Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
PHẪU THUẬT MỘT THÌ KHÔNG NGƯNG TUẦN HOÀN SỬA CHỮA
CUNG ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ ĐÓNG THÔNG LIÊN THẤT
Nguyễn Kinh Bang*, Nguyễn Đức Tuấn*, Ngô Kim Thơi*, Nguyễn Hải Âu*, Nguyễn Quang Thiện*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Nhằm tránh phải phẫu thuật nhiều lần cũng như tránh phải hạ thân
nhiệt sâu và ngưng tuần hoàn chúng tôi đã tiến hành ứng dụng kỹ thuật tưới máu não và tưới máu phần thân
dưới để sửa chữa cung động mạch chủ và đóng thông liên thất một thì cho bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ và
gián đoạn động mạch chủ có kèm thông liên thất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 32 bệnh nhân từ 4 ngày đến 8 tuổi được phẫu thuật tại BV Nhi
Đồng 1 bao gồm 24 trường hợp hẹp eo động mạch chủ và 8 trường hợp gián đoạn động mạch chủ có kèm thông
liên thất. Phẫu thuật được tiến hành một thì với kỹ thuật tưới máu não thông qua cannula động mạch thân tay
đầu. Nếu huyết áp động mạch đùi dưới 40mmHg khi kẹp thử eo động mạch chủ thì tưới máu phần thân dưới
được thực hiện thông qua cannula động mạch chủ ngực nối với cannula động mạch thân tay đầu theo hình chữ
Y khi sửa cung động mạch chủ. Thân nhiệt duy trì ở mức 280C – 320C. Sau khi cung động mạch đã được sửa,
cannula động mạch chủ ngực được rút ra và tiến hành đóng lỗ thông liên thất.
Kết quả: Có 26 trường hợp huyết áp động mạch đùi dưới 40mmHg khi kẹp thử chổ hẹp, trong đó 25 trường
hợp sử dụng kỹ thuật tưới máu phần thân dưới thông qua cannula động mạch chủ ngực, 1 trường hợp có kèm
gián đoạn tĩnh mạch chủ dưới được hạ thân nhiệt sâu và tưới máu não liên tục. 1 trường hợp tử vong ngay sau
mổ do tổn thương van động mạch chủ khi chích catheter tĩnh mạch trung tâm. Thời gian kẹp để sửa chữa eo động
mạch chủ trung bình 32,5 phút (24 ‐ 45 phút). Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể trung bình 184,4 phút (97
‐ 716 phút). Thời gian kẹp động mạch chủ và liệt tim trung bình 87,3 phút (26 ‐ 210 phút). Để hở xương ức 09
trường hợp. Thời gian để hở xương ức từ 01 ngày đến 02 ngày. Thời gian hậu phẫu trung bình 5,5 ngày. Tràn
dịch dưỡng trấp 3 trường hợp, tất cả đều đáp ứng với điều trị nội khoa. Liệt thần kinh quặt ngược 2 trường hợp.
Một trường hợp liệt thần kinh hoành phải cần phải khâu cơ hoành. Không có trường hợp nào bị tổn thương tủy
sống hay não sau mổ. Thời gian theo dõi trung bình là 22 tháng, không có trường hợp nào hẹp miệng nối. Tất cả
các trường hợp đều phát triển tâm thần vận động phù hợp với lứa tuổi.
Kết luận: Sửa chữa cung động mạch chủ và đóng thông liên thất một thì cho kết quả khả quan. Kỹ thuật
tưới máu não liên tục và kỹ thuật tưới máu phần dưới cơ thể giúp phẫu thuật được thực hiện một cách dễ dàng,
không cần thiết phải hạ thân nhiệt sâu và ngưng tuần hoàn, tránh được các nguy cơ tổn thương não, tủy sống
cũng như các cơ quan khác trong cơ thể.
