Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vai trò của cộng hưởng từ tăng quang động trong chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến tiền liệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.22 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

VAI TRÒ CỦA CỘNG HƯỞNG TỪ TĂNG QUANG ĐỘNG
TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN TIỀN LIỆT
Trần Doãn Khắc Việt*, Lâm Thanh Ngọc*, Nguyễn Quang Thái Dương*, Hồ Quốc Cường*,
Trần Lê Linh Phương**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, ung thư tuyến tiền liệt là một trong 10 loại ung thư thường gặp ở nam giới.
Những năm trước đây, ung thư tuyến tiền liệt được chẩn đoán bằng các phương pháp khác nhau, tuy nhiên mỗi
phương pháp còn các mặt hạn chế. Ngày nay cộng hưởng từ đặc biệt cộng hưởng từ tăng quang động
(CHTTQĐ) hiện là phương pháp rất có giá trị trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt.
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu là xác định vai trò của cộng hưởng từ tăng quang động trong chẩn đoán
ung thư tuyến tiền liệt, đặc biệt phân biệt tổn thương ung thư và không ung thư của tuyến tiền liệt.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian 5/2015 – 4/2016, có 32 bệnh nhân có PSA cao
được chụp CHTTQĐ tuyến tiền liệt. Kết quả được đối chiếu với kết quả sinh thiết siêu âm qua ngã trực tràng
(TRUS). Chúng tôi so sánh hai nhóm (ung thư/UT và không ung thư/KUT) với các biến: thời gian bắt
thuốc”khởi đầu”, thời gian đạt đỉnh bắt thuốc, tín hiệu mô đỉnh bắt thuốc, tỷ lệ ngấm thuốc… Phân tích đường
cong ROC để tìm ngưỡng các giá trị trong phân biệt UT và KUT.
Kết quả: Tuổi bệnh nhân từ 52 đến 94 (trung bình 73±11 tuổi). 6 bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh KUT
(19%), 26 bệnh nhân UT (81%). Đường cong bắt thuốc của nhóm UT chủ yếu là dạng cao nguyên (dạng có sự
thải thuốc). Trung bình tín hiệu mô đỉnh bắt thuốc của nhóm KUT và UT lần lượt là 229.5 ± 20.5 và 304.9 ±
19.1. Trung bình tỷ lệ ngấm thuốc của nhóm KUT và UT lần lượt là 1.2 ± 0.4/giây and 8.4 ± 1.1/giây. Trung
bình các giá trị của tổn thương UT thấp hơn có ý nghĩa so với tổn thương KUT (p<0,05). Trên đường cong ROC,
với ngưỡng của giá trị tín hiệu mô tại đỉnh bắt thuốc và tỷ lệ ngấm thuốc là 246,45 và 3,354/giây, CHTTQĐ cho
độ nhạy 80,8 – 92,3% và độ đặc hiệu 66,7 – 100%.
Kết luận: Cộng hưởng từ tăng quang động có thể sử dụng phân biệt mô lành và mô ác của tuyến tiền liệt
với độ chính xác cao.
Từ khoá: Ung thư tuyến tiền liệt, không ung thư, tăng quang động, cộng hưởng từ tăng quang động, siêu


âm qua ngả trực tràng

ABSTRACT
THE ROLE OF DYNAMIC CONTRAST ENHANCEMENT IN THE DETECTION OF PROSTATE
CANCER
Tran Doan Khac Viet,Lam Thanh Ngoc, Nguyen Quang Thai Duong, Ho Quoc Cuong,
Tran Le Linh Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 116 - 121
Background: In Vietnam, prostate carcinoma (PCa) is one of the most ten common cancer in men. In
previous years, PCa is evaluated by different modalities but each technique has its limitation. Nowadays, MR
imaging especially dynamic contrast enhancement is the very useful technique for the detection PCa.
Purpose: The aim of study was to determine the role of dynamic contrast enhancement (DCE) in diagnosis of
PCa especially for differentiating benign from malignant lesion of the prostate.
* Bộ môn CĐHA – Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
** Bệnh viện Vinmec Nha Trang
Tác giả liên lạc: BSNT. Trần Doãn Khắc Việt
ĐT: 0972005715
Email:

