Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phẫu thuật một thì không ngưng tuần hoàn sửa chữa cung động mạch chủ và đóng thông liên thất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.38 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

PHẪU THUẬT MỘT THÌ KHÔNG NGƯNG TUẦN HOÀN SỬA CHỮA 
CUNG ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ ĐÓNG THÔNG LIÊN THẤT 
Nguyễn Kinh Bang*, Nguyễn Đức Tuấn*, Ngô Kim Thơi*, Nguyễn Hải Âu*, Nguyễn Quang Thiện* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Nhằm tránh phải phẫu thuật nhiều lần cũng như tránh phải hạ thân 
nhiệt sâu và ngưng tuần hoàn chúng tôi đã tiến hành ứng dụng kỹ thuật tưới máu não và tưới máu phần thân 
dưới để sửa chữa cung động mạch chủ và đóng thông liên thất một thì cho bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ và 
gián đoạn động mạch chủ có kèm thông liên thất.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 32 bệnh nhân từ 4 ngày đến 8 tuổi được phẫu thuật tại BV Nhi 
Đồng 1 bao gồm 24 trường hợp hẹp eo động mạch chủ và 8 trường hợp gián đoạn động mạch chủ có kèm thông 
liên thất. Phẫu thuật được tiến hành một thì với kỹ thuật tưới máu não thông qua cannula động mạch thân tay 
đầu. Nếu huyết áp động mạch đùi dưới 40mmHg khi kẹp thử eo động mạch chủ thì tưới máu phần thân dưới 
được thực hiện thông qua cannula động mạch chủ ngực nối với cannula động mạch thân tay đầu theo hình chữ 
Y khi sửa cung động mạch chủ. Thân nhiệt duy trì ở mức 280C – 320C. Sau khi cung động mạch đã được sửa, 
cannula động mạch chủ ngực được rút ra và tiến hành đóng lỗ thông liên thất.  
Kết quả: Có 26 trường hợp huyết áp động mạch đùi dưới 40mmHg khi kẹp thử chổ hẹp, trong đó 25 trường 
hợp sử dụng kỹ thuật tưới máu phần thân dưới thông qua cannula động mạch chủ ngực, 1 trường hợp có kèm 
gián đoạn tĩnh mạch chủ dưới được hạ thân nhiệt sâu và tưới máu não liên tục. 1 trường hợp tử vong ngay sau 
mổ do tổn thương van động mạch chủ khi chích catheter tĩnh mạch trung tâm. Thời gian kẹp để sửa chữa eo động 
mạch chủ trung bình 32,5 phút (24 ‐ 45 phút). Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể trung bình 184,4 phút (97 
‐ 716 phút). Thời gian kẹp động mạch chủ và liệt tim trung bình 87,3 phút (26 ‐ 210 phút). Để hở xương ức 09 
trường hợp. Thời gian để hở xương ức từ 01 ngày đến 02 ngày. Thời gian hậu phẫu trung bình 5,5 ngày. Tràn 
dịch dưỡng trấp 3 trường hợp, tất cả đều đáp ứng với điều trị nội khoa. Liệt thần kinh quặt ngược 2 trường hợp. 
Một trường hợp liệt thần kinh hoành phải cần phải khâu cơ hoành. Không có trường hợp nào bị tổn thương tủy 
sống hay não sau mổ. Thời gian theo dõi trung bình là 22 tháng, không có trường hợp nào hẹp miệng nối. Tất cả 
các trường hợp đều phát triển tâm thần vận động phù hợp với lứa tuổi. 


Kết luận: Sửa chữa cung động mạch chủ và đóng thông liên thất một thì cho kết quả khả quan. Kỹ thuật 
tưới máu não liên tục và kỹ thuật tưới máu phần dưới cơ thể giúp phẫu thuật được thực hiện một cách dễ dàng, 
không cần thiết phải hạ thân nhiệt sâu và ngưng tuần hoàn, tránh được các nguy cơ tổn thương não, tủy sống 
cũng như các cơ quan khác trong cơ thể. 
Từ khóa: thông liên thất và hẹp eo động mạch chủ, sửa chữa một thì, sửa chữa cung động mạch chủ ngưng 
tuần hoàn 
ABSTRACTS 
ONE STAGE ARCH REPAIR AND VENTRICULAR SEPTAL DEFECT CLOSURE WITHOUT DEEP 
HYPOTHERMIA CIRCULATORY ARREST 
Nguyen Kinh Bang, Nguyen Duc Tuan, Ngo Kim Thoi, Nguyen Hai Au, Nguyen quang Thien 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 161 ‐ 167 

* Khoa ngoại tổng hợp, BV Nhi Đồng 1 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Kinh Bang  ĐT: 0937575850

162

Email:  

