51,9%
17,2%
6,0 (3,0 ; 12,0)
2,0 (2,0 ; 2,0)
2,0 (2,0 ; 3,0)
43,8%
45,7%

31,4%
59,2%
9,4%
7,0 (3,0 ; 13,0)
2,0 (2,0 ; 3,0)
2,0 (2,0 ; 3,0)
69,1%
39,65


Dựa trên kết quả phân tích đơn biến, các biến
độc lập gồm “tuổi”, “số thuốc điều trị”, “số lần
dùng thuốc trong ngày” và “chế độ dùng thuốc
phức tạp” có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2
nhóm có và không tuân thủ dùng thuốc. Do đó,
các biến này được sử dụng để xây dựng mô hình
hồi quy logistic. Tuy nhiên, “số thuốc điều trị” có
tương quan mạnh với “số lần dùng thuốc trong

p
0,008
0,056
0,191
0,310
< 0,001
0,001
< 0,001
0,365

ngày” (rho = 0,556; p < 0,001) và “chế độ dùng
thuốc phức tạp” (rho = 0,503; p < 0,001). Vì vậy,
biến “số thuốc điều trị” được loại khỏi mô hình
hồi quy. Mô hình hồi quy logistic đa biến được
xây dựng với biến phụ thuộc là “tuân thủ (có/
không)” và các biến độc lập gồm “tuổi”, “số lần
dùng thuốc trong ngày” và “chế độ dùng thuốc
phức tạp”. Kết quả được trình bày trong bảng 3.

Bảng 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ dùng thuốc
Yếu tố

Tuổi
Số lần dùng thuốc trong ngày
Chế độ dùng thuốc phức tạp (Có)

OR
1,048
0,462
0,388

BÀN LUẬN
Tỷ lệ BN tuân thủ dùng thuốc trong nghiên
cứu này là 67,6%, bao gồm 19,6% BN tuân thủ
tốt và 48,0% BN tuân thủ trung bình. Kết quả
này nằm ở mức trung bình so với tỷ lệ tuân thủ
dùng thuốc ĐTĐ trên thế giới (36,0 – 93,0%)(3)
và tương tự với nghiên cứu trước đó ở Bệnh
viện Nhân Dân Gia Định năm 2013 (69,0%)(12).
Kết quả trả lời câu hỏi “Cô/bác/anh/chị có
thường xuyên thấy khó khăn khi phải nhớ uống tất
cả thuốc không?”, có 69,2% BN trả lời “Không
bao giờ”. Kết quả này thấp hơn so với nghiên
cứu tại Nigeria năm 2015 (86,2%)(5). Như vậy,
hơn 30% BN trong nghiên cứu của chúng tôi
gặp khó khăn trong việc nhớ thời điểm sử dụng
thuốc. Điều này có thể giải thích do tỷ lệ BN có
chế độ điều trị phức tạp khá cao (52,0%).
Trả lời câu hỏi “Đã bao giờ cô/bác/anh/chị nghĩ
mình đã từng gặp phải tác dụng phụ nào do thuốc

224


Khoảng tin cậy (KTC) 95% của OR
1,017 – 1,079
0,303 – 0,705
0,216 – 0,696

P
0,002
< 0,001
0,002

ĐTĐ gây ra chưa?”, có 85 BN (34,0%) nghĩ rằng
họ đã từng mắc tác dụng phụ của thuốc ĐTĐ.
Trong số những BN nghĩ mình từng bị tác dụng
phụ của thuốc ĐTĐ, chỉ có 5 BN (5,9%) biết
chính xác mình đã từng bị hạ đường huyết quá
mức. Có 27 BN (31,8%) mô tả lại các triệu chứng
như đổ mồ hôi, đói cồn cào, run tay chân … mà
không biết đó là những dấu hiệu của hạ đường
huyết quá mức. Đáng lưu ý là có 9 BN (3,6%) tự
ý ngưng thuốc điều trị mà không có ý kiến của
bác sĩ. Điều này cho thấy hiểu biết của BN về tác
dụng phụ của thuốc cùng với cách xử trí chưa
nhiều. Do đó, cần tăng cường công tác tư vấn,
giải thích các tác dụng phụ mà BN có thể gặp
phải trong quá trình dùng thuốc và cách xử trí
để đảm bảo sử dụng thuốc an toàn. Việc này
cũng có thể giúp cải thiện tuân thủ điều trị ở BN.
Thật vậy, theo một vài nghiên cứu trước đây, tác
dụng phụ, đặc biệt là hạ đường huyết quá mức


Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
là một trong những yếu tố làm giảm tuân thủ
dùng thuốc(6,13).
Đối với câu hỏi thứ 5 (“Cô/bác/anh/chị có sử
dụng đủ thuốc ĐTĐ ngày hôm qua không?”), có
95,2% BN trả lời luôn sử dụng thuốc đầy đủ
trước ngày tái khám. Kết quả này có thể phản
ánh hiện tượng tuân thủ «áo choàng trắng», điều
có thể gây khó khăn cho bác sĩ trong việc đánh
giá khả năng tuân thủ dùng thuốc của BN. Hiện
tượng này cũng đã được đề cập đến trong
nghiên cứu trước đây tại Nigeria với 86,8% BN
trả lời “có” cho câu hỏi này(5). Mặt khác, trong số
những BN trả lời “không”, nhiều BN đưa ra lí do
hết thuốc do tái khám trễ. Thực tế, trong nghiên
cứu của chúng tôi, đa số các BN không sống ở
thành phố. Điều này gợi ý rằng sự sẵn có của các
dịch vụ y tế cũng có thể là một trong những yếu
tố ảnh hưởng đến tuân thủ dùng thuốc.
Trả lời câu hỏi thứ 6 (“Thỉnh thoảng,
cô/bác/anh/chị có ngưng dùng thuốc khi cảm thấy
đường huyết đã được kiểm soát không?”), có 93,6%
BN trả lời “không”. Tỷ lệ này cao hơn so với
nghiên cứu trước đây tại Nigeria (73,9%)(5).
Trong quá trình phỏng vấn BN, chúng tôi nhận
thấy phần đông bệnh nhân có niềm tin rất lớn

vào bác sĩ điều trị và họ biết rằng cần duy trì việc
điều trị lâu dài theo chỉ định. Tuy nhiên, trong số
các bệnh nhân trả lời «không», vẫn có một số BN
tự giảm liều thuốc khi đã kiểm soát được đường
huyết mà không thông báo với bác sĩ. Điều này
có thể ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả điều
trị. Do đó, cần chú ý giải thích cho BN hiểu được
tầm quan trọng của việc duy trì chế độ dùng
thuốc trong việc kiểm soát bệnh ĐTĐ trong quá
trình tư vấn điều trị.
Mối tương quan giữa tuân thủ dùng thuốc
và hiệu quả điều trị trong nghiên cứu này gợi
ý rằng cải thiện tuân thủ là một trong những
yếu tố có thể góp phần làm tăng hiệu quả
kiểm soát ĐTĐ. Tuy nhiên, đây là mối tương
quan yếu (rho < 0,4). Thật vậy, dù tỉ lệ bệnh
nhân tuân thủ dùng thuốc chiếm 67,6%, tỷ lệ
BN kiểm soát được HbA1c chỉ chiếm 23,0%. Sự
chênh lệch này có thể được giải thích bằng
nhiều lí do. Thứ nhất, BN có thể mô tả tuân

Chuyên Đề Dược

Nghiên cứu Y học

thủ của mình tốt hơn so với thực tế khi trả lời
khảo sát, đây cũng là một nhược điểm của bộ
câu hỏi MMAS-8 nói riêng và phương pháp
dùng bộ câu hỏi khảo sát nói chung. Thứ hai,
điều trị bằng thuốc chỉ là một phần trong việc