Từ khóa: thông liên thất và hẹp eo động mạch chủ, sửa chữa một thì, sửa chữa cung động mạch chủ ngưng
tuần hoàn
ABSTRACTS
ONE STAGE ARCH REPAIR AND VENTRICULAR SEPTAL DEFECT CLOSURE WITHOUT DEEP
HYPOTHERMIA CIRCULATORY ARREST
Nguyen Kinh Bang, Nguyen Duc Tuan, Ngo Kim Thoi, Nguyen Hai Au, Nguyen quang Thien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 161 ‐ 167
* Khoa ngoại tổng hợp, BV Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Kinh Bang ĐT: 0937575850
162
Email:
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Background: To avoid deep hypothermia circulatory arrest and reduce the number of operation in surgical
management of coarctation and interrupted aortic arch associated with ventricular septal defect, one stage aortic
arch repair and ventricular septal defect closure has been performed using isolated cerebral and lower body
perfusion techniques.
Patients and methods: 32 patients from 4 days to 8 years old has been operated in Nhi Dong 1 hospital
including 24 coarctation of aortas and 8 interrupted aortic arches associated with ventricular septal defect. One
stage repair has been done using isolated cerebral perfusion through innominated artery. If femoral blood pressure
under test clamp is less than 40mmHg, thoracic aortic cannula will be placed and connected to the arterial line by
an Y connector, lower body perfusion technique will be used during the arch repair. Body tempeature was cooled
down to 280C – 320C. Thoracic aortic cannula was removed after arch had been repaired and VSD closure was
performed.
Results: The femoral arterial blood pressure under test clamp was less than 40 mmHg in 26 cases. Except 1
case associated with interrupted IVC needed to cool down 180C and isolated cerebral perfusion, thoracic aortic
cannula was placed to perfuse the lower part body in 25 cases. One early death due to aotic valve damage from
CVP catheter insertion. Mean arch repairing time was 32.5 minutes (24‐45m). Mean CPB time was 184.4
minutes. Mean cross clamp time was 87.3 minutes. Chest open in 09 cases (1‐2 days). Mean ICU stay was 5.5
days. Chylothorax in 3 without surgical intervention. Recurent nerve injury in 2. One right diaphragmatic
paralysis needed surgical plication. No neurological damages. No anastomotic stenosis and normal psychomotor
development in average 22 months follow up.
Conclusions: One stage aortic arch repair and VSD closure shows positive results. Isolated cerebral and
lower body perfusion technique can be easily performed, deep hypothermia circulatory arrest is unnessecsary, and
risk of neurologic complications and other organ dysfuntions can be avoid.
Key words: ventricular septal defect with aortic coarctation, one stage repair, aortic arch repair, circulatory
arrest
thực hiện với kỹ thuật hạ thân nhiệt sâu và
ĐẶT VẤN ĐỀ
ngưng tuần hoàn(23). Kể từ đó đã có những báo
Sửa chữa cung động mạch chủ ở trẻ em
cáo cho kết quả tương đương thậm chí tốt hơn
được áp dụng cho các trường hợp hẹp eo động
so với phẫu thuật nhiều thì(10,11,12). Tuy nhiên, hạ
mạch chủ và gián đoạn động mạch chủ. Hẹp eo
thân nhiệt sâu và ngưng tuần hoàn có nhược
động mạch chủ (ĐMC) chiếm 6,5% các trường
điểm là kéo dài thời gian chạy tuần hoàn ngoài
hợp tim bẩm sinh. Trong đó, 36% các trường
cơ thể vì cần phải có thời gian để hạ nhiệt độ,
hợp hẹp eo động mạch chủ có kèm theo thông
làm ấm bệnh nhân, cũng như tiềm ẩn nguy cơ
liên thất. Gián đoạn động mạch chủ ít gặp hơn
tổn thương ở não đã được ghi nhận(13). Do đó, xu
(1%‐4%) nhưng có tới 95% trường hợp kèm theo
hướng hiện nay là tránh ngưng tuần hoàn bất cứ
thông liên thất. Phẫu thuật kinh điển để điều trị
khi nào có thể. Nghiên cứu của chúng tôi trình
hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn động mạch
bày kết quả ban đầu ứng dụng kỹ thuật mổ
chủ kèm thông liên thất được thực hiện hai thì
không ngưng tuần hoàn sửa chữa cung động
bao gồm thì 1 sửa chữa cung động mạch chủ
mạch chủ và đóng thông liên thất một thì cho
bằng đường bên có hoặc không kèm theo thắt
bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn
hẹp động mạch phổi, thì 2 mở ngực đường giữa
động mạch chủ có kèm thông liên thất.
tháo thắt động mạch phổi và đóng thông liên
thất. Từ năm 1978 phẫu thuật 1 thì sửa chữa hẹp
eo động mạch chủ kèm thông liên thất được
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
163
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
32 bệnh nhân bao gồm 24 bệnh nhân hẹp eo
động mạch chủ kèm theo thông liên thất và 8
bệnh nhân gián đoạn động mạch chủ kèm thông
liên thất được phẫu thuật tại bệnh viện Nhi
Đồng 1 từ tháng 09 năm 2010 đến tháng 6 năm
2013. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định dựa
trên siêu âm tim và CT mạch máu.