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học
 

Background: To avoid deep hypothermia circulatory arrest and reduce the number of operation in surgical 
management of coarctation and interrupted aortic arch associated with ventricular septal defect, one stage aortic 
arch  repair  and  ventricular  septal  defect  closure  has  been  performed  using  isolated  cerebral  and  lower  body 

perfusion techniques.  
Patients  and  methods: 32 patients from 4 days to 8 years old has been operated in Nhi Dong 1 hospital 
including 24 coarctation of aortas and 8 interrupted aortic arches associated with ventricular septal defect. One 
stage repair has been done using isolated cerebral perfusion through innominated artery. If femoral blood pressure 
under test clamp is less than 40mmHg, thoracic aortic cannula will be placed and connected to the arterial line by 
an Y connector, lower body perfusion technique will be used during the arch repair. Body tempeature was cooled 
down to 280C – 320C. Thoracic aortic cannula was removed after arch had been repaired and VSD closure was 
performed. 
Results: The femoral arterial blood pressure under test clamp was less than 40 mmHg in 26 cases. Except 1 
case associated with interrupted IVC needed to cool down 180C and isolated cerebral perfusion, thoracic aortic 
cannula was placed to perfuse the lower part body in 25 cases. One early death due to aotic valve damage from 
CVP  catheter  insertion.  Mean  arch  repairing  time  was  32.5  minutes  (24‐45m).  Mean  CPB  time  was  184.4 
minutes. Mean cross clamp time was 87.3 minutes. Chest open in 09 cases (1‐2 days). Mean ICU stay was 5.5 
days.  Chylothorax  in  3  without  surgical  intervention.  Recurent  nerve  injury  in  2.  One  right  diaphragmatic 
paralysis needed surgical plication. No neurological damages. No anastomotic stenosis and normal psychomotor 
development in average 22 months follow up. 
Conclusions:  One  stage  aortic  arch  repair  and  VSD  closure  shows  positive  results.  Isolated  cerebral  and 
lower body perfusion technique can be easily performed, deep hypothermia circulatory arrest is unnessecsary, and 
risk of neurologic complications and other organ dysfuntions can be avoid. 
Key words: ventricular septal defect with aortic coarctation, one stage repair, aortic arch repair, circulatory 
arrest 
thực  hiện  với  kỹ  thuật  hạ  thân  nhiệt  sâu  và 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
ngưng tuần hoàn(23). Kể từ đó đã có những báo 
Sửa  chữa  cung  động  mạch  chủ  ở  trẻ  em 
cáo cho kết  quả  tương  đương  thậm  chí  tốt  hơn 
được áp dụng cho các trường hợp hẹp eo động 
so với phẫu thuật nhiều thì(10,11,12). Tuy nhiên, hạ 
mạch chủ và gián đoạn động mạch chủ. Hẹp eo 
thân  nhiệt  sâu  và  ngưng  tuần  hoàn  có  nhược 

động  mạch  chủ  (ĐMC)  chiếm  6,5%  các  trường 
điểm là kéo dài thời gian chạy tuần hoàn ngoài 
hợp  tim  bẩm  sinh.  Trong  đó,  36%  các  trường 
cơ  thể  vì  cần  phải  có  thời  gian  để  hạ  nhiệt  độ, 
hợp  hẹp  eo  động  mạch  chủ  có  kèm  theo  thông 
làm  ấm  bệnh  nhân,  cũng  như  tiềm  ẩn  nguy  cơ 
liên thất. Gián đoạn động mạch chủ ít gặp hơn 
tổn thương ở não đã được ghi nhận(13). Do đó, xu 
(1%‐4%) nhưng có tới 95% trường hợp kèm theo 
hướng hiện nay là tránh ngưng tuần hoàn bất cứ 
thông liên thất. Phẫu thuật kinh điển để điều trị 
khi nào có thể. Nghiên cứu của chúng tôi  trình 
hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn động mạch 
bày  kết  quả  ban  đầu  ứng  dụng  kỹ  thuật  mổ 
chủ  kèm  thông  liên  thất  được  thực  hiện  hai  thì 
không  ngưng  tuần  hoàn  sửa  chữa  cung  động 
bao  gồm  thì  1  sửa  chữa  cung  động  mạch  chủ 
mạch  chủ  và  đóng  thông  liên  thất  một  thì  cho 
bằng  đường  bên  có  hoặc  không  kèm  theo  thắt 
bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn 
hẹp động mạch phổi, thì 2 mở ngực đường giữa 
động mạch chủ có kèm thông liên thất. 
tháo  thắt  động  mạch  phổi  và  đóng  thông  liên 
thất. Từ năm 1978 phẫu thuật 1 thì sửa chữa hẹp 
eo  động  mạch  chủ  kèm  thông  liên  thất  được 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

163



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu  
32 bệnh nhân bao gồm 24 bệnh nhân hẹp eo 
động  mạch  chủ  kèm  theo  thông  liên  thất  và  8 
bệnh nhân gián đoạn động mạch chủ kèm thông 
liên  thất  được  phẫu  thuật  tại  bệnh  viện  Nhi 
Đồng 1 từ tháng 09 năm 2010 đến tháng 6 năm 
2013. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định dựa 
trên siêu âm tim và CT mạch máu. 