116

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Materials and methods: During a period of 5/2015 – 4/2016, 32 consecutive patients with elevated PSA
level were evaluated with DCE – MRI of the prostate. The results were confirmed by TRUS-guided biopsy. We
compare two groups (prostate carcinoma/PCa and prostate non-carcinoma/PNCa) by semi – quantitative variants

of DCE – MRI: onset time, TPE, MSI, wash – in rate,… Analyzing ROC curve to find the value of DCE – MRI’s
variants in differentiating benign from malignant tissue of the prostate.
Results: Patients ranged in age from 52 to 94 years (mean 73±11 years). 6 patients were confirmed to have
PNCa (19%), whereas 26 patients had PCa (81%). Dynamic curve of Pca is initial upslope and decline (wash-out
type). The mean of MSI values for PNCa and PCa were 229.5 ± 20.5 and 304.9 ± 19.1 respectively. The mean of
wash – in rate values for PNCa and Pca were 1.2 ± 0.4/second and 8.4 ± 1.1/second. The mean values of PCa was
significantly lower than PNCa (p<0.05). On ROC curve, using the discrimination threshold of MSI and wash –
in rate are 246.45 and 3.354/s, by using separated values, the DCE – MRI provided a sensitivity of 80.8 – 92.3%,
specificity of 66.7 – 100%.
Conclusions: Dynamic contrast enhancement of the prostate can be used to differentiate benign from
malignant tissue of the prostate with high accuracy.
Key words: Prostatic carcinoma, non-carcinoma, dynamic contrast enhancement, DCE – MRI, TRUS
điểm hình ảnh của ung thư tuyến tiền liệt trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
CHTTQĐ, (2) xác định giá trị của CHTTQĐ
Trên thế giới ung thư tuyến tiền liệt là loại
trong phân biệt tổn thương ung thư và không
ung thư thường gặp đứng hàng thứ hai ở nam
ung thư của tuyến tiền liệt.
giới. Tại Việt Nam, ung thư tuyến tiền liệt là một
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
trong 10 loại ung thư thường gặp ở nam giới.
Ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện và
chẩn đoán bằng thăm khám trực tràng (DRE),
kháng nguyên đặc hiệu cho tuyến tiền liệt trong
máu (PSA), siêu âm tuyến tiền liệt qua ngả trực
tràng (TRUS) và sinh thiết…. Tuy nhiên, các
nghiên cứu cho thấy PSA không đặc hiệu cho
ung thư tuyến tiền liệt hay 40% ung thư tuyến
tiền liệt không phát hiện với TRUS(4,5). Chụp

cộng hưởng từ (CHT) có giá trị cao hơn trong
chẩn đoán, phân biệt lành ác, đánh giá giai đoạn
u. Các kỹ thuật CHT gồm: CHT thường qui, phổ,
tưới máu, khuếch tán, tăng quang động.
CHTTQĐ cung cấp những thông tin về đường
cong bắt thuốc, thời gian bắt thuốc”khởi đầu”,
thời gian đạt đỉnh bắt thuốc, giá trị tín hiệu mô
tại đình bắt thuốc, tỷ lệ ngấm thuốc…từ đó ghi
nhận các thay đổi bất thường của mô bệnh lý so
với bình thường. Nhiều nghiên cứu cho thấy
CHTQĐ có khả năng phát hiện ung thư tuyến
tiền liệt với độ chính xác cao(9). Ở Việt Nam, việc
sử dụng CHTTQĐ trong chẩn đoán ung thư
tuyến tiền liệt vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
Mục đích nghiên cứu nhằm: (1) khảo sát đặc

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Đối tượng chọn mẫu
Những bệnh nhân được thực hiện sinh thiết
tuyến tiền liệt dưới hướng dẫn siêu âm qua ngã
trực tràng tại bệnh viện Đại Học Y Dược và có
chụp CHTTQĐ tuyến tiền liệt từ ngày 01/05/2015
– 30/04/2016. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân đã
điều trị ung thư tuyến tiền liệt, hình ảnh
CHTTQĐ không đủ kĩ thuật.