Sau khi sửa hẹp eo, chúng tôi tiến hành kẹp
động mạch chủ, cho liệt tim và đóng thông liên
thất. Nếu cung động mạch chủ thiểu sản, cung
động mạch chủ được sửa sau khi cho liệt tim với
miệng nối ở mặt dưới cung động mạch chủ (end
to undersurface anastomosis) (hình 02) và sau
đó đóng lỗ thông liên thất. Trong trường hợp có
đặt cannula động mạch chủ ngực để tưới máu
phần thân dưới cơ thể chúng tôi sẽ rút ra ngay
sau khi cung động mạch chủ đã được sửa chữa.
Kỹ thuật phẫu thuật
Bệnh nhân sau khi gây mê được đặt catheter
động mạch quay phải và động mạch đùi để theo
dõi huyết áp. Mở xương ức đường giữa, lấy bỏ
tuyến ức, bóc tách các nhánh động mạch lên cổ
trước khi mở màng ngoài tim. Sau đó bóc tách
bộc lộ toàn bộ cung động mạch chủ, ống động
mạch, và động mạch chủ xuống sau chổ hẹp.
Kẹp tạm thời chổ hẹp eo động mạch chủ ghi
nhận huyết áp ở động mạch đùi trước khi bắt
đầu tuần hoàn ngoài cơ thể.
Thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể với cannula
động mạch chủ gần chổ chia của động mạch
thân tay đầu hoặc ở động mạch thân tay đầu
thông qua ống gore‐tex, hai cannula tĩnh mạch
chủ trên và dưới. Nếu huyết áp tâm thu động
mạch đùi dưới 40mmHg sau khi kẹp tạm thời
chổ hẹp eo hoặc có bất thường xuất phát động
mạch dưới đòn phải sau chổ hẹp thì chúng tôi
tiến hành đặt thêm 1 cannula động mạch chủ
ngực ngay trên cơ hoành kết nối với đường
động mạch theo hình chữ Y để tưới máu phần
dưới cơ thể.
Thân nhiệt được hạ ở mức 32oC, huyết áp
động mạch quay được duy trì 40 – 45 mmHg
trong thời gian chạy tim phổi nhân tạo hoàn
toàn. Trong trường hợp không có cannula động
mạch chủ ngực thân nhiệt được duy trì ở mức
28oC. Tưới máu não chọn lọc một bên luôn được
thực hiện trong thời gian sửa eo động mạch chủ.
Nếu cung động mạch chủ không thiểu sản,
hẹp eo động mạch chủ được sửa chữa mà không
cần liệt tim với miệng nối tận tận có mở rộng
(extended end to end anastomosis) (hình 01).
164
Hình 1: Miệng nối tận tận
Hình 2: Miệng nối tận bên mặt dưới cung
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 09/2010 đến tháng 06/2013 chúng
tôi đã tiến hành phẫu thuật sửa chữa cung động
mạch chủ và đóng thông liên thất một thì cho 32
bệnh nhân bao gồm 24 trường hợp hẹp eo động
mạch chủ kèm thông liên thất và 8 trường hợp
gián đoạn động mạch chủ có kèm thông liên
thất bao gồm 4 trường hợp type A và 4 trường
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
hợp type B. Tỉ lệ nam/nữ là 14 nam và 18 nữ.
Tuổi trung bình 10 tháng (từ 04 ngày đến 8 tuổi).