Sau  khi  sửa  hẹp  eo,  chúng  tôi  tiến  hành  kẹp 
động mạch chủ, cho liệt tim và đóng thông liên 
thất. Nếu  cung  động  mạch  chủ  thiểu  sản,  cung 
động mạch chủ được sửa sau khi cho liệt tim với 
miệng nối ở mặt dưới cung động mạch chủ (end 
to  undersurface  anastomosis)  (hình  02)  và  sau 
đó đóng lỗ thông liên thất. Trong trường hợp có 
đặt  cannula  động  mạch  chủ  ngực  để  tưới  máu 
phần thân dưới cơ thể chúng tôi sẽ rút ra ngay 
sau khi cung động mạch chủ đã được sửa chữa. 

Kỹ thuật phẫu thuật 
Bệnh nhân sau khi gây mê được đặt catheter 
động mạch quay phải và động mạch đùi để theo 
dõi huyết áp. Mở xương ức đường giữa, lấy bỏ 

tuyến ức, bóc tách các nhánh động mạch lên cổ 
trước  khi  mở  màng  ngoài  tim.  Sau  đó  bóc  tách 
bộc  lộ  toàn  bộ  cung  động  mạch  chủ,  ống  động 
mạch,  và  động  mạch  chủ  xuống  sau  chổ  hẹp. 
Kẹp  tạm  thời  chổ  hẹp  eo  động  mạch  chủ  ghi 
nhận  huyết  áp  ở  động  mạch  đùi  trước  khi  bắt 
đầu tuần hoàn ngoài cơ thể. 
Thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể với cannula 
động  mạch  chủ  gần  chổ  chia  của  động  mạch 
thân  tay  đầu  hoặc  ở  động  mạch  thân  tay  đầu 
thông  qua  ống  gore‐tex,  hai  cannula  tĩnh  mạch 
chủ  trên  và  dưới.  Nếu  huyết  áp  tâm  thu  động 
mạch  đùi  dưới  40mmHg  sau  khi  kẹp  tạm  thời 
chổ  hẹp  eo  hoặc  có  bất  thường  xuất  phát  động 
mạch  dưới  đòn  phải  sau  chổ  hẹp  thì  chúng  tôi 
tiến  hành  đặt  thêm  1  cannula  động  mạch  chủ 
ngực  ngay  trên  cơ  hoành  kết  nối  với  đường 
động  mạch  theo  hình  chữ  Y  để  tưới  máu  phần 
dưới cơ thể.  
Thân  nhiệt  được  hạ  ở  mức  32oC,  huyết  áp 
động  mạch  quay  được  duy  trì  40  –  45  mmHg 
trong  thời  gian  chạy  tim  phổi  nhân  tạo  hoàn 
toàn. Trong trường hợp không có cannula động 
mạch  chủ  ngực  thân  nhiệt  được  duy  trì  ở  mức 
28oC. Tưới máu não chọn lọc một bên luôn được 
thực hiện trong thời gian sửa eo động mạch chủ. 
Nếu  cung  động  mạch  chủ  không  thiểu  sản, 
hẹp eo động mạch chủ được sửa chữa mà không 
cần  liệt  tim  với  miệng  nối  tận  tận  có  mở  rộng 
(extended  end  to  end  anastomosis)  (hình  01). 


164

 
Hình 1: Miệng nối tận tận 

 
Hình 2: Miệng nối tận bên mặt dưới cung 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ  tháng  09/2010  đến  tháng  06/2013  chúng 
tôi đã tiến hành phẫu thuật sửa chữa cung động 
mạch chủ và đóng thông liên thất một thì cho 32 
bệnh nhân bao gồm 24 trường hợp hẹp eo động 
mạch chủ kèm thông liên thất và 8 trường hợp 
gián  đoạn  động  mạch  chủ  có  kèm  thông  liên 
thất bao gồm 4 trường hợp type A và 4 trường 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
hợp  type  B.  Tỉ  lệ  nam/nữ  là  14  nam  và  18  nữ. 
Tuổi trung bình 10 tháng (từ 04 ngày đến 8 tuổi). 
Cân  nặng  trung  bình  5,07kg  (từ  3,0kg  đến 
16,5kg).  Thiểu  sản  cung  động  mạch  chủ  gặp 
trong 21/24 trường hợp hẹp eo động mạch chủ, 
tỉ  lệ  87,5%.  Bất  thường  xuất  phát  động  mạch 
dưới đòn phải 1 trường hợp, tỉ lệ 0,03%. Huyết 
áp động mạch đùi sau khi kẹp tạm thời eo động 

