TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI NGÂN HÀNG TMCP
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BIDV – CHI NHÁNH BỈM SƠN.
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT THƯƠNG MẠI
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Họ và tên: Th.S Nguyễn Thái Trường
Họ và tên: Phan Thị Phương Linh
Bộ môn: Luật Chuyên ngành
Lớp: K50P1
Hà Nội, 2018
TÓM LƯỢC
Hợp đồng giữ vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội. Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong
những quan hệ xã hội cụ thể. Hiện nay, phần lớn các quan hệ kinh doanh thương mại
đều được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng. Vì
vậy, ở nước ta, việc ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng là việc làm
thiết yếu, đáng quan tâm và coi trọng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào bản chất của mỗi loại
hợp đồng mà các quy định của pháp luật cũng có sự khác nhau.
Trong số các loại hợp đồng thì Hợp đồng tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng,
nhất là đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay. Nội dung
cơ bản của khóa luận được tóm lược như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín
dụng trong ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương
mại và thực tiễn thực hiện tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV– Chi
nhánh Bỉm Sơn.
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Thực tiễn thực hiện pháp luật
về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm Sơn.”, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy
hướng dẫn khóa luận của tôi, Thầy Nguyễn Thái Trường đã tạo mọi điều kiện, động
viên và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa luận này. Sự hiểu biết sâu sắc về chuyên môn
cũng như kinh nghiệm của thầy chính là tiền đề giúp tôi có được những bài học quý
báu trong suốt quá trình làm khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn các Thầy cô giáo tại Trường Đại học Thương Mại và
ban lãnh đạo Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm Sơn đã
tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn thành tốt bài khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phan Thị Phương Linh
ii
MỤC LỤC
TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................... iii
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:..............................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan:..................................................1
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề cần nghiên cứu...........................................................2
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu:.........................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................4
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp:.........................................................................4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI..........5
1.1. Khái quát chung về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.............5
1.1.1. Khái quát về Hợp đồng tín dụng........................................................................5
1.1.2. Khái quát về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại........................7
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng trong
ngân hàng thương mại.................................................................................................8
1.2.1. Cơ sở ban hành...................................................................................................8
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương
mại................................................................................................................................. 9
1.3. Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương
mại............................................................................................................................... 11
1.3.1. Nguyên tắc tự do, tự nguyện giao kết hợp đồng, bình đẳng và cùng có lợi.. . .11
1.3.2. Nguyên tắc trung thực, công khai, minh bạch.................................................11
1.3.3. Nguyên tắc tuân thủ, thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong hợp
đồng tín dụng..............................................................................................................12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BIDV– CHI NHÁNH BỈM
SƠN............................................................................................................................. 13
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng tới Hợp đồng tín dụng trong
ngân hàng thương mại...............................................................................................13
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng
thương mại.................................................................................................................. 13
iii
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới pháp luật về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng
thương mại.................................................................................................................. 14
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng trong ngân
hàng thương mại........................................................................................................15
2.2.1. Pháp luật về giao kết Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.........15
2.2.2. Pháp luật về thực hiện Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại......24
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng
thương mại tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm
Sơn.............................................................................................................................. 33
2.3.1. Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi
nhánh Bỉm Sơn...........................................................................................................33
2.3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về Hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm Sơn....................................................34
2.3.3. Đánh giá về thực tiễn thực hiện pháp luật về Hợp đồng tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm Sơn...............................37
2.4. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu pháp luật về Hợp đồng tín dụng
trong ngân hàng thương mại.....................................................................................39
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.................................................................42
3.1. Một số quan điểm hoàn thiện quy định của pháp luật về Hợp đồng tín dụng
trong ngân hàng thương mại.....................................................................................42
3.2. Các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.......................................43
3.2.1. Kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về Hợp đồng tín dụng
trong ngân hàng thương mại.....................................................................................43
3.2.2. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về Hợp đồng tín dụng
trong ngân hàng thương mại.....................................................................................45
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................................................48
KẾT LUẬN................................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự
Tổ chức tín dụng
Luật thương mại
Thương mại cổ phần
Hợp đồng tín dụng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước
Hợp đồng tín dụng
BLDS
TCTD
LTM
TMCP
HĐTD
NHTM
NHNN
HĐTD
v
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, tiền là phương tiện thanh toán chủ yếu
trong tất cả các muối quan hệ kinh tế, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển bao nhiêu
thì tốc độ quay vòng của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi chủ
thể trong nền kinh tế không thể tự đáp ứng được nhu cầu về vốn của mình mà họ phải
dựa vào các chủ thể kinh tế khác đặc biệt là Các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ
tín dụng mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn của mình.
Đối với hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng thương mại
nói riêng thì hợp đồng tín dụng được coi là công cụ quan trọng giúp cho hoạt động
kinh doanh tiền tệ diễn ra một cách nhanh chóng và thuận lợi. Do đó, việc xây dựng
một hành lang pháp lý và ban hành các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh hợp đồng
tín dụng là hết sức cần thiết.
Thực tế trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay không thiếu những quy định
về Hợp đồng tín dụng. Các quy định này được thể hiện trong Bộ Luật Dân sự 2015,
Luật Thương mại 2005, Luật Các tổ chức tín dụng 2010, … và nhiều văn bản dưới luật
khác. Những quy định này đã giúp cho hoạt động cho vay tại các ngân hàng ngày càng
phát triển, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, pháp luật về ngân hàng nói
chung và pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng nói riêng vẫn còn một số bất
cập. Đặc biệt, với một hệ thống văn bản pháp luật như vậy, việc tìm hiểu và đảm bảo
tuân thủ tốt các quy định của pháp luật đối với các ngân hàng nói riêng là không hề
đơn giản.