Cân nặng trung bình 5,07kg (từ 3,0kg đến
16,5kg). Thiểu sản cung động mạch chủ gặp
trong 21/24 trường hợp hẹp eo động mạch chủ,
tỉ lệ 87,5%. Bất thường xuất phát động mạch
dưới đòn phải 1 trường hợp, tỉ lệ 0,03%. Huyết
áp động mạch đùi sau khi kẹp tạm thời eo động
mạch chủ dưới 40 mmHg gặp trong 26 trường
hợp, tỉ lệ 81,2%. Có 25 trường hợp được đặt
cannula động mạch chủ ngực để tưới máu phần
thân dưới cơ thể, tỉ lệ 78,1%. Một trường hợp bị
gián đoạn tĩnh mạch chủ dưới chúng tôi chọn
phương án hạ thân nhiệt 180C tưới máu não liên
tục, không đặt cannula động mạch chủ ngực.
Thời gian kẹp để sửa chữa eo động mạch chủ
trung bình 32,5 phút, ngắn nhất là 24 phút, dài
nhất là 45 phút. Thời gian chạy tuần hoàn ngoài
cơ thể trung bình 184,4 phút, ngắn nhất là 97
phút, dài nhất là 716 phút. Thời gian kẹp động
mạch chủ và liệt tim trung bình 87,3 phút, ngắn
nhất là 26 phút, dài nhất là 210 phút. Miệng nối
tận tận có mở rộng được thực hiện cho 3 trường
hợp hẹp eo động mạch chủ không có thiểu sản
cung động mạch chủ, miệng nối tận bên mặt
dưới cung động mạch chủ được thực hiện ở 21
trường hợp hẹp eo kèm thiểu sản cung động
mạch chủ. Chênh áp động mạch quay và động
mạch đùi sau khi sửa chữa hẹp eo không đáng
kể ở tất cả các trường hợp. Để hở xương ức
trong 09 trường hợp. Thời gian để hở xuong ức
từ 01 ngày đến 02 ngày. Thời gian hậu phẫu
trung bình 5,5 ngày. Tràn dịch dưỡng trấp xảy
ra ở 3 trường hợp, tất cả đều đáp ứng với điều
trị nội khoa, không có trường hợp nào cần phải
can thiệp phẫu thuật. Liệt thần kinh quặt ngược
xảy ra ở 2 trường hợp, tất cả chỉ biểu hiện khàn
tiếng, không ảnh hưởng đến hô hấp và nuôi ăn
đường miệng. Có 1 trường hợp liệt thần kinh
hoành phải cần phải khâu cơ hoành. Không có
trường hợp nào bị tổn thương tủy sống hay não
sau mổ. Một trường hợp tử vong ngay sau mổ
do tai biến rách van động mạch chủ khi đặt
catheter tĩnh mạch trung tâm nhầm vào động
mạch cảnh chung phải. Thời gian theo dõi trung
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
Nghiên cứu Y học
bình là 22 tháng, không có trường hợp nào hẹp
miệng nối. Tất cả các trường hợp đều phát triển
tâm thần vận động phù hợp với lứa tuổi.
BÀN LUẬN
Phẫu thuật một thì hay nhiều thì:
Hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn động
mạch chủ kèm thông liên thất hiện nay vẫn còn
tranh cãi về phương pháp điều trị. Để lựa chọn
được phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh
nhân chúng ta cần phải dựa trên những đánh
giá chi tiết về tình trạng lâm sàng của bệnh
nhân, giải phẫu của toàn bộ cung động mạch
chủ, và những dị tật khác kèm theo trong tim.
Theo y văn có ba phương thức tiếp cận đối với
bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn
động mạch chủ có kèm thông liên thất bao gồm:
thứ nhất là sửa cung động mạch chủ và đóng
thông liên thất một thì, thứ hai là phẫu thuật hai
thì, và thứ ba là sửa cung động mạch chủ và
theo dõi diễn tiến tự nhiên của thông liên thất.
Sửa cung động mạch chủ và đóng thông liên
thất một thì là phương pháp phức tạp nhất.
Phương pháp này đòi hỏi phải thực hiện cả hai
phẫu thuật sửa chữa cung động mạch chủ và
đóng thông liên thất trong cùng 1 lần mổ qua
đường giữa mở xương ức, luôn phải có tim phổi
nhân tạo, có thể phải hạ thân nhiệt sâu và ngưng
tuần hoàn. Kanter và cộng sự(15) đã báo cáo
phương pháp phẫu thuật sửa chữa một thì bằng
cách mở ngực trái sửa hẹp eo động mạch chủ
sau đó mở ngực đường giữa để đóng thông liên
thất. Phương pháp này có ưu điểm là không cần
phải hạ thân nhiệt sâu và ngưng tuần hoàn, rút
ngắn thời gian chạy tim phổi nhân tạo cũng như
thời gian liệt tim. Tuy nhiên, nhược điểm của
phương pháp này là chúng ta chỉ có thể thực
hiện được đối với những trường hợp không có
thiểu sản cung động mạch chủ, bệnh nhân phải
chịu hai đường mổ ở ngực trái và đường giữa.