mạch  chủ  dưới  40  mmHg  gặp  trong  26  trường 
hợp,  tỉ  lệ  81,2%.  Có  25  trường  hợp  được  đặt 
cannula động mạch chủ ngực để tưới máu phần 
thân dưới cơ thể, tỉ lệ 78,1%. Một trường hợp bị 
gián  đoạn  tĩnh  mạch  chủ  dưới  chúng  tôi  chọn 
phương án hạ thân nhiệt 180C tưới máu não liên 
tục,  không  đặt  cannula  động  mạch  chủ  ngực. 
Thời  gian  kẹp  để  sửa  chữa  eo  động  mạch  chủ 
trung bình 32,5 phút, ngắn nhất là 24 phút, dài 
nhất là 45 phút. Thời gian chạy tuần hoàn ngoài 
cơ  thể  trung  bình  184,4  phút,  ngắn  nhất  là  97 
phút, dài nhất là 716 phút. Thời gian kẹp  động 
mạch chủ và liệt tim trung bình 87,3 phút, ngắn 
nhất là 26 phút, dài nhất là 210 phút. Miệng nối 
tận tận có mở rộng được thực hiện cho 3 trường 
hợp hẹp eo động mạch chủ không có thiểu sản 
cung  động  mạch  chủ,  miệng  nối  tận  bên  mặt 
dưới cung động mạch chủ được thực hiện ở 21 
trường  hợp  hẹp  eo  kèm  thiểu  sản  cung  động 
mạch chủ. Chênh áp động mạch  quay  và  động 
mạch đùi sau khi sửa chữa hẹp eo không đáng 
kể  ở  tất  cả  các  trường  hợp.  Để  hở  xương  ức 
trong 09 trường hợp. Thời gian để hở xuong ức 
từ  01  ngày  đến  02  ngày.  Thời  gian  hậu  phẫu 
trung  bình  5,5  ngày.  Tràn  dịch  dưỡng  trấp  xảy 
ra ở 3 trường hợp, tất cả đều đáp ứng với điều 
trị nội khoa, không có trường hợp nào cần phải 
can thiệp phẫu thuật. Liệt thần kinh quặt ngược 
xảy ra ở 2 trường hợp, tất cả chỉ biểu hiện khàn 
tiếng, không ảnh hưởng đến hô hấp và nuôi ăn 

đường  miệng.  Có  1  trường  hợp  liệt  thần  kinh 
hoành  phải  cần  phải  khâu  cơ  hoành.  Không  có 
trường hợp nào bị tổn thương tủy sống hay não 
sau  mổ.  Một  trường  hợp  tử  vong  ngay  sau  mổ 
do  tai  biến  rách  van  động  mạch  chủ  khi  đặt 
catheter  tĩnh  mạch  trung  tâm  nhầm  vào  động 
mạch cảnh chung phải. Thời gian theo dõi trung 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

Nghiên cứu Y học

bình là 22 tháng, không có trường hợp nào hẹp 
miệng nối. Tất cả các trường hợp đều phát triển 
tâm thần vận động phù hợp với lứa tuổi. 

BÀN LUẬN 
Phẫu thuật một thì hay nhiều thì:  
Hẹp  eo  động  mạch  chủ  và  gián  đoạn  động 
mạch chủ kèm thông liên thất hiện nay vẫn còn 
tranh cãi về phương pháp điều trị. Để lựa chọn 
được  phương  pháp  điều  trị  tối  ưu  cho  bệnh 
nhân  chúng  ta  cần  phải  dựa  trên  những  đánh 
giá  chi  tiết  về  tình  trạng  lâm  sàng  của  bệnh 
nhân,  giải  phẫu  của  toàn  bộ  cung  động  mạch 
chủ,  và  những  dị  tật  khác  kèm  theo  trong  tim. 
Theo y văn có ba phương thức tiếp cận đối với 
bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn 
động mạch chủ có kèm thông liên thất bao gồm: 
thứ  nhất  là  sửa  cung  động  mạch  chủ  và  đóng 

thông liên thất một thì, thứ hai là phẫu thuật hai 
thì,  và  thứ  ba  là  sửa  cung  động  mạch  chủ  và 
theo dõi diễn tiến tự nhiên của thông liên thất. 
Sửa cung động mạch chủ và đóng thông liên 
thất  một  thì  là  phương  pháp  phức  tạp  nhất. 
Phương pháp này đòi hỏi phải thực hiện cả hai 
phẫu  thuật  sửa  chữa  cung  động  mạch  chủ  và 
đóng  thông  liên  thất  trong  cùng  1  lần  mổ  qua 
đường giữa mở xương ức, luôn phải có tim phổi 
nhân tạo, có thể phải hạ thân nhiệt sâu và ngưng 
tuần  hoàn.  Kanter  và  cộng  sự(15)  đã  báo  cáo 
phương pháp phẫu thuật sửa chữa một thì bằng 
cách  mở  ngực  trái  sửa  hẹp  eo  động  mạch  chủ 
sau đó mở ngực đường giữa để đóng thông liên 
thất. Phương pháp này có ưu điểm là không cần 
phải hạ thân nhiệt sâu và ngưng tuần hoàn, rút 
ngắn thời gian chạy tim phổi nhân tạo cũng như 
thời  gian  liệt  tim.  Tuy  nhiên,  nhược  điểm  của 
phương  pháp  này  là  chúng  ta  chỉ  có  thể  thực 
hiện được đối với những trường hợp không  có 
thiểu sản cung động mạch chủ, bệnh nhân phải 
chịu  hai  đường  mổ  ở  ngực  trái  và  đường  giữa. 
Chúng tôi có 3 trường hợp không thiểu sản cung 
động mạch chủ  được  sửa  chữa  một  thì  chỉ  qua 
đường  giữa  mở  xương  ức,  chúng  tôi  thực  hiện 
miệng  nối  động  mạch  chủ  với  tim  đập  không 
cần phải mở ngực trái, không phải hạ thân nhiệt 