Phương pháp nghiên cứu
Mô tả, loạt ca.
Khảo sát thực hiện trên máy MRI 3 Tesla,

Verio, Siemens tại bệnh viện Đại học Y Dược
TpHCM. Phần mềm xử lý: Syngo.via worstation.
Protocol chụp: chuỗi xung tăng quang động 35
lượt, mỗi lượt 7 giây. Thời gian tổng cộng 4 phút
5 giây. Đánh giá định tính, tổn thương được xem
ung thư là đường cong bắt thuốc thuộc loại tăng
”cao nguyên”. Đánh giá bán định lượng bằng
tính thời gian bắt thuốc”khởi đầu”, thời gian đạt
đỉnh bắt thuốc, tín hiệu mô đỉnh bắt thuốc, tỷ lệ
ngấm thuốc. Đo ở phần mô có tín hiệu thấp trên
T2W, tăng tín hiệu trên hình DWI hay giảm tín

117


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

hiệu trên bản đồ ADC, tránh các vùng nang, hoại
trử, xuất huyết. Phân tích và đánh giá so sánh
với kết quả giải phẫu bệnh tương ứng các vị trí
sinh thiết, so sánh giữa hai nhóm: tổn thương
ung thư và không ung thư. Xử lý số liệu bằng
phần mềm SPSS 22.
Các biến số khảo sát: tuổi, giới, kích thước
tuyến, vị trí tổn thương (tuyến ngoại vi, tuyến
trung tâm), thời gian bắt thuốc”khởi đầu”,
thời gian đạt đỉnh bắt thuốc, tín hiệu mô đỉnh
bắt thuốc, tỷ lệ ngấm thuốc. Phân tích đường

cong ROC các biến số giữa KUT và UT để rút
ra giá trị ngưỡng với độ nhạy, độ đặc hiệu.
Các phép kiểm được xem là có ý nghĩa thống
kê khi p < 0,05.

KẾT QUẢ

tuổi. Nhóm KUT: 76 ± 12 tuổi, nhóm UT: 72 ± 10
tuổi (p=0,356, T – test). Giải phẫu bệnh: 6 ca KUT
(19%), 26 ca UT (81%). Nhóm không ung thư
gồm: tăng sản tuyến lành tính (33,3%), viêm
tuyến mạn tính (16,7%), tăng sản lành tính kèm
viêm mạn tuyến (33,3%) và tân sinh trong biểu
mô tuyến tiền liệt (16,7%).
Thể tích trung bình tuyến của nhóm KUT:
67,5 ml và UT: 37,9 ml (p=0.043, Mann Whitney).
Về vị trí, tổn thương ở tuyến trung tâm đều là
KUT, ở tuyến ngoại vi đều là UT, ở tuyến ngoại
vi và trung tâm, 93,3% UT và 6,7% KUT. Vị trí
tổn thương và khả năng ung thư có liên quan ý
nghĩa với nhau (p=0,012, Fisher).

Đặc điểm cộng hưởng từ tăng quang động
Đánh giá định tính của CHTTQĐ

Đặc điểm chung
Từ 5/2015 đến 4/2016, có 32 bệnh nhân thoả
điều kiện chọn mẫu. Tuổi trung bình: 73 ± 11

Hình 1. Các loại đường cong bắt thuốc

Bảng 1. Đặc điểm đường cong bắt thuốc

xác của CHTTQĐ lần lượt là 88,5%, 66,7%, 92%,

Đường cong
Loại 1
Loại 2
Loại 3
Tổng cộng

54,1% và 90,6%.