Chúng tôi có 3 trường hợp không thiểu sản cung
động mạch chủ được sửa chữa một thì chỉ qua
đường giữa mở xương ức, chúng tôi thực hiện
miệng nối động mạch chủ với tim đập không
cần phải mở ngực trái, không phải hạ thân nhiệt
165
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
sâu ngưng tuần hoàn, cũng như không kéo dài
thời gian liệt tim.
Phẫu thuật hai thì đòi hỏi hai lần phẫu thuật,
hai đường mổ, và tương đối ít phức tạp hơn so
với phẫu thuật một thì. Phẫu thuật hai thì bao
gồm thì một mở ngực trái cắt nối động mạch
chủ và thắt bớt động mạch phổi để giảm lượng
máu lên phổi, thì hai mở xương ức để tháo bỏ
thắt động mạch phổi và đóng thông liên thất.
Chúng tôi không có trường hợp nào phẫu thuật
hai thì vì so với phương pháp một thì của chúng
tôi phương pháp hai thì chưa cho thấy có ưu
điểm nổi bật.
Sửa chữa hẹp eo và sau đó theo dõi diễn tiến
tự nhiên của thông liên thất là phương pháp dựa
trên khả năng tự đóng của thông liên thất. Do
đó, phương pháp này không đòi hỏi phải phẫu
thuật lần hai nếu thông liên thất có thể đóng tự
nhiên, phẫu thuật lần hai chỉ cần thiết sau một
thời gian theo dõi mà lỗ thông liên thất có ảnh
hưởng nặng trên lâm sàng. Bonet D. và cộng
sự(3) đã sử dụng vật liệu thắt bớt động mạch
phổi có thể tự tiêu được trong điều trị hẹp eo
động mạch chủ kèm thông liên thất. Với vật liệu
tự tiêu, nếu sau một thời gian theo dõi lỗ thông
liên thất tự đóng thì không cần phải mổ lại lần
hai để tháo bỏ vòng thắt động mạch phổi.
Theo chúng tôi, lựa chọn phương pháp phẫu
thuật một thì hay nhiều thì tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể. Nếu như lỗ thông liên thất có
khả năng tự đóng hẹp eo động mạch chủ đơn
thuần không có thiểu sản cung động mạch chủ
hoặc gián đoạn động mạch chủ type A thì có thể
sửa cung động mạch chủ qua đường bên và theo
dõi diễn tiến tự nhiên của thông liên thất. Nếu lỗ
thông liên thất lớn hoặc ở những vị trí không tự
đóng được thì nên phẫu thuật một thì sửa chữa
cung động mạch chủ và đóng thông liên thất
qua đường mở xương ức.
Tưới máu não chọn lọc hay hạ thân nhiệt
sâu ngưng tuần hoàn?
Hạ thân nhiệt sâu ngưng tuần hoàn là một
biện pháp để bảo vệ rất tốt tránh tổn thương não
trong trường hợp bắt buộc. Tuy nhiên, não là cơ
166
quan dễ bị tổn thương nhất đối với tình trạng
thiếu oxy, việc ngưng tuần hoàn có thể gây ra
những tổn thương ở não đã được ghi nhận.
Múa vờn có thể xảy ra sớm sau cuộc mổ có
ngưng tuần hoàn ở trẻ em, nếu nhẹ có thể tự
khỏi, một số trường hợp nặng có thể tồn tại vĩnh
viễn sau mổ. Nghiên cứu của Brunberg và cộng
sự(5) ghi nhận múa vờn xảy ra ở 1% ‐ 12% các
trường hợp phẫu thuật có sử dụng kỹ thuật
ngưng tuần hoàn và một vài trường hợp tồn tại
kéo dài sau mổ. Nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận không có trường hợp nào múa vờn xảy ra
sau mổ.