Xuất phát từ những thực tiễn đó tôi đã lựa chọn đề tài: “Thực tiễn thực hiện pháp
luật về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại tại Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển BIDV– Chi nhánh Bỉm Sơn.” làm đề tài khóa luận của mình với mong
muốn tìm hiểu các quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương
mại, đánh giá thực trạng áp dụng và đề ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng tín dụng tại các ngân hàng Việt
Nam hiện nay.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan:
Pháp luật về hợp đồng tín dụng là bộ phận pháp luật có vị trí quan trọng trong
pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Bộ luật Dân sự 2015, Luật Các tổ chức tín dụng
2010 và Luật Thương mại 2005 là các văn bản luật điều chỉnh chính nên sẽ được đề
cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu. Các công trình chủ yếu xoay quanh việc
1
nghiên cứu và phân tích các quy định trong hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín
dụng.
Hiện nay, ở Việt Nam, liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói chung và
hợp đồng tín dụng ngân hàng nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những
khía cạnh khác nhau như: Luận văn thạc sỹ luật học “Chế định bảo đảm hợp đồng tín
dụng ngân hàng – Thực trạng và giải pháp” của Ths.Trần Thu Lan (Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2011). Hay có một số công trình nghiên cứu về HĐTD tại các ngân hàng
nhưng các công trình này chỉ nghiên cứu về các chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký
kết, thực hiện HĐTD tại một TCTD như “Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết,
thực hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông
thôn Láng Hạ" của tác giả Bùi Thị Nga, (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012).
Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về tính pháp lý của
HĐTD như bài viết của tác giả Nguyễn Văn Vân "Mấy vấn đề suy nghĩ về bản chất
pháp lý của hợp đồng tín dụng ngân hàng" đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số
3/2015; bài viết của tác giả Lê Thị Thu Thủy "Bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng
ngân hàng" đăng trên tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 12/2015.
Bên cạnh đó, sau khi BLDS 2015 đã có những công trình nghiên cứu kỹ lưỡng và
so sánh BLDS 2015 với BLDS 2005 và đánh giá, nhận xét mà tiêu biểu trong đó là
“Bình luận Khoa học Những điểm mới Bộ luật Dân sự năm 2015” của PGS.TS Đỗ
Văn Đại (Chủ biên). Công trình này đã chỉ ra những điểm mới và so sánh, đánh giá
những thay đổi của BLDS 2015 mà trong đó đáng chú ý là vấn đề giao kết hợp đồng.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về vấn đề hợp đồng cho vay tại các NHTM vẫn
còn nhiều bỏ ngỏ. Do đó, tôi mong muốn bài nghiên cứu của bản thân có thể đem đến
một khía cạnh mới mẻ và rõ ràng hơn về vấn đề này, vì vậy, tác giả đã quyết định chọn
đề tài “Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương
mại tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm Sơn.” để thể
hiện được những quan điểm, đánh giá riêng của bản thân về hợp đồng tín dụng thông
qua việc tìm hiểu các cơ sở lý thuyết và thực tiễn thực hiện tại một ngân hàng thương
mại cụ thể.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề cần nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân tích một số nội dung pháp luật về hợp đồngtín dụng trong
ngân hàng thương mại, tìm hiểu về điều kiện, nội dung và hình thức của một hợp
đồng tín dụng.
2
Thứ hai, tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng, các
biện pháp bảo đảm, hình thức giải quyết tranh chấp khi thực hiện hợp đồng tín dụng.
Thứ ba, nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật về hợp đồng
tín dụng tại ngân hàng thương mại.
Thứ tư, đánh giá thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp
đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại
Thứ năm, đề ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín
dụng tại ngân hàng thương mại.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Khóa luận xác định đối tượng nghiên cứu là những vấn đề pháp luật về HĐTD
tại NHTM như: Khái niệm HĐTD; đặc điểm của HĐTD; vấn đề giao kết và thực hiện
cùng thực tiễn áp dụng pháp luật về HĐTD trong NHTM tại BLDS 2015, Luật các
TCTD 2010 và LTM 2005. Bên cạnh đó, khóa luận cũng kết hợp phân tích thực tiễn áp
dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm Sơn Trên cơ
sở đó phát hiện ra được những hạn chế, thiếu sót của pháp luật về hợp đồng tín dụng
tại ngân hàng thương mại để có hướng hoàn thiện phù hợp.
4.2. Mục tiêu:
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại, từ đó đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng để đảm bảo thực thi có
hiệu quả các quy định của pháp luật quả trên thực tế, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay. Đồng thời giúp cho các ngân hàng thương mại áp dụng và tuân thủ tốt các
quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu về các nội dung pháp lý liên
quan đến việc thực hiện hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại, chủ yếu tập
trung ở ba văn bản quan trọng, đó là BLDS 2015, Luật các TCTD 2010 và LTM 2005.
Để khóa luận có góc nhìn chân thực hơn, tôi tập trung tìm hiểu thực tiễn thực hiện
pháp luật về hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi
nhánh Bỉm Sơn và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp
đồng tín dụng của ngân hàng.
- Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu các quy định của pháp luật từ thời điểm
năm 2005 cho đến nay và dựa trên tình hình thực tế thực tập tại tại Ngân hàng TMCP
3
Đầu tư và Phát triển BIDV – Chi nhánh Bỉm Sơn cùng với các tài liệu liên quan được
ngân hàng cung cấp trong năm 2016 và năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đề tài tập trung sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thu nhập,
phân tích, suy diễn, tổng hợp.
Ở chương khóa luận sử dụng phương pháp phân tích các vấn đề chung về HĐTD
trong ngân hàng thương mại, đặc điểm, hình thức và nội dung của hợp đồng.
Ở chương 2 khóa luận sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ những quy
định của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng, có sự đối chiếu với luật cũ mà cụ thể
ở đây là Bộ luật Dân sự 2005 qua đó thấy được những điểm mới so với luật cũ cũng
như bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành.
Ở chương 3 khóa luận này, tác giả đã sử dụng phương pháp suy diễn và tổng hợp
ý kiến đã thu thập được để đưa ra những quan điểm, kiến nghị, đóng góp để giải quyết
được các vấn đề còn tồn tại từ phía ngân hàng cũng như trong công tác hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tại Việt Nam.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín
dụng trong ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương
mại và thực tiễn thực hiện tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV– Chi
nhánh Bỉm Sơn.