Ung thư Không ung thư Tổng cộng
1 (3,8%)
4 (66,7%)
5
2 (7,7%)
0
2
23 (88,5%)
2 (33,3%)
25
26 (100%)
6 (100%)
32

Bảng 2. Đặc điểm cộng hưởng từ tăng quang động
Cộng hưởng từ
tăng quang động
Dương tính (đường

cong loại 3)
Âm tính (đường
cong loại 1+2)
Tổng

Đánh giá định lượng với các giá trị
của CHTTQĐ.
Bảng 3. Thời gian để tín hiệu mô bắt thuốc”khởi đầu”
Thời gian bắt thuốc”khởi đầu” Ung thư Không ung thư
Trung vị (lượt xung)
5,5
7,5

Ung thư

Không ung
thư

Tổng

23 (92%)

2 (8%)

25 (100%)

nhóm (p=0,055, Mann Whitney).

3 (42%)


4 (58%)

7 (100%)

Bảng 4. Thời gian để tín hiệu mô đạt đỉnh bắt thuốc

26

6

32

Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai

Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán
dương tính, giá trị tiên đoán âm tính và độ chính

Thời gian đỉnh bắt thuốc
Trung vị (lượt xung)
Nhanh nhất
Chậm nhất

Ung thư Không ung thư
9
33,5
5
9
34
35


Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm

118

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
ung thư và không
Mann Whitney).

ung

thư

(p=0,002,

Nghiên cứu Y học

đặc hiệu là 100%, diện tích dưới đường
cong là 0,97.

Biểu đồ 1. Giá trị tín hiệu mô tại đỉnh bắt thuốc
Giá trị trung bình của nhóm ung thư là 304,9
± 19,1 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không

Biểu đồ 3. Đường cong ROC giá trị tín hiệu mô tại
đỉnh bắt thuốc.

ung thư là 229,5 ± 20,5 (p=0,043, Mann Whitney).


Biểu đồ 4. Đường cong ROC tỷ lệ ngấm thuốc

BÀN LUẬN
Biểu đồ 2. Tỷ lệ ngấm thuốc
Giá trị trung bình của nhóm ung thư là 8,4 ±
1,1 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không ung
thư là 1,2 ± 0,4 (p<0,001, Mann Whitney).

Đường cong ROC
Ngưỡng tín hiệu mô đỉnh bắt thuốc của tổn
thương là 246,45 (> 246,45 là ung thư) với độ
nhạy là 80,8%, độ đặc hiệu là 66,7%, diện tích
dưới đường cong là 0,77.
Ngưỡng giá trị tỷ lệ ngấm thuốc của tổn
thương là 3,354/giây (tỷ lệ ngấm thuốc >
3,354/giây là ung thư) với độ nhạy là 92,3%, độ

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 73 ±
11 tuổi, từ 52 đến 94 tuổi, tương đồng với tác giả
Minh trong nước hay tác giả Tamada (2011),
Rinaldi (2012)(1,8). Tỉ lệ phân bố các phân nhóm
giải phẫu bệnh của nghiên cứu chúng tôi khá
tương đồng với một số nghiên cứu gần đây như
của Miao (2007), Tamada (2011), Aydin (2012)(1)...
Thể tích trung bình tuyến tiền liệt của mẫu
nghiên cứu là 41,6 ± 21,5 mL, giá trị trung bình
cũng như sự chênh lệch này cũng được ghi

nhận tương ứng tác giả Minh (2015)(8). Ung
thư xuất hiện ở nhóm tuyến có kích thước nhỏ
hơn so với lành tính (tăng sản…) là điều cần

119


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

lưu ý. Ung thư thường thấy khi tổn thương ở
vùng tuyến ngoại vi.

đặc hiệu 39%)(9), Zelhof (2009) (độ nhạy: 82%, độ
đặc hiệu 72%)(10).