165



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

sâu ngưng tuần hoàn, cũng như không kéo dài 
thời gian liệt tim. 
Phẫu thuật hai thì đòi hỏi hai lần phẫu thuật, 
hai đường mổ, và tương đối ít phức tạp hơn so 
với  phẫu  thuật  một  thì.  Phẫu  thuật  hai  thì  bao 
gồm  thì  một  mở  ngực  trái  cắt  nối  động  mạch 
chủ và thắt bớt động mạch phổi để giảm lượng 
máu  lên  phổi,  thì  hai  mở  xương  ức  để  tháo  bỏ 
thắt  động  mạch  phổi  và  đóng  thông  liên  thất. 
Chúng tôi không có trường hợp nào phẫu thuật 
hai thì vì so với phương pháp một thì của chúng 
tôi  phương  pháp  hai  thì  chưa  cho  thấy  có  ưu 
điểm nổi bật. 
Sửa chữa hẹp eo và sau đó theo dõi diễn tiến 
tự nhiên của thông liên thất là phương pháp dựa 
trên  khả  năng  tự  đóng  của  thông  liên  thất.  Do 
đó, phương pháp này không đòi hỏi phải phẫu 
thuật lần hai nếu thông liên thất có thể đóng tự 
nhiên,  phẫu  thuật  lần  hai  chỉ  cần  thiết  sau  một 
thời  gian  theo  dõi  mà  lỗ  thông  liên  thất  có  ảnh 
hưởng  nặng  trên  lâm  sàng.  Bonet  D.  và  cộng 
sự(3)  đã  sử  dụng  vật  liệu  thắt  bớt  động  mạch 
phổi  có  thể  tự  tiêu  được  trong  điều  trị  hẹp  eo 
động mạch chủ kèm thông liên thất. Với vật liệu 
tự tiêu, nếu sau một thời gian theo dõi lỗ thông 

liên thất tự đóng thì không cần phải mổ lại lần 
hai để tháo bỏ vòng thắt động mạch phổi.  
Theo chúng tôi, lựa chọn phương pháp phẫu 
thuật một thì hay nhiều thì tùy thuộc vào từng 
trường hợp cụ thể. Nếu như lỗ thông liên thất có 
khả  năng  tự  đóng  hẹp  eo  động  mạch  chủ  đơn 
thuần không có thiểu sản cung động mạch chủ 
hoặc gián đoạn động mạch chủ type A thì có thể 
sửa cung động mạch chủ qua đường bên và theo 
dõi diễn tiến tự nhiên của thông liên thất. Nếu lỗ 
thông liên thất lớn hoặc ở những vị trí không tự 
đóng được thì nên phẫu thuật một thì sửa chữa 
cung  động  mạch  chủ  và  đóng  thông  liên  thất 
qua đường mở xương ức. 

Tưới  máu  não  chọn  lọc  hay  hạ  thân  nhiệt 
sâu ngưng tuần hoàn? 
Hạ  thân  nhiệt  sâu  ngưng  tuần  hoàn  là  một 
biện pháp để bảo vệ rất tốt tránh tổn thương não 
trong trường hợp bắt buộc. Tuy nhiên, não là cơ 

166

quan  dễ  bị  tổn  thương  nhất  đối  với  tình  trạng 
thiếu  oxy,  việc  ngưng  tuần  hoàn  có  thể  gây  ra 
những tổn thương ở não đã được ghi nhận.  
Múa vờn có thể xảy ra sớm sau cuộc mổ có 
ngưng  tuần  hoàn  ở  trẻ  em,  nếu  nhẹ  có  thể  tự 
khỏi, một số trường hợp nặng có thể tồn tại vĩnh 
viễn sau mổ. Nghiên cứu của Brunberg và cộng 