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Khái quát chung về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái quát về Hợp đồng tín dụng.
1.1.1.1. Khái niệm về Hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại Điều 463 BLDS 2015 thì "Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên
vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và
chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định".
Đối với nghiệp vụ ngân hàng thì cho vay là một hình thức cấp tín dụng. Tại
khoản 16 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010, có hiệu lực từ 01/01/2011 quy định: "Cho
vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi".
Như vậy, có thể hiểu, “Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa
tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do luật định
(bên vay), theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay
sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoán trả cả gốc và lại, dựa
trên sự tín nhiệm".
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định
của Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS). Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong
trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân
hàng thương mại (sau đây gọi chung là ngân hàng).
1.1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) là một dạng của hợp đồng vay, vì vậy nó cũng mang
những đặc điểm của hợp đồng vay tài sản nói chung theo quy định của BLDS 2015.
Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng có những đặc thù so với các hoạt động kinh doanh
khác nên HĐTD cũng có những đặc điểm riêng. Ngoài những đặc điểm chung của mọi
loại hợp đồng, HĐTD còn có một số dấu hiệu đặc trưng sau đây để phân biệt với các
loại hợp đồng khác trong giao dịch dân sự và thương mại.
Trước hết, HĐTD luôn luôn phải được ký kết dưới hình thức văn bản và thường
theo mẫu chung do Ngân hàng ban hành tương ứng với phương thức cho vay. Bên
cạnh đó, theo quy định tại Điều 463 BLDS 2015 thì HĐTD là loại hợp đồng song vụ.
Điều đó có nghĩa là trong HĐTD khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa
5
vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực
hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ các trường hợp hoãn
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra:
Về chủ thể: một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có đủ
điều kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Còn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là
tổ chức, cá nhân thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định.
Về đối tượng: đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền (bao gồm
tiền mặt và bút tệ). Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng
phải là một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ trong văn bản
hợp đồng.
Về mục đích: Hợp đồng tín dụng luôn nhằm mục đích sinh lời (hợp đồng có lãi
suất). Trong giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng, tổ chức tín dụng thu lợi nhuận từ
việc cho khách hàng vay tiền và thu các khoản lãi phát sinh theo hợp đồng vay. Khoản
lợi thu được từ việc cho vay không chỉ nhằm mục đích bù đắp chi phí kinh doanh như:
trả lãi tiền gửi, trả lương nhân viên…mà còn nhằm bù đắp những rủi ro có thể xảy ra
cho tổ chức tín dụng và cũng có thể là rủi ro của người gửi tiền. Vì vậy, việc thu hồi
lợi nhuận không chỉ xuất phát từ lợi ích của tổ chức tín dụng mà còn xuất phát từ lợi
ích của ngời gửi tiền và lợi ích của toàn xã hội.
Về tính rủi ro: hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền
lợi của bên cho vạy. Sở dĩ như vậy là vì theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho
vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay
càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: trong HĐTD, nghĩa vụ chuyển giao tiền
vay (nghĩa vụ giải ngân) của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước, làm
cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay. Do đo, chỉ khi nào
bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng hợp đồng tín
dụng cho bên vay thì khi đó họ với có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa
vụ đối với mình.
1.1.1.3. Phân loại Hợp đồng tín dụng
*Căn cứ vào thời hạn vay
- HĐTD ngắn hạn: Loại HĐTD này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng
để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân.
- HĐTD trung hạn: Loại HĐTD trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay
từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc
đầu tư vào tài sản cố định như: đầu tư mua máy móc trang thiết bị …
6
- HĐTD dài hạn: là các khoản vay có thời hạn vay từ trên 60 tháng trở lên. Mục
đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ, đầu tư vào các dự án đầu tư. Thời
gian thu hồi vốn của các chủ thể có nhu cầu vay là tương đối lâu do các chủ thể này
phải có thời gian kinh doanh lâu dài như: vay vốn để đầu tư xây dựng khách sạn để
kinh doanh, xây dựng cơ sở sản xuất…
*Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay.
- HĐTD có bảo đảm bằng tài sản: là sự thỏa thuận giữa TCTD với khách hàng
vay, theo đó TCTD cho khách hàng vay vốn với điều kiện phải có tài sản cầm cố, thế
chấp của bên vay hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba để bảo đảm cho việc thực hiện
nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
- HĐTD không có đảm bảo bằng tài sản: là sự thỏa thuận cho khách hàng vay
vốn không kèm theo điều kiện bên vay phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc được bảo
lãnh bằng tài sản mà chỉ dựa vào uy tín khách hàng.
*Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay.
- HĐTD với mục đích vay vốn kinh doanh: đây là HĐTD mà trong đó các bên
cam kết số tiền vay sẽ được bên vay sử dụng vào mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh của mình.
- HĐTD với mục đích vay tiêu dùng: đây là HĐ TD mà trong đó các bên cam
kết số tiền vay sẽ được bên vay sử dụng vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu
dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa.
*Căn cứ vào chủ thể ký kết.
Dựa theo dấu hiệu chủ thể ký kết hợp đồng, có thể phân chia HĐTD thành:
-HĐTD được ký kết giữa TCTD với cá nhân, hộ gia đình.
- HĐTD được ký kết giữa TCTD với tổ chức kinh tế là pháp nhân (các doanh
nghiệp, hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, …)
Ngoài các căn cứ để phân loại HĐTD như trên, thì theo các quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới còn phân loại HĐTD theo một số căn cứ khác. Có thể
thấy, việc phân loại HĐTD không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn cả về thực tiễn.
Trên cơ sở phân loại HĐTD, các nhà làm luật có thể xây dựng những quy chế cho vay
phù hợp hơn với hoạt động của các TCTD nói chung và các ngân hàng thương mại nói
riêng.
