Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kết quả phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng theo Abol-Enein tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.96 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TẠO HÌNH BÀNG QUANG BẰNG HỒI TRÀNG
THEO ABOL-ENEIN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Thái Kinh Luân*,**, Phạm Đức Minh*, Quách Đô La**, Thái Minh Sâm*,**, Ngô Xuân Thái*,**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Tác giả Abol-Enein đã phát triển kỹ thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng vừa tạo ra bàng
quang tân tạo có áp lực thấp vừa có cơ chế chống ngược dòng khi cắm lại niệu quản để bảo vệ đường tiết niệu
trên. Chúng tôi báo cáo kết quả phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng theo Abol-Enein tại bệnh viện
Chợ Rẫy.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là báo cáo mô tả hàng loạt trường hợp. Tất cả bệnh nhân
ung thư bàng quang (UTBQ) được chỉ định cắt bàng quang tận gốc, tạo hình bàng quang bằng hồi tràng và cắm
lại niệu quản theo phương pháp Abol-Enein tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/01/2012 đến 31/12/2017. Các biến số
ghi nhận gồm: tuổi, giới tính, BMI, giai đoạn UTBQ, chỉ số creatinin huyết thanh. Kết quả phẫu thuật gồm thời
gian phẫu thuật, lượng máu mất, các biến chứng sớm phẫu thuật, chức năng thận, khả năng kiểm soát nước tiểu,
tỷ lệ ngược dòng bàng quang – niệu quản, hẹp niệu quản, tỷ lệ tái phát và tử vong.
Kết quả: 33 trường hợp (TH) được phẫu thuật tạo hình bàng quang tân tạo theo phương pháp Abol-Enein.
Độ tuổi trung bình 57,4  9,6 (39-81) tuổi. Tỷ lệ nam nữ 28/5TH. Chỉ số khối cơ thể trung bình 21,1  2,2 (16,624,9). Thời gian phẫu thuật trung bình 407,7  108,2 phút, lượng máu mất trung bình 562,1  351,5 ml. Tỷ lệ
biến chứng trong thời gian nằm viện là 39,3%, không có TH nào suy thận cấp sau mổ. Theo dõi 22/33 TH, thời
gian theo dõi trung bình là 31,4  22,1 tháng. Chức năng thận thay đổi không đáng kể trước và sau mổ. Một TH
suy thận trong quá trình theo dõi, 1TH tái phát sau 10 tháng. Hai TH tử vong sau mổ 3 tháng và 4 tháng, 1 TH
tử vong do ung thư, 1 TH tử vong không do ung thư. Kiểm soát nước tiểu ban ngày 90%, ban đêm 55%. Tỷ lệ