sự(5)  ghi  nhận  múa  vờn  xảy  ra  ở  1%  ‐  12%  các 
trường  hợp  phẫu  thuật  có  sử  dụng  kỹ  thuật 
ngưng tuần hoàn và một vài trường hợp tồn tại 
kéo  dài  sau  mổ.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  ghi 
nhận không có trường hợp nào múa vờn xảy ra 
sau mổ. 
Có 5% ‐ 10% các trường hợp động kinh xảy 
ra sớm sau mổ có hạ thân nhiệt và ngưng tuần 
hoàn(2,9).  Động  kinh  thường  thoáng  qua  và  hồi 
phục  hoàn  toàn  nên  ít  được  quan  tâm.  Tuy 
nhiên, nghiên cứu ở Boston cho thấy bệnh nhân 
có ghi nhận bị động kinh trên điện não đồ có sự 
phát triển kém về tâm thần vận động khi được 1 
‐2,5 tuổi(21). Nghiên cứu của chúng tôi ghi  nhận 
không  có  trường  hợp  nào  có  biểu  hiện  động 
kinh trên lâm sàng sau mổ, và sự  phát triển về 
tâm  thần  vận  động  bình  thường  sau  thời  gian 
theo dõi trung bình là 22 tháng 
Tưới  máu  não  thông  qua  động  mạch  thân 
tay đầu đã được thực hiện đầu tiên bởi Asou và 
cộng  sự  năm  1996(1)  và  sau  đó  được  áp  dụng 
rộng  rãi  và  ghi  nhận  có  kết  quả  tốt  và  an  toàn 
dựa  trên  những  đánh  giá  trong  mổ  thông  qua 
các phương tiện như siêu âm não, đo độ bão hòa 
oxy  não  (NIRS,  INVOS)  cũng  như  những  đánh 
giá kết quả sau mổ(14,17). 
Nghiên  cứu  của  Paul  Urbansky  và  cộng 
sự  trên 99 bệnh nhân phẫu thuật cung động 
mạch chủ cho thấy chỉ có 69 bệnh nhân có cấu 
trúc  đa  giác  Willis  bình  thường,  tuy  nhiên  tất 

cả  các  trường  hợp  tưới  máu  não  hai  bên  vẫn 
không  bị  ảnh  hưởng  khi  động  mạch  cảnh 
chung trái được kẹp. 
(19)

Mặc  dù  chúng  tôi  không  có  đầy  đủ  các 
phương tiện để theo dõi đánh giá tình trạng tưới 
máu  não  trong  lúc  mổ  nhưng  dựa  trên  những 
kết quả đã được ghi nhận trên thế giới chúng tôi 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
đã  áp  dụng  kỹ  thuật  tưới  máu  não  thông  qua 
động mạch thân tay đầu cho các trường hợp sửa 
chữa cung động mạch chủ phức tạp và ghi nhận 
không  có  trường  hợp  nào  có  tai  biến  và  biến 
chứng. Chúng tôi thường kiểm tra việc tưới máu 
não một bên bằng cách kẹp thử động mạch thân 
tay đầu khi đó động mạch cảnh trái giữ vai trò 
tưới máu cho não và chúng tôi ghi nhận không 
có sự giảm đáng kể huyết áp ở động mạch quay 
phải,  điều  này  chứng  tỏ  tuần  hoàn  bàng  hệ 
trong não đảm bảo tưới máu cho hai bên não khi 
một trong hai động mạch cảnh chung bị kẹp. 

Tưới máu toàn thân hay hạ thân nhiệt sâu 
ngưng tuần hoàn? 
Liệt  hai  chi  dưới  là  một  biến  chứng  cực  kỳ 

nghiêm  trọng  trong  phẫu  thuật  sửa  cung  động 
mạch  chủ  và  luôn  luôn  được  coi  là  mối  quan 
tâm hàng đầu đối với phẫu thuật viên khi thực 
hiện phẫu thuật. Mặc dù ít xảy ra nhưng nó để 
lại di chứng rất nặng nề. Tần suất được ghi nhận 
trong  nghiên  cứu  của  Brewer  và  cộng  sự  trên 
12.532  trường  hợp  là  0,415%(4).  Nghiên  cứu  của 
Keen và cộng sự trên 5.492 bệnh nhân ghi nhận 
tần  suất  liệt  tủy  là  0,3%(16).  Nguyên  nhân  chính 
của  biến  chứng  liệt  hai  chi  dưới  là  tuần  hoàn 
bàng  hệ  không  cung  cấp  đủ  máu  cho  tủy  sống 
trong khi động mạch chủ bị kẹp. Đã có rất nhiều 
báo  cáo  về  những  kỹ  thuật  nhằm  tránh  biến 
chứng  liệt  hai  chi  dưới  ở  những  bệnh  nhân 
không  có  đủ  tuần  hoàn  bàng  hệ  bao  gồm  CPB 
bán  phần  tim  trái  tức  lấy  máu  từ  nhĩ  trái  bơm 
vào  động  mạch  chủ  xuống(6,24),  CPB  với  ngưng 
tuần  hoàn(18),  tạo  shunt  động  mạch  chủ  lên  và 
động mạch chủ xuống(8), và shunt tạm thời trong 
lòng mạch(20). Carl Baker và cộng sự(7) đã báo cáo 
11 bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ không đủ 
tuần hoàn bàng hệ được phẫu thuật sửa hẹp eo 
bằng kỹ thuật CPB bán phần nhĩ trái động mạch 
chủ  xuống  cho  thấy  đây  là  kỹ  thuật  an  toàn, 
không tai biến biến chứng, và thời gian hồi phục 
sau  mổ  tương  đương  với  mổ  kín.  Tác  giả  xác 
định tuần hoàn bàng hệ không đủ khi huyết áp 
tâm thu động mạch đùi dưới 45mmHg trong khi 
kẹp thử động mạch chủ.  


Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

Nghiên cứu Y học

Chúng tôi sử dụng kỹ thuật tưới máu phần 
dưới  cơ  thể  bằng  một  cannula  động  mạch  chủ 
xuống  ngay  trên  cơ  hoành  được  kết  nối  với 
đường động mạch hình chử Y, chúng tôi hạ thân 
nhiệt 300C ‐320C, do đó tiêu chuẩn để chọn bệnh 
nhân  sử  dụng  phương  pháp  này  là  huyết  áp 
động mạch đùi dưới 40mmHg khi kẹp thử động 
mạch chủ. Chúng tôi ghi nhận có 26 trường hợp 
huyết áp động mạch đùi dưới 40 mmHg khi kẹp 
thử  động  mạch  chủ  trong  đó  có  1  trường  hợp 
kèm  theo  gián  đoạn  tĩnh  mạch  chủ  dưới  nên 
chúng tôi lựa chọn phương pháp hạ thân nhiệt 
sâu  và  chỉ  tưới  máu  não  liên  tục,  không  đặt 
cannula động mạch chủ ngực, còn lại 25 trường 
hợp  được  sử  dụng  kỹ  thuật  đặt  cannula  động 
mạch chủ ngực để tưới máu phần thân dưới. 
Chúng ta biết rằng tuần hoàn bàng hệ vùng 
eo  động  mạch  chủ  chủ  yếu  thông  qua  nhánh 
động  mạch  dưới  đòn  và  các  nhánh  động  mạch 
liên  sườn  (hình)  do  đó  bất  thường  xuất  phát 
động  mạch  dưới  đòn  phải  từ  dưới  chổ  hẹp  là 
một chỉ định cho kỹ thuật tưới máu phần dưới 
cơ  thể.  Chúng  tôi  có  1  trường  hợp  động  mạch 
dưới  đòn  phải  xuất  phát  từ  động  mạch  chủ 
ngực.  
Chúng  tôi  ghi  nhận  kỹ  thuật  đặt  cannula 

động  mạch  chủ  ngực  không  khó  thực  hiện  và 
không ghi nhận có tai biến hoặc biến chứng nào 
liên  quan.  Ngoài  ra  chúng  tôi  nghĩ  rằng  với 
cannula  động  mạch  chủ  ngực  gan  thận  luôn 
được tưới máu trong quá trình phẫu thuật do đó 
chức  năng  gan  và  thận  luôn  được  duy  trì  ổn 
định  sau  mổ,  chúng  tôi  ghi  nhận  không  có 
trường hợp nào bị suy thận hoặc thay đổi men 
gan sau mổ. 

KẾT LUẬN 
Phẫu  thuật  một  thì  sửa  chữa  cung  động 
mạch  chủ  và  đóng  thông  liên  thất  có  thể  thực 
hiện  một  cách  an  toàn,  hiệu  quả,  ít  tai  biến  và 
biến  chứng  trong  và  sau  khi  mổ.  Kỹ  thuật  tưới 
máu  não  liên  tục  và  kỹ  thuật  tưới  máu  phần 
dưới cơ thể giúp phẫu thuật được thực hiện một 
cách dễ dàng, không cần thiết phải hạ thân nhiệt 
sâu và ngưng tuần hoàn, tránh được các nguy cơ 

167


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

tổn thương não, tủy sống cũng như các cơ quan 
khác trong cơ thể.  


13.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

168

Asou T, Kado H, Imoto Y, Shiokawa Y, Tominaga R, Kawachi 

Y, et al  (1996).  Selective  cerebral  perfusion  technique  during 
aortic arch repair in neonates. Ann Thorac Surg;61:1546–8. 
Barratt‐Boyes  BG,  Neutze  JM,  Clarkson  P,  Shardey  GC, 
Brandt  PW(1976).  Repair  of  ventricular  septal  defect  in  the 
first two years of life using profound hypothermia‐circulatory 
arrest techniques. Ann Surg;184:376. 
Bonnet D, Patkai J, Tamisier D, Kachaner J, Vouhe P, Sidi D 
(1999).  A  new  strategy  for  the  surgical  treatment  of  aortic 
coarctation associated with ventricular septal defect in infants 
using  an  absorbable  pulmonary  artery  band.  J  Am  Coll 
Cardiol;34:866. 
Brewer  LA  3rd,  Fosburg  RG,  Mulder  GA,  Verska  JJ  (1972). 
Spinal cord complications following surgery for coarctation of 
the  aorta.  A  study  of  66  cases.  J  Thorac  Cardiovasc 
Surg;64:368–81. 
Brunberg  JA,  Reilly  EL,  Doty  DB  (1974).  Central  nervous 
system consequences in infants of cardiac surgery using deep 
hypothermia and circulatory arrest. Circulation;50:II60. 
Buckels  NJ,  Willetts  RG,  Roberts  KD.  Left  heart  bypass  in 
thesurgery  of  aortic  coarctation  in  children.  Thorax 
1988;43:1003–6. 
Backer  CL,  Stewart  RD,  Kelle  AM  (2006),  Constantine 
Mavroudis.  Use  of  Partial  Cardiopulmonary  Bypass  for 
Coarctation Repair Through a Left Thoracotomy in Children 
Without Collaterals. Ann Thorac Surg;82:964 –72. 
Christenson  JT,  Sierra  J,  Didier  D,  Beghetti  M,  Kalangos  A 
(2004).  Repair  of  aortic  coarctation  using  temporary 
ascending to descending aortic bypass in children with poor 
collateral circulation. Cardiol Young;14:39–45. 
Clarkson  PM,  MacArthur  BA,  Barratt‐Boyes  BG,  Whitlock 