1.1.2. Khái quát về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010 thì: “Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
7
Như vậy, có thể hiểu, ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế chuyên thực
hiện các hoạt động trong ngân hàng về các lĩnh vực cung cấp tiền tệ, dịch vụ tài chính
giữa khách hàng và ngân hàng hoặc ngược lại.
Các hoạt động trong ngân hàng như: huy động nguồn vốn, cho vay, chiết khấu,
bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.
Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại chủ yếu là nhận tiền gửi và cho vay
vốn đầu tư. Tuy nhiên cũng có những thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của khách
hàng, khoa học kỹ thuật kinh tế và xã hội. Nhờ có các ngân hàng thương mại mà các
chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước được thực hiện một cách nhanh chóng và kịp
thời hơn, từ đó việc kiểm soát các hoạt động của các doanh nghiệp được dễ dàng, theo
đúng luật pháp hơn.
1.1.2.2. Khái niệm Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định
của Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp
bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) trong ngân hàng thương mại chính là hợp đồng cho
vay của ngân hàng thương mại. Theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng
khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp
tín dụng.
Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì hợp đồng tín dụng sẽ là hợp
đồng thương mại. Nếu bên vay là cá nhân, thì hợp đồng tín dụng sẽ là hợp đồng dân
sự.
HĐTD trong ngân hàng thương mại phải có nội dụng về điều kiện vay, mục đich
sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình
thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được
các bên thoả thuận.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng
trong ngân hàng thương mại.
1.2.1. Cơ sở ban hành.
*Cơ sở chính trị.
Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao và là công cụ của chính phủ
trong việc tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp và góp phần chuyển dịch cơ cấu
nền kinh tế. Bên cạnh đó, cấp tín dụng còn được coi là công cụ quan trọng để thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Kể từ khi gia nhập WTO, ký kết Hiệp định Đối tác
8
xuyên Thái Bình Dương (TPP) cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì mối quan hệ
chính trị giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới cũng có nhiều thay đổi, đặc biệt
là trong lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ.
Do đó, đối với các hoạt động liên quan đến ngân hàng, các hoạt động cấp tín
dụng mà trong đó bao gồm các loại hợp đồng như hợp đồng tín dụng Nhà nước cần
xây dựng những quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng để điều chỉnh, quản lý, cũng như
đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan trong nền kinh tế.
*Cơ sở kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, tín dụng ngày càng phát triển
cả về nội dụng lẫn hình thức. Các quan hệ tín dụng ngày càng được mở rộng hơn, ban
đầu là quan hệ giữa các cá nhân với nhau, sau đó là giữa cá nhân với tổ chức, tổ chức
với tổ chức, quan hệ với nhà nước và cao nhất là tín dụng quốc tế. Trong quá trình phát
triển lâu dài đó quan hệ tín dụng đã hình thành và phảt triển qua nhiều hình thức khác
nhau. Hiện nay, trong các ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay là hoạt động cấp
tín dụng phổ biến nhất. Hợp đồng tín dụng là tiền đề, cơ sở để hình thành mối quan hệ
tín dụng giữa các cá nhân, tổ chức có nhu cầu vay tiền với các tổ chức tín dụng trong
đó có ngân hàng thương mại.
Vì vậy, việc ban hành các quy định của pháp luật về ngân hàng nói chung và hợp
đồng tín dụng là rất cần thiết. Nó không chỉ đảm bảo quá trình hoạt động của các ngân
hàng thương mại diễn ra thuận lợi mà còn góp phần quan trọng, thúc đẩy nền kinh tế
nước ta ngày càng phát triển.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng
thương mại.
Hợp đồng tín dụng là một loại hợp đồng không thể thiếu đối với hoạt động kinh
doanh của một ngân hàng thương mại. Hiểu rõ và tuân thủ tốt các quy định của pháp
luật về hợp đồng tín dụng giúp cho các ngân hàng thực hiện hợp đồng một cách an
toàn, nhanh chóng và hiệu quả hơn, hạn chế những sai sót, tranh chấp không đáng có,
tránh gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Nội dung liên quan đến hợp đồng tín
dụng bao gồm các vấn đề cơ bản như giao kết và thực hiện hợp đồng.
Trước hết là vấn đề giao kết hợp đồng. HĐTD là loại hợp đồng dân sự theo quy
định của BLDS 2015, vì vậy, loại hợp đồng này cũng phải đảm bảo các điều kiện về
giao kết hợp đồng như một hợp đồng cho vay thông thường. Về nguyên tắc, HĐTD
được hình thành trên cơ sở đề nghị giao kết hợp đồng từ bên vay (cá nhân, tổ chức, hộ
kinh doanh, doanh nghiệp …) và sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng từ phía bên
cho vay là ngân hàng hoặc các TCTD khác. Điều đó có nghĩa là, HĐTD sẽ không
được xác lập nếu chỉ có sự đề nghị của bên vay hoặc sự chấp nhận đề nghị từ bên cho
9
vay. Tuy nhiên các chủ thể cần nhận thức rằng khác với các giao kết hợp đồng dân sự
thông thường, giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình bao gồm nhiều khâu như:
Đề nghị vay vốn và lập hồ sơ tín dụng; Thẩm định hồ sơ tín dụng; Quyết định cho vay;
Đàm phán các điều khoản trong hợp đồng và ký kết hợp đồng.
Đối với hợp đồng tín dụng, thời điểm xác lập hợp đồng là một nội dung rất
quan trọng. Như đã nói ở trên, hợp đồng tín dụng là một phần trong số hợp đồng dân
sự nên thời điểm giao kết hợp đồng được BLDS 2015 điều chỉnh. Theo quy định của
BLDS đó có thể là thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết, thời điểm các
bên đã thỏa thuận hoặc thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay các hình thức chấp
nhận khác.
Ngoài ra, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng cũng là vấn đề được pháp
luật điều chỉnh. HĐTD chỉ phát sinh hiệu lực pháp lí khi thỏa mãn các điều kiện do
pháp luật quy định, nếu hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện này thì vô hiệu.