điều trị. Nói cách khác, các biện pháp thay đổi
lối sống cũng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc điều trị và kiểm soát bệnh. Tuy
nhiên, ảnh hưởng của các biện pháp này đến
việc kiểm soát đường huyết không được xét
đến trong phạm vi nghiên cứu này.
Kết quả phân tích cho thấy yếu tố làm
tăng tuân thủ dùng thuốc ở BN ĐTĐ trong
nghiên cứu này là tuổi cao (OR = 1,048; KTC
95% 1,017 – 1,079) và các yếu tố làm giảm
tuân thủ dùng thuốc gồm dùng thuốc nhiều lần
trong ngày (OR = 0,462; KTC 95% 0,303 – 0,705)
và có chế độ điều trị phức tạp (OR = 0,388; KTC
95% 0,216 – 0,696).
Về yếu tố tuổi tác, một nghiên cứu trước đây
của Nguyễn Thị Thuý Hằng cũng chỉ ra mối
quan hệ giữa tuổi tác và tuân thủ dùng thuốc ở
BN (p < 0,001)(12). Trong nghiên cứu này, BN có
tuổi càng cao càng tuân thủ dùng thuốc tốt. Điều
này có thể được giải thích dựa trên 2 yếu tố - thói
quen dùng thuốc và sự chấp nhận của BN về
bệnh. Những BN lớn tuổi có thời gian điều trị
lâu hơn dẫn đến việc dùng thuốc dần trở thành
thói quen trong cuộc sống và khiến họ dễ duy trì
việc dùng thuốc đúng hơn. Do ĐTĐ là một bệnh
thường gặp ở những đối tượng từ 40 tuổi trở lên,
những BN trẻ tuổi hơn thường cảm thấy khó
chấp nhận khi được chẩn đoán mắc bệnh và
thường tự ý ngưng điều trị mà không có ý kiến
của bác sĩ. Vì vậy, cần chú ý tư vấn kỹ hơn cho

đối tượng BN trẻ để có thể hiểu đúng về bệnh và
tuân thủ điều trị tích cực hơn.
Tương tự với kết quả của nghiên cứu này, mối
tương quan nghịch giữa tuân thủ dùng thuốc và
số thuốc ĐTĐ dùng trong ngày cũng được đề cập
đến trong nghiên cứu DARTs(4). Cùng với sự tiến
triển của bệnh, theo thời gian số thuốc ĐTĐ mà
bệnh nhân sử dụng cũng tăng lên. Thông thường,
để đạt được HbA1c mục tiêu, BN phải sử dụng ít
nhất 2 loại thuốc hạ đường huyết(7). Hơn nữa, việc
sử dụng nhiều nhóm thuốc cho phép BN có thể sử

225


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

dụng thuốc với liều thấp hơn, từ đó hạn chế được
tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra. Do
đó, nhân viên y tế cần cân nhắc giữa lợi ích và
nguy cơ để BN có thể sử dụng số lượng thuốc hợp
lý nhất. Trong một số nghiên cứu trước đây, để
BN có thể tuân thủ dùng thuốc tốt, số lượng thuốc
dùng trong ngày của BN không nên vượt quá 4
thuốc một ngày(9,10).
Đa số BN trong nghiên cứu này được chỉ định
dùng thuốc 2 lần/ngày. Số lần dùng thuốc lớn
nhất là 4 lần/ngày, thường gặp ở những BN điều

trị bằng phác đồ phối hợp insulin. Kết quả phân
tích đa biến cho thấy số lần dùng thuốc trong
ngày càng nhiều thì khả năng tuân thủ càng kém.
Kết quả này tương đồng với những nghiên cứu
trước đây(2,4). Tần suất sử dụng thuốc ít hơn 3 lần/
ngày có thể giúp BN tuân thủ điều trị tốt hơn(2).
Bên cạnh đó, chế độ dùng thuốc phức tạp cũng là
một trong những yếu tố làm giảm tuân thủ ghi
nhận được trong nghiên cứu này. Kết quả này
tương đồng với nghiên cứu trước đây của
Baudrant-Boga và cộng sự với kết luận thời điểm
dùng thuốc phức tạp có ảnh hưởng xấu đến tuân
thủ điều trị của BN(2). Hơn nữa, trong số những
BN có chế độ dùng thuốc phức tạp, nhiều BN
quyết định dùng tất cả các thuốc cùng một lúc sau
bữa ăn, điều này có thể gây ảnh hưởng không tốt
đến hiệu quả điều trị. Như vậy, đơn giản hóa chế
độ điều trị là việc cần thiết và quan trọng để cải
thiện tuân thủ dùng thuốc cũng như hiệu quả
điều trị.

KẾTLUẬN
Tỷ lệ tuân thủ điều trị ở BN ĐTĐ type 2 tại
phòng khám Nội tiết – BV ĐHYD ở mức trung
bình. Tuân thủ dùng thuốc có mối tương quan
yếu nhưng có ý nghĩa thống kê với hiệu quả
kiểm soát HbA1C. Kết quả nghiên cứu cho thấy
bệnh nhân trẻ tuổi có tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc
kém hơn so với bệnh nhân cao tuổi. Ngoài ra,
chế độ dùng thuốc phức tạp và dùng thuốc

nhiều lần trong ngày là hai yếu tố liên quan đến

226

tuân thủ dùng thuốc kém. Do đó, cần đẩy mạnh
công tác tư vấn cho bệnh nhân, đặc biệt là đối
tượng BN trẻ tuổi và đơn giản hóa chế độ điều
trị nhằm nâng cao khả năng tuân thủ của BN và
từ đó giúp cải thiện hiệu quả kiểm soát ĐTĐ.

TÀILIỆUTHAMKHẢO
1.

American Diabetes Association (2018). Diabetes Care. The
journal of clinical and applied research and education, 41 (S1).
2.
Baudrant-Boga M, Lehmann A, Allenet B (2012). Penser
autrement l’observance médicamenteuse: d’une posture
injonctive à une alliance thérapeutique entre le patient et le
soignant – Concepts et déterminants. Annales Pharmaceutiques
Françaises, 70: pp.15 - 25.
3. Cramer J. (2004). A systematic review of adherence with
medications for diabetes. Diabetes Care, 5: 1218 - 1224.
4. Donnan PT, MacDonald TM, Morris AD (2002). Adherence
to prescribed oral hypoglycaemic medication in a
population of patients with type 2 diabetes: a retrospective
cohort study. Diabetic medicine: a journal of the British
Diabetic Association, 19: pp.279-284.
5.
Jackson IL, Adibe MO, Okonta MJ, et al. (2015). Medication

adherence in type 2 diabetes patients in Nigeria. Diabetes
technology & therapeutics, 17 (6): pp.398 – 404.
6.
Kassahun A, Gashe F, et al. (2016). Nonadherence and factors
affecting adherence of diabetic patients to anti-diabetic
medication in Assela General Hospital, Oromia Region,
Ethiopia. Journal of Pharmacy & Bioallied Sciences, 8: pp.124-129.
7.
Lavernia F, Adkins SE, et a.l (2017). Use of oral combination
therapy for type 2 diabetes in primary care: Meeting
individualized patient goals. Postgraduate Medicine, 8: pp.808-817.
8.
Lin LK, Sun Y, Heng BH. et al. (2017). Medication adherence
and glycemic control among newly diagnosed diabetes
patients. BMJ Open Diabetes Research & Care, 5: pp.e000429.
9. Meyer TJ, Van Kooten D, Marsh S, Prochazka AV (1991).
Reduction of polypharmacy by feedback to clinicians.
Journal of General Internal Medicine, 6: pp.133-136.
10. Monson R, Bon CA, et al. (1981). Role of the clinical pharmacist
in improving drug therapy. Clinical pharmacists in outpatient
therapy. Archives of Internal Medicine, 141: pp.1441-1444.
11. Morisky DE, Ang A, et al. (2008). Predictive validity of a
medication adherence measure in an outpatient setting. Journal
of Clinical Hypertension (Greenwich), 10 (5): pp.348 – 354.
12. Nguyễn Thị Thuý Hằng (2013). Khảo sát và đánh giá việc
tuân thủ điều trị trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại
khoa khám Bệnh viện nhân dân Gia Định. Hội nghị Dược
sĩ bệnh viện TP. Hồ Chí Minh năm 2013.
13. Polonsky WH, Henry RR (2016). Poor medication adherence in
type 2 diabetes: recognizing the scope of the problem and its key

contributors. Patient Preference and Adherence, 10: pp.1299–1307.

Ngày nhận bài báo:

18/10/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/11/2018

Ngày bài báo được đăng:

15/03/2019

Chuyên Đề Dược



×