RM,  Neutze  JM  (1980).  Developmental  progress  following 
cardiac surgery in infancy using profound hypothermia and 
circulatory arrest. Circulation;62:855. 
Conte S, Lacour‐Gayet F, Serraf A, Sousa‐Uva M, Bruniaux J, 
Touchot  A,  et  al  (1995).  Surgical  management  of  neonatal 
coarctation. J Thorac Cardiovasc Surg;109:663–75. 
DeLeon SY, Downey FX, Baumgartner NE, Ow EP, Quinones 
JA,  Torres  L,  et  al  (1994).  Transsternal  repair  of  coarctation 
and associated cardiac defects. Ann Thorac Surg;58:179–84. 
Gaynor JW, Wernovsky G, Rychik J, Rome JJ, DeCampli WM, 
Spray  TL  (2000).  Outcome  following  single‐stage  repair  of 
coarctation with ventricular septal defect. Eur J Cardio‐thorac 
 

14.

15.

16.

17.

18.

19.

20.

21.


22.
23.

24.

Surg;18:62–7. 
Greeley  WJ,  Kern  FH,  Ungerleider  RM,  Boyd  JL,  Quill  T, 
Smith  LR,  et  al  (1991).  The  effect  of  hypothermic 
cardiopulmonary  bypass  and  total  circulatory  arrest  on 
cerebral  metabolism  in  neonates,  infants  and  children.  J 
Thorac Cardiovasc Surg;101:783–94. 
Ishino  K,  Kawada  M,  Irie  H,  Kino  K,  Sano  S  (2000).  Single‐
stage repair of aortic coarctation with ventricular septal defect 
using  isolated  cerebral  and  myocardial  perfusion.  Eur  J 
Cardio‐thorac Surg;17:538–47. 
Kanter KR, Mahle WT, Kogon BE, Kirshbom PM (2007). What 
is  the  optimal  management  of  infants  with  coarctation  and 
ventricular septal defect? Ann Thorac Surg;84:612‐8. 
Keen  G  (1987).  Spinal  cord  damage  and  operations  for 
coarctation  of  the  aorta:  aetiology,  practice,  and  prospects. 
Thorax; 42:11– 8. 
Murthy  KS,  Coelho  R,  et  al  (2003).  One‐Stage  Repair  of 
Cardiac  and  Arch  Anomalies  Without  Circulatory  Arrest. 
Asian Cardiovasc Thorac Ann;11:250‐254. 
Lange R, Thielmann M, Schmidt KG, et al (1997). Spinal cord 
protection  using  hypothermic  cardiocirculatory  arrest  in 
extended  repair  of  recoarctation  and  persistent  hypoplastic 
aortic arch. Eur J Cardiothorac Surg;11:697–702. 
Urbanski  PP,  Lenos  A  et  al  (2008).  Does  anatomical 
completeness  of  the  circle  of  Willis  correlate  with  sufficient 

cross‐perfusion  during  unilateral  cerebral  perfusion?  Eur  J 
Cardiothorac Surg;33:402‐408. 
Pennington DG, Dennis HM, Swartz MT, et al (1985). Repair 
of  aortic  coarctation  in  infants:  experience  with  an 
intraluminal shunt. Ann Thorac Surg;40:35– 40. 
Rappaport LA, Wypij D, Bellinger DC, Helmers SL, Holmes 
GL, Barnes PD, et al (1998). Relation of seizures after cardiac 
surgery  in  early  infancy  to  neurodevelopmental  outcome. 
Boston Circulatory Arrest Group. Circulation;97:773. 
Sano  S,  Mee  RBB  (1990).  Isolated  myocardial  perfusion 
during arch repair. Ann Thorac Surg;49:970–2. 
Tiraboschi R, Alfieri O, Carpentier A, Parenzan L (1978). One 
stage  correction  of  coarctation  of  the  aorta  associated  with 
intracardiac defects in infancy. J Cardiovasc Surg;19:11. 
Wong CH, Watson B, Smith JR, Hamilton AH (2001). The use 
of left heart bypass in adult and recurrent coarctation repair. 
Eur J Cardiothorac Surg;20:1199 –201. 

 

Ngày nhận bài báo: 27/09/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×