Hợp đồng tín dụng được biết đến là một loại giao dịch dân sự, do đó điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự cũng chính là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng này. Điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng bao gồm: điều kiện về chủ thể; điều kiện về nội
dung; điều kiện về hình thức, … Nếu không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện nêu
trên thì hợp đồng tín dụng sẽ không có hiệu lực.
Tiếp theo là vấn đề về thực hiện hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
Trong quan hệ hợp đồng tín dụng luôn tồn tại ít nhất hai mối quan hệ giữa bên vay và
bên cho vay. Trong đó giữa hai chủ thể có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Quyền lợi
của chủ thể này chính là nghĩa vụ của chủ thể kia. Trong mối quan hệ đó chủ thể nào
cũng có quyền lợi nhất định, nhưng bên cạnh đó cũng phải đảm bảo những nghĩa vụ cụ
thể. Việc thực hiện các nghĩa vụ và được đảm bảo về quyền lợi chính là cơ sở pháp lý
để cho hợp đồng tín dụng diễn ra bình thường trên thị trường tài chính.
Cùng với đó là trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm hợp đồng tín dụng.
Khi vi phạm hợp đồng trong hoạt động tín dụng, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm
trước bên bị vi phạm thông qua các hình thức trách nhiệm gọi là chế tài. Các chế tài
thương mại được áp dụng là để khôi phục về mặt vật chất cho bên bị vi phạm hoặc là
để ngăn ngừa thiệt hại hay có ý nghĩa trừng phạt về mặt vật chất đối với bên vi phạm
hợp đồng. Do đó, các chế tài xử lý vi phạm này được các bên áp dụng cho các vi phạm
xuất hiện từ lúc ký kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng.
Cuối cùng, theo quy định pháp luật thì các bên phải thực hiện đúng và đủ các
nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực
hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, để hạn chế rủi ro cũng như phòng
tránh các tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, các biện pháp
10
bảo đảm và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là những nội dung không thể
thiếu trong hợp đồng tín dụng tại các ngân hàng thương mại. Để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện kinh doanh cho
các ngân hàng thương mại, việc gia tăng các biện pháp bảo đảm và giải quyết các
tranh chấp là vô cùng quan trọng.
1.3. Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng
thương mại.
1.3.1. Nguyên tắc tự do, tự nguyện giao kết hợp đồng, bình đẳng và cùng có lợi.
Tự do giao kết hợp đồng là nguyên tắc cơ bản của giao kết hợp đồng nói chung.
Theo đó, dù thiết lập quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực nào (dân sự, thương mại hay lao
động), các chủ thể đều được tự do về mặt ý chí, không có chủ thể nào có quyền áp đặt
ý chí để bắt buộc hay ngăn cản chủ thể khác giao kết hợp đồng và trong hợp đồng tín
dụng tại các ngân hàng thương mại cũng vậy. Quyền tự do GKHĐ được thể hiện trong
pháp luật hợp đồng khá nhất quán trong cả BLDS 2015 và LTM 2005. Theo đó, các
chủ thể có quyền bằng ý chí độc lập, tự do của chính mình giao kết hợp đồng. Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý rằng, mọi quyền tự do trong xã hội có Nhà nước đều phải đặt
trong khuôn khổ pháp luật, không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ
tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên. Ngoài ra, mọi
hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ buộc ký kết hợp đồng tín dụng cũng là điều kiện làm
vô hiệu hợp đồng. Bên cạnh sự tự do tự nguyện giao kết, cần thiết đảm bảo sự bình
đẳng trong mối quan hệ giữa các chủ thể khi tham gia hợp đồng tín dụng. Theo đó, bên
cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình (quyền lợi của bên vay và bên cho vay), các
chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích
của toàn xã hội.
1.3.2. Nguyên tắc trung thực, công khai, minh bạch.
Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, trung thực được coi là kim chỉ nang cho mọi
hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong các hợp đồng tín dụng. Tất cả các giao kết hợp
đồng cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối. Cả bên cho
vay và bên vay đều phải trung thực trong tất cả các nội dung thông tin liên quan đến
giao kết hợp đồng tín dụng. Mục đích của nguyên tắc trung thực là giảm chi phí đánh
giá rủi ro và ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng.
Theo nguyên tắc này, bên biết thông tin quan trọng liên quan đến hợp đồng tín
dụng mà mình tham gia sẽ phải thông báo cho bên đối tác về thông tin đó. Phạm vi của
nguyên tắc áp dụng cho cả ngân hàng và khách hàng. Theo đó, bên ngân hàng có trách
nhiệm cung cấp thông tin cho khách hàng về các giao dịch, được quyền ấn định và
phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong
11
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó có hoạt động giao kết hợp đồng tín
dụng. Phía khách hàng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đảm bảo tính trung thực
của các thông tin cần thiết để giao kết hợp đồng theo yêu cầu của ngân hàng, trên
cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các hoạt động liên quan
đến giao kết, thực hiện hợp đồng tín dụng đều phải đảm bảo công khai, minh bạch
để các bên tham gia hợp đồng cùng được biết để tránh tình trạng rủi ro hoặc các hành
vi trục lợi khác
1.3.3. Nguyên tắc tuân thủ, thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong
hợp đồng tín dụng.
Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên,
bảo đảm tin cậy lẫn nhau là một trong những nguyên tắc quan trọng khi tham gia hợp
đồng tín dụng tại các ngân hàng thương mại. Về nguyên tắc, hợp đồng tín dụng là sự
thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng cụ thể ở đây là ngân hàng thương mại
(bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do luật định (bên vay), theo đó
ngân hàng sẽ thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định, với điều kiện có hoán trả cả gốc và lại, dựa trên sự tín nhiệm. Như vậy, về
bản chất, hợp đồng tín dụng là một loại hợp đồng cho vay nhằm mục đích sinh lời từ
khoản vay của khách hàng. Ngân hàng cho khách hàng vay tiền trong một khoản thời
hạn ấn định và khách hàng có nghĩa vụ thanh toán khoản tiền vay cùng lãi suất vay
theo điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Bởi thế, nếu một trong hai bên
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình sẽ gây ảnh hưởng lớn đến bên còn lại. Ví
dụ trong trường hợp quá thời hạn cho vay nhưng khách hàng vẫn không trả đủ số tiền
đã vay kèm với khoản tiền lãi như trong hợp đồng, điều này sẽ gây bất lợi đối với phía
ngân hàng cho vay. Nếu khách hàng vay ở đây là khách hàng lớn như doanh nghiệp, số
tiền vay lên đến hàng tỷ đồng và doanh nghiệp không có khả năng thanh toán thì đây
là một khoản nợ xấu của ngân hàng. Nếu tình trạng nợ xấu kéo dài, ngân hàng thậm
chí có thể rơi vào tình huống phá sản. Hoặc việc ngân hàng không chịu giải ngân sớm
cũng có thể gây ảnh hưởng đến công việc của khách hàng. Bởi vậy, khi giao kết
HĐTD các bên cần đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc về đảm bảo tuân thủ đầy đủ
quyền và nghĩa vụ theo các điều khoản trong hợp đồng.
12
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TRONG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI NGÂN HÀNG
TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BIDV– CHI NHÁNH BỈM SƠN.
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng tới Hợp đồng tín dụng
trong ngân hàng thương mại.
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng
thương mại.
Qúa trình hội nhập và phát triển đã tạo nên những thay đổi mạnh mẽ trong nền
kinh tế của nước ta. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã đem lại những thành tựu quan
trọng, trong đó hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng là “kênh tín dụng chủ yếu
đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế” và kênh tín dụng này đã góp phần đáng kể vào
nhịp độ tăng trưởng GDP ở mức khá cao trong nhiều năm qua của đất nước ta. Đây là
thành quả của hệ thống các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, mà trước hết là của các ngân
hàng thương mại nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt
động ngân hàng nói chung muốn phát triển bền vững phải nâng cao năng lực cạnh
tranh trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và áp dụng các chuẩn
mực, thông lệ tốt của thế giới. Vì vậy, Nhà nước cần phải có một khung pháp lý vững
chắc để điều chỉnh các hoạt động thương mại nói chung và hoạt động tín dụng theo
đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà
Sự ra đời của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, BLDS 2015, Luật thương mại
2005 đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung,
trong đó hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại. Song, để hiểu đúng những
quy định của pháp luật trong từng lĩnh vực hoàn toàn không đơn giản và để thực hiện
đúng, hành xử đúng quy định của pháp luật phải trên cơ sở hiểu đúng nội dung quy
định của pháp luật. Trên thực tế, có rất nhiều tranh chấp phát sinh từ hoạt động cấp tín
dụng ngân hàng, mà phần lớn các tranh chấp đó đều xuất phát từ các hợp đồng tín
dụng. Thông thường, các tranh chấp từ hợp đồng tín dụng có liên quan đến thỏa thuận
về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên tham gia. Do đó có thể thấy việc quy định
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng một cách chi tiết và chặt
chẽ không chỉ tạo sự yên tâm cho cả ngân hàng và khách hàng, mà còn hạn chế những
tranh chấp, rủi ro không đáng có trong thực tiễn hoạt động kinh doanh cấp tín dụng.
Việc quy định như vậy thể hiện ràng buộc đối với các bên khi thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với bên còn lại giúp cho các bên có ý thức tôn trọng hợp đồng.
13
Cùng với sự chuyển biến không ngừng của nền kinh tế, các hoạt động cấp tín
dụng cũng có nhiều đổi mới. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập và các vi phạm liên quan đến hợp đồng tín dụng ở các ngân hàng thương
mại. Bởi vậy, cần thiết phải loại bỏ những quy định không phù hợp và có những thay
đổi về pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng tín dụng. Để quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng được thuận lợi, để đảm bảo hoạt động cấp tín
dụng của các ngân hàng thương mại diễn ra trôi chảy, góp phần tích cực vào phát triển
của nền kinh tế, các quy định của pháp luật cần phải được hoàn thiện hơn, cụ thể, rõ
ràng, kịp thời, phù hợp và chính xác hơn.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới pháp luật về Hợp đồng tín dụng trong ngân
hàng thương mại.
2.1.2.1. Nhân tố chủ quan.
Nhân tố con người
Lênin từng chỉ rõ rằng, con người là nhân tố quyết định, làm biến đổi thế giới
bằng chính những hành động thực tiễn của mình. Con người là nhân vật trung tâm của
xã hội, là chủ thể chân chính sáng tạo ra mọi giá trị vật chất - tinh thần để phục vụ lại
chính đời sống của mình. Con người là nhân tố quan trọng, có vai trò quyết định mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung hay các ngân hàng nói
riêng. Nhờ có chiến lược kinh doanh hợp lý, sự am hiểu, nhạy bén với thị trường và
bản lĩnh của người lãnh đạo, hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại sẽ diễn ra
thuận lợi và hiệu quả. Tiếp đó, kiến thức và năng lực của đội ngũ nhân viên là yếu tố
quyết định đến việc triển khai hoạt động kinh doanh tại ngân hàng. Đây là đội ngũ trực
tiếp tham gia giao dịch, kí kết, triển khai các Hợp đồng tín dụng ngân hàng, thực hiện
chăm sóc khách hàng và giám sát các hoạt động sau khi giao kết. Do đó, họ giữ vai trò
đặc biệt quan trọng, quyết định đến cả hoạt động trước và sau khi giao kết hợp đồng
tín dụng.