Dựa vào hình ảnh đường cong bắt thuốc của

Trong các chỉ số bán định lượng của
CHTTQĐ, tỷ lệ ngấm thuốc là một chỉ số quan
trọng và rất có hiệu quả trong phát hiện ung thư
tuyến tiền liệt(3,10). Ứng dụng trong nghiên cứu,
chúng tôi ghi nhận tỷ lệ ngấm thuốc trung bình
của UT cao hơn hẳn so với KUT, tỷ lệ lần lượt là
8,4/giây (0,8 – 22.2) và 1,47/giây (0,6 – 3,1), sự
khác biệt rất có ý nghĩa giữa hai nhóm (p <
0,001). Chúng tôi cũng phân tích đường cong
ROC tìm ra ngưỡng giá trị 3,354/giây với độ
nhạy cao 92,3%, độ đặc hiệu đạt 100%, giá trị tiên

đoán dương tính là 100% và giá trị tiên đoán âm
tính là 75%., tương đồng với nhận xét của y văn
hay tương đồng tác giả Kim (2005) (độ nhạy
96%, độ đặc hiệu 82%)(3).

tổn thương để đánh giá định tính phân biệt tổn
thương UT và KUT trên CHTTQĐ. Tổn thương
kết luận ung thư khi hình ảnh đường cong loại 3
(đường cong có sự thải thuốc), nghiên cứu cho
kết quả độ nhạy tương đối cao 88,5%, tuy nhiên
độ đặc hiệu còn chưa cao 54,1%. So sánh với các
nghiên cứu từ năm 2007 đến 2011 của các tác giả
Ocak, Ito, Sung cũng tương đồng với các tác giả,
đồng thời y văn cũng ghi nhận độ nhạy và đặc
hiệu của cộng hưởng từ tăng quang động trong
chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt cũng dao động
lần lượt từ 46 – 96 % và 74 – 96 %(9).
Về chỉ số thời gian tín hiệu mô bắt
thuốc”khởi đầu”, UT nhỏ hơn so với KUT. Tuy
nhiên không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai
nhóm. Sự khác biệt so với nghiên cứu của tác giả
Jager (1997) hay Engelbrecht (2003) có thể được
lý giải do sự khác biệt về đơn vị thời gian khảo
sát, cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ mà độ nhạy của dấu
hiệu lại thấp (64% - tác giả Sung 2011)(7), tuy
nhiên kết quả của nghiên cứu chúng tôi đồng
quan điểm với tác giả Padhani (2000)(6). Về thời
gian tín hiệu mô đạt đỉnh bắt thuốc, UT đạt đỉnh
bắt thuốc sớm hơn có ý nghĩa so với KUT (9 lượt
so với 33,5 lượt tương ứng 72,8 giây so với 186,9

giây), tương đồng với tác giả Preziosi (2003) và
Rouviere (2003)(9).
Về giá trị tín hiệu mô đạt đỉnh bắt thuốc,
nhóm UT là 304,9 cao hơn so với nhóm KUT là
229,5, sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm. Các
nghiên cứu của tác giả Padhani và Engelbrecht
cũng cho nhận định tương tự(2,6). Đường cong
ROC phân tích ngưỡng giá trị tín hiệu mô đạt
đỉnh bắt thuốc là 246,45, nhằm phân biệt giữa hai
nhóm UT và KUT với độ nhạy là 80,8 % và độ
đặc hiệu là 66,7 %. Kết quả tương đồng các
nghiên cứu khác: Sung (2011) (độ nhạy: 83%, độ