Có 5% ‐ 10% các trường hợp động kinh xảy
ra sớm sau mổ có hạ thân nhiệt và ngưng tuần
hoàn(2,9). Động kinh thường thoáng qua và hồi
phục hoàn toàn nên ít được quan tâm. Tuy
nhiên, nghiên cứu ở Boston cho thấy bệnh nhân
có ghi nhận bị động kinh trên điện não đồ có sự
phát triển kém về tâm thần vận động khi được 1
‐2,5 tuổi(21). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
không có trường hợp nào có biểu hiện động
kinh trên lâm sàng sau mổ, và sự phát triển về
tâm thần vận động bình thường sau thời gian
theo dõi trung bình là 22 tháng
Tưới máu não thông qua động mạch thân
tay đầu đã được thực hiện đầu tiên bởi Asou và
cộng sự năm 1996(1) và sau đó được áp dụng
rộng rãi và ghi nhận có kết quả tốt và an toàn
dựa trên những đánh giá trong mổ thông qua
các phương tiện như siêu âm não, đo độ bão hòa
oxy não (NIRS, INVOS) cũng như những đánh
giá kết quả sau mổ(14,17).
Nghiên cứu của Paul Urbansky và cộng
sự trên 99 bệnh nhân phẫu thuật cung động
mạch chủ cho thấy chỉ có 69 bệnh nhân có cấu
trúc đa giác Willis bình thường, tuy nhiên tất
cả các trường hợp tưới máu não hai bên vẫn
không bị ảnh hưởng khi động mạch cảnh
chung trái được kẹp.
(19)
Mặc dù chúng tôi không có đầy đủ các
phương tiện để theo dõi đánh giá tình trạng tưới
máu não trong lúc mổ nhưng dựa trên những
kết quả đã được ghi nhận trên thế giới chúng tôi
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
đã áp dụng kỹ thuật tưới máu não thông qua
động mạch thân tay đầu cho các trường hợp sửa
chữa cung động mạch chủ phức tạp và ghi nhận
không có trường hợp nào có tai biến và biến
chứng. Chúng tôi thường kiểm tra việc tưới máu
não một bên bằng cách kẹp thử động mạch thân
tay đầu khi đó động mạch cảnh trái giữ vai trò
tưới máu cho não và chúng tôi ghi nhận không
có sự giảm đáng kể huyết áp ở động mạch quay
phải, điều này chứng tỏ tuần hoàn bàng hệ
trong não đảm bảo tưới máu cho hai bên não khi
một trong hai động mạch cảnh chung bị kẹp.
Tưới máu toàn thân hay hạ thân nhiệt sâu
ngưng tuần hoàn?
Liệt hai chi dưới là một biến chứng cực kỳ
nghiêm trọng trong phẫu thuật sửa cung động
mạch chủ và luôn luôn được coi là mối quan
tâm hàng đầu đối với phẫu thuật viên khi thực
hiện phẫu thuật. Mặc dù ít xảy ra nhưng nó để
lại di chứng rất nặng nề. Tần suất được ghi nhận
trong nghiên cứu của Brewer và cộng sự trên
12.532 trường hợp là 0,415%(4). Nghiên cứu của
Keen và cộng sự trên 5.492 bệnh nhân ghi nhận
tần suất liệt tủy là 0,3%(16). Nguyên nhân chính
của biến chứng liệt hai chi dưới là tuần hoàn
bàng hệ không cung cấp đủ máu cho tủy sống
trong khi động mạch chủ bị kẹp. Đã có rất nhiều
báo cáo về những kỹ thuật nhằm tránh biến
chứng liệt hai chi dưới ở những bệnh nhân
không có đủ tuần hoàn bàng hệ bao gồm CPB
bán phần tim trái tức lấy máu từ nhĩ trái bơm
vào động mạch chủ xuống(6,24), CPB với ngưng
tuần hoàn(18), tạo shunt động mạch chủ lên và
động mạch chủ xuống(8), và shunt tạm thời trong
lòng mạch(20). Carl Baker và cộng sự(7) đã báo cáo
11 bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ không đủ
tuần hoàn bàng hệ được phẫu thuật sửa hẹp eo
bằng kỹ thuật CPB bán phần nhĩ trái động mạch
chủ xuống cho thấy đây là kỹ thuật an toàn,
không tai biến biến chứng, và thời gian hồi phục
sau mổ tương đương với mổ kín. Tác giả xác
định tuần hoàn bàng hệ không đủ khi huyết áp
tâm thu động mạch đùi dưới 45mmHg trong khi
kẹp thử động mạch chủ.