Nguồn tài chính
Tài chính vốn là nhân tố cực kỳ quan trọng và quyết định đến sự tồn tại của
ngân hàng cũng như hoạt động tín dụng. Nguồn tài chính dồi dào sẽ đảm bảo sự
hình thành các hợp đồng tín dụng. Đặc trưng hoạt động của ngân hàng chính là luân
chuyển các dòng tiền trong xã hội. Hợp đồng tín dụng là cơ sở để tạo lập mối quan hệ
giữa ngân hàng (bên cho vay) và khách hàng (bên vay). Những người có nhu cầu về tiền
và vốn sẽ được đáp ứng nhu cầu của mình thông qua các hợp đồng tín dụng tại ngân
hàng thương mại. Nguồn tài chính chính là nguồn lực đảm bảo hoạt động của ngân hàng
diễn ra trôi chảy, giúp ngân hàng áp dụng nhiều mức ưu đãi, các điều khoản có lợi đối
với khách hàng tham gia hợp đồng tín dụng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh.
14
2.1.2.2. Nhân tố khách quan.
Nhân tố kinh tế
Gia nhập WTO, kí kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP đã mở ra
nhiều cơ hội và nhanh chóng làm thay đổi bộ mặt kinh tế nước ta. Nhờ đó, các hoạt
động liên quan đến tín dụng ngân hàng cũng có sự thay da đổi thịt, trên đà tang trưởng
mạnh mẽ. Để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế, các giao dịch ngân hàng mà
trong đó, các hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng diễn ra liên tục và thường xuyên.
Do đó, việc các hoạt động liên quan đến hợp đồng tín dụng được quy định cụ thể trong
các văn bản pháp luật là cần thiết. Các hoạt động kinh tế như kí kết hợp đồng tín dụng
cần được thực hiện theo quy định của pháp luật, cùng với đó, pháp luật cũng cần có sự
điều chỉnh sao cho phù hợp với sự phát triển của các loại hình hợp đồng tín dụng trong
ngân hàng, đảm bảo hiệu quả và góp phần phát triển nền kinh tế.
Nhân tố môi trường pháp luật
Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, sự cân bằng các chính sách của nhà
nước, vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ, sự điều tiết và
khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế xã hội, hệ thống pháp luật
có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại. Các chính
sách bao gồm luật, các văn bản dưới luật tạo ra một hành lang pháp lý cho các ngân
hàng thương mại thực hiện các hoạt động kinh doanh. Mọi hoạt động kinh doanh tiền
tệ nói chung hay giao dịch thông qua các hợp đồng tín dụng nói riêng đều phải dựa
trên những quy định của pháp luật. Các ngân hàng thương mại có quyền được pháp
luật bảo vệ, đồng thời có nghĩa vụ và trách nhiệm phải chấp hành các quy định của
pháp luật, phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, với xã hội và với người
lao động như thế nào là do pháp luật quy định (trách nhiệm nộp thuế, trách nhiệm đảm
bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp, tuân thủ các quy định khi thực hiện hợp đồng…).
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh Hợp đồng tín dụng trong
ngân hàng thương mại.
2.2.1. Pháp luật về giao kết Hợp đồng tín dụng trong ngân hàng thương mại.
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ
và pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín
dụng bao gồm các giai đoạn nhất định.
2.2.1.1. Đề nghị giao kết Hợp đồng tín dụng.
Về bản chất, HĐTD được coi như một loại hợp đồng cho vay trong dân sự.
Hiện nay, Luật các TCTD 2010 không có quy định cụ thể đề nghị giao kết HĐTD
15
trong NHTM, cho nên, vấn đề đề nghị giao kết HĐTD này vẫn chịu sự điều chỉnh bởi
BLDS 2015.
Điều 386 BLDS 2015 quy định phạm vi lời đề nghị như sau: “Đề nghị giao kết
hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị
này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi
chung là bên được đề nghị”. Cụ thể đó là quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ
ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau xác
lập những quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Theo đó, đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng trong NHTM là hành vi pháp lý do
một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể
hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Về cơ bản, khi một bên muốn thiết lập một HĐTD thì ý muốn đó phải thể hiện ra
bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có như vậy, phía đối tác mới có thể
nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết hợp đồng. Do
đặc thù riêng của ngân hàng việc giao kết HĐTD tại NHTM có những trình tự và thủ
tục riêng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy
tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng
vốn vay. Những thông tin trong giấy đề nghị vay do ngân hàng cung cấp có giá trị như
một lời đề nghị của khách hàng, thể hiện ý định muốn giao kết hợp đồng tín dụng của
họ với ngân hàng. Giấy đề nghị vay và các tài liệu này do bên vay gửi cho NHTM để
xem xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết HĐTD. đề nghị vay
vốn là khâu đầu tiên trong quá trình giao kết hợp đồng tín dụng tại ngân hàng thương
mại. Đây được coi là cơ sở để các ngân hàng xem xét để lập hồ sơ khách hàng, từ đó
tiến hành thẩm định hồ sơ và quyết định có cho vay hay không.
Thực tiễn giao kết HĐTD ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, có
nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là NHTM chứ
không phải là khách hàng. Đối tượng mà NHTM hướng đến đề nghị giao kết có thể là
khách hàng “đã được xác định” hoặc “công chúng” tức đối tượng không xác định cụ
thể (ví dụ: NHTM chỉ đưa ra lời mời cho vay với lãi suất ưu đãi thông qua website
hoặc áp phích quảng cáo). Đó được coi là phương thức mới nhằm tăng cường khả
năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Trong trường hợp này, văn bản đề
nghị là thư chào mời được NHTM gửi cho tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính
mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là những
khách hàng tiềm năng) mà NHTM lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề
16
nghị (tổ chức tín dụng) thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm
theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư
chào mời có thể không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực
tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư
chào mời đó thì không vì thế mà HĐTD được coi là đã hình thành.
Việc đề nghị giao kết HĐTD được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Bên đề
nghị (khách hàng) có thể trực tiếp (đối mặt) với bên được đề nghị (ngân hàng) để trao
đổi, thoả thuận hoặc có thể thông qua điện thoại… Bên cạnh đó, đề nghị giao kết còn
có thể được thực hiện bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện. Tuy
nhiên, trong hoạt động cấp tín dụng, đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng được thực
hiện bằng cách thức trực tiếp tại ngân hàng.