120

Như vậy, kết hợp đánh giá định tính và
các chỉ số bán định lượng, CHTTQĐ là
phương pháp rất có giá trị giúp phân biệt tổn
thương UT và KUT ở tuyến tiền liệt.
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn có các hạn chế:
mẫu nhỏ, mẫu không phải ung thư còn ít,
cộng hưởng từ tăng quang động liên quan yếu
tố tuần hoàn hệ thống và tại chỗ nên cần xét
thêm các bệnh lý nền kèm theo… Cuối cùng,
sự trùng lắp giữa vùng đánh giá CHTTQĐ và
vị trí sinh thiết không phải lúc nào cũng chính
xác hoàn hoàn.
Bệnh nhân N. T. L., nam, 77 tuổi, PSA =
21,87 ng/mL, kết quả giải phẫu bệnh ung thư
tuyến tiền liệt, Gleason 8 điểm. hình T2W cho

thấy tổn thương giảm tín hiệu ở vùng ngoại vi
bên (P), tổn thương có hạn chế khuếch tán
(tăng tín hiệu trên DWI, b800 và giảm tín hiệu
trên bản đồ ADC). Đường cong bắt thuốc 2 tại
vị trí nghĩ không UT thuộc loại 1, đường cong
bắt thuốc 1 tại vị trí tổn thương thuộc loại 3 –
có sự thải thuốc, đỉnh bắt thuốc 271,7
(>246,45), tỷ lệ ngấm thuốc là 6,8/giây
(>3,345/giây), chẩn đoán ung thư trên hình
ảnh CHTTQĐ.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Hình 2. Minh họa một trường hợp trong nghiên cứu

KẾT LUẬN
Từ các kết quả của nghiên cứu, chúng tôi rút
ra kết luận hình ảnh đường cong động học và tỷ
lệ ngấm thuốc là chỉ số rất tốt và cộng hưởng từ
tăng quang động là phương pháp giá trị trong
chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt.

6.

7.


8.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.
5.

Chen J, Liu R, Tan P (2014),”The value of diffusion-weighted
imaging in the detection of prostate cancer: a meta-analysis".
European Radiology, 24 (8), pp. 1929-1941.
Engelbrecht MR, Huisman HJ, et al. (2003),”Discrimination of
prostate cancer from normal peripheral zone and central
gland tissue by using dynamic contrast-enhanced MR
imaging". Radiology, 229 (1), pp. 248-54.
Kim JK, Hong SS, Choi YJ, et al. (2005),”Wash-in rate on the
basis of dynamic contrast-enhanced MRI: usefulness for
prostate cancer detection and localization". J Magn Reson
Imaging, 22 (5), pp. 639-46.
Mottet N,Van dBRCN, et al. (2015),”Guidelines on prostate
cancer", European Association of Urology.
Nguyễn Hoàng Đức, Trần Lê Linh Phương (2006),”Chẩn
đoán và phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt". Tạp chí Y học
Tp Hồ Chí Minh, 10 (2), tr. 72.


Chuyên Đề Ngoại Khoa

9.

10.

Padhani AR, Gapinski C J, et al. (2000),”Dynamic contrast
enhanced MRI of prostate cancer: correlation with
morphology and tumour stage, histological grade and PSA".
Clin Radiol, 55 (2), pp. 99-109.
Sung YS, Kwon HJ, et al. (2011),”Prostate cancer detection on
dynamic contrast-enhanced MRI: computer-aided diagnosis
versus single perfusion parameter maps". AJR Am J Roentgenol,
197 (5), pp. 1122-9.
Trịnh Lê Hồng Minh (2015),”Giá trị của cộng hưởng từ
khuếch tán trong chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến tiền liệt",
luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú, Đại học Y Dược Thành Phố
Hồ Chí Minh.
Verma S, Turkbey B, et al. (2012),”Overview of dynamic
contrast-enhanced MRI in prostate cancer diagnosis and
management". AJR Am J Roentgenol, 198 (6), pp. 1277-88.
Zelhof B, Lowry M, Rodrigues G, Kraus S, Turnbull L
(2009),”Description of magnetic resonance imaging-derived
enhancement variables in pathologically confirmed prostate
cancer and normal peripheral zone regions". BJU Int, 104 (5),
pp. 621-7.

Ngày nhận bài báo:

18/11/2016


Ngày phản biện nhận xét bài báo:

04/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017

121



×