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
Nghiên cứu Y học
Chúng tôi sử dụng kỹ thuật tưới máu phần
dưới cơ thể bằng một cannula động mạch chủ
xuống ngay trên cơ hoành được kết nối với
đường động mạch hình chử Y, chúng tôi hạ thân
nhiệt 300C ‐320C, do đó tiêu chuẩn để chọn bệnh
nhân sử dụng phương pháp này là huyết áp
động mạch đùi dưới 40mmHg khi kẹp thử động
mạch chủ. Chúng tôi ghi nhận có 26 trường hợp
huyết áp động mạch đùi dưới 40 mmHg khi kẹp
thử động mạch chủ trong đó có 1 trường hợp
kèm theo gián đoạn tĩnh mạch chủ dưới nên
chúng tôi lựa chọn phương pháp hạ thân nhiệt
sâu và chỉ tưới máu não liên tục, không đặt
cannula động mạch chủ ngực, còn lại 25 trường
hợp được sử dụng kỹ thuật đặt cannula động
mạch chủ ngực để tưới máu phần thân dưới.
Chúng ta biết rằng tuần hoàn bàng hệ vùng
eo động mạch chủ chủ yếu thông qua nhánh
động mạch dưới đòn và các nhánh động mạch
liên sườn (hình) do đó bất thường xuất phát
động mạch dưới đòn phải từ dưới chổ hẹp là
một chỉ định cho kỹ thuật tưới máu phần dưới
cơ thể. Chúng tôi có 1 trường hợp động mạch
dưới đòn phải xuất phát từ động mạch chủ
ngực.
Chúng tôi ghi nhận kỹ thuật đặt cannula
động mạch chủ ngực không khó thực hiện và
không ghi nhận có tai biến hoặc biến chứng nào
liên quan. Ngoài ra chúng tôi nghĩ rằng với
cannula động mạch chủ ngực gan thận luôn
được tưới máu trong quá trình phẫu thuật do đó
chức năng gan và thận luôn được duy trì ổn
định sau mổ, chúng tôi ghi nhận không có
trường hợp nào bị suy thận hoặc thay đổi men
gan sau mổ.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật một thì sửa chữa cung động
mạch chủ và đóng thông liên thất có thể thực
hiện một cách an toàn, hiệu quả, ít tai biến và
biến chứng trong và sau khi mổ. Kỹ thuật tưới
máu não liên tục và kỹ thuật tưới máu phần
dưới cơ thể giúp phẫu thuật được thực hiện một
cách dễ dàng, không cần thiết phải hạ thân nhiệt
sâu và ngưng tuần hoàn, tránh được các nguy cơ
167
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
tổn thương não, tủy sống cũng như các cơ quan
khác trong cơ thể.
13.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
168
Asou T, Kado H, Imoto Y, Shiokawa Y, Tominaga R, Kawachi
Y, et al (1996). Selective cerebral perfusion technique during
aortic arch repair in neonates. Ann Thorac Surg;61:1546–8.
Barratt‐Boyes BG, Neutze JM, Clarkson P, Shardey GC,
Brandt PW(1976). Repair of ventricular septal defect in the
first two years of life using profound hypothermia‐circulatory
arrest techniques. Ann Surg;184:376.
Bonnet D, Patkai J, Tamisier D, Kachaner J, Vouhe P, Sidi D
(1999). A new strategy for the surgical treatment of aortic
coarctation associated with ventricular septal defect in infants
using an absorbable pulmonary artery band. J Am Coll
Cardiol;34:866.
Brewer LA 3rd, Fosburg RG, Mulder GA, Verska JJ (1972).
Spinal cord complications following surgery for coarctation of
the aorta. A study of 66 cases. J Thorac Cardiovasc
Surg;64:368–81.
Brunberg JA, Reilly EL, Doty DB (1974). Central nervous
system consequences in infants of cardiac surgery using deep
hypothermia and circulatory arrest. Circulation;50:II60.