Thời điểm đề nghị giao kết HĐTD có hiệu lực được xác định do bên đề nghị ấn
định hoặc khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Lời đề nghị giao kết hợp đồng
chưa phải là hợp đồng nhưng đã có tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Tuy
nhiên, theo Điều 389 Bộ luật Dân sự 2015 thì bên đề nghị vẫn có thể thay đổi hoặc rút
lại đề nghị trong trường hợp bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị hoặc bên đề
nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều kiện đó đã đến.
Ngoài ra, nếu như bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng
trước đó thì được coi là hình thành nên một đề nghị mới. Trường hợp hủy bỏ đề nghị
giao kết hợp đồng thì theo, bên đề nghị phải thông báo cho bên được đề nghị trước khi
bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2.2.1.2. Chấp nhận đề nghị giao kết Hợp đồng tín dụng trong NHTM.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị
và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với người đã đề nghị. Thời hạn chấp nhận
nhận giao kết hợp đồng được hiểu như sau (Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015): “ Khi
bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi
được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được
trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của
bên chậm trả lời”.
Căn cứ theo quy định trên, chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD trong NHTM là
hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức
gửi cho bên kia với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó,
hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên
bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các
bên. Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau
khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản
17
của hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản
tùy nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản
hợp đồng tín dụng.
Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách
quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp
nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không
đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị. Trường hợp khi các bên trực tiếp giao
tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua phương tiện khác thì bên
được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Ngoài ra, khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn
trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn
hợp lý.
Chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD sẽ là thông báo của bên được đề nghị chuyển
cho bên đề nghị về việc chấp thuận toàn bộ nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết hợp
đồng. Thời hạn chấp nhận được tính từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng được
chuyển đi cho bên được đề nghị đến hết thời hạn chấp nhận đề nghị được ghi trong đề
nghị giao kết hợp đồng. Thời điểm chấp nhận là thời điểm thông báo chấp nhận đề
nghị được chuyển cho bên đề nghị. BLDS 2015 đã bổ sung thêm về thời hạn trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng khi bên đề nghị không rõ thời hạn trả lời như sau: “Khi
bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu
được thực hiện trong một thời hạn hợp lý”. Thông thường, khi NHTM nhận được đề
nghị giao kết hợp đồng từ khách hàng, ngân hàng đó sẽ đưa ra một khoảng thời gian
hợp lý để trả lời đề nghị.
Và như vậy, nếu bên được đề nghị ở đây là ngân hàng sẽ được coi là chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng sau khi có thông báo chính thức cho bên đề nghị
(bên khách hàng) về quyết định của mình trong một khoảng thời gian nhất định. Thông
báo này được đưa ra dựa trên cơ sở kết quả thẩm định hồ sơ tín dụng, đánh giá tính
khả thi, hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và khả năng hoàn
trả của khách hàng. Sau khi thực hiện đầy đủ những nghiệp vụ ngân hàng kể trên, ngân
hàng phải ra quyết định và thông báo cho khách hàng về quyết định chấp nhận đề nghị
giao kết của mình. Trong trường hợp quyết định không chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng tín dụng, NHTM phải nêu rõ lý do từ chối.
2.2.1.3. Thời điểm xác lập Hợp đồng tín dụng trong NHTM.
Việc giao kết hợp đồng tín dụng không có quy định riêng, do đó, quy định tại
BLDS 2015 về thời điểm giao kết hợp đồng được lấy làm cơ sở pháp lý để xác định
thời điểm xác lập hợp đồng tín dụng trong NHTM.
18
Theo Điều 400 BLDS 2015 quy định về thời điểm giao kết hợp đồng như sau:
“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận
giao kết.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng
của thời hạn đó.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận
về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào
văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.”
Như vậy, thời điểm xác lập hợp đồng tín dụng được xác định khác nhau tùy thuộc
vào cách thức giao kết. Tuy nhiên, theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng 2010,
mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý.
Bởi vậy, trong hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay, kí kết hợp đồng bằng văn bản là
hình thức kí kết hợp đồng chủ yếu.
Do đó, thông thường, thời điểm xác lập hợp đồng tín dụng trong NHTM phổ
biến nhất chính là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. Đó là cơ sở hình thành nên
mối quan hệ ràng buộc giữa các bên thông qua bản hợp đồng tín dụng và cũng là cơ sở
để chứng thực việc giao kết HĐTD giữa các bên tại NHTM.
2.2.1.4. Điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng tín dụng trong NHTM.
Để HĐTD có hiệu lực thì hợp đồng đó phải đáp ứng được những điều kiện nhất
định theo quy định của pháp luật. Luật các TCTD 2010 không có điều khoản cụ thể
nào quy định về điều kiện có hiệu lực của HĐTD. Do đó, ngoài những quy định tại Luật
các TCTD, việc xác định các điều kiện sẽ dựa trên các quy định của BLDS 2015 (Điều
117 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự) và các văn bản khác có liên quan như
Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng của NHNN Việt Nam để làm căn cứ.
*Điều kiện về chủ thể
Trên cơ sở quy định của Luật Các TCTD 2010 về chủ thể tham gia hợp đồng tín
dụng tại NHTM, chủ thể giao kết HĐTD bao gồm bên cho vay (là NHTM) và bên đi
vay (các tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định). Các chủ thể này khi
tham gia giao kết HĐTD cần phải thỏa mãn những điều kiện được pháp luật quy định.
Theo quy định tại Luật Các TCTD 2010, một NHTM muốn trở thành chủ thể cho
vay trong HĐTD phải thoả mãn các điều kiện sau: Có giấy phép thành lập và hoạt
động do Ngân hàng Nhà nước cấp; Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y; Có
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp; Có người đại diện đủ năng lực và
19