Buckels NJ, Willetts RG, Roberts KD. Left heart bypass in
thesurgery of aortic coarctation in children. Thorax
1988;43:1003–6.
Backer CL, Stewart RD, Kelle AM (2006), Constantine
Mavroudis. Use of Partial Cardiopulmonary Bypass for
Coarctation Repair Through a Left Thoracotomy in Children
Without Collaterals. Ann Thorac Surg;82:964 –72.
Christenson JT, Sierra J, Didier D, Beghetti M, Kalangos A
(2004). Repair of aortic coarctation using temporary
ascending to descending aortic bypass in children with poor
collateral circulation. Cardiol Young;14:39–45.
Clarkson PM, MacArthur BA, Barratt‐Boyes BG, Whitlock
RM, Neutze JM (1980). Developmental progress following
cardiac surgery in infancy using profound hypothermia and
circulatory arrest. Circulation;62:855.
Conte S, Lacour‐Gayet F, Serraf A, Sousa‐Uva M, Bruniaux J,
Touchot A, et al (1995). Surgical management of neonatal
coarctation. J Thorac Cardiovasc Surg;109:663–75.
DeLeon SY, Downey FX, Baumgartner NE, Ow EP, Quinones
JA, Torres L, et al (1994). Transsternal repair of coarctation
and associated cardiac defects. Ann Thorac Surg;58:179–84.
Gaynor JW, Wernovsky G, Rychik J, Rome JJ, DeCampli WM,
Spray TL (2000). Outcome following single‐stage repair of
coarctation with ventricular septal defect. Eur J Cardio‐thorac
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
Surg;18:62–7.
Greeley WJ, Kern FH, Ungerleider RM, Boyd JL, Quill T,
Smith LR, et al (1991). The effect of hypothermic
cardiopulmonary bypass and total circulatory arrest on
cerebral metabolism in neonates, infants and children. J
Thorac Cardiovasc Surg;101:783–94.
Ishino K, Kawada M, Irie H, Kino K, Sano S (2000). Single‐
stage repair of aortic coarctation with ventricular septal defect
using isolated cerebral and myocardial perfusion. Eur J
Cardio‐thorac Surg;17:538–47.
Kanter KR, Mahle WT, Kogon BE, Kirshbom PM (2007). What
is the optimal management of infants with coarctation and
ventricular septal defect? Ann Thorac Surg;84:612‐8.
Keen G (1987). Spinal cord damage and operations for
coarctation of the aorta: aetiology, practice, and prospects.
Thorax; 42:11– 8.
Murthy KS, Coelho R, et al (2003). One‐Stage Repair of
Cardiac and Arch Anomalies Without Circulatory Arrest.
Asian Cardiovasc Thorac Ann;11:250‐254.
Lange R, Thielmann M, Schmidt KG, et al (1997). Spinal cord
protection using hypothermic cardiocirculatory arrest in
extended repair of recoarctation and persistent hypoplastic
aortic arch. Eur J Cardiothorac Surg;11:697–702.
Urbanski PP, Lenos A et al (2008). Does anatomical
completeness of the circle of Willis correlate with sufficient
cross‐perfusion during unilateral cerebral perfusion? Eur J
Cardiothorac Surg;33:402‐408.
Pennington DG, Dennis HM, Swartz MT, et al (1985). Repair
of aortic coarctation in infants: experience with an
intraluminal shunt. Ann Thorac Surg;40:35– 40.
Rappaport LA, Wypij D, Bellinger DC, Helmers SL, Holmes
GL, Barnes PD, et al (1998). Relation of seizures after cardiac
surgery in early infancy to neurodevelopmental outcome.
Boston Circulatory Arrest Group. Circulation;97:773.
Sano S, Mee RBB (1990). Isolated myocardial perfusion
during arch repair. Ann Thorac Surg;49:970–2.
Tiraboschi R, Alfieri O, Carpentier A, Parenzan L (1978). One
stage correction of coarctation of the aorta associated with
intracardiac defects in infancy. J Cardiovasc Surg;19:11.
Wong CH, Watson B, Smith JR, Hamilton AH (2001). The use
of left heart bypass in adult and recurrent coarctation repair.
Eur J Cardiothorac Surg;20:1199 –201.
Ngày nhận bài báo: 27/09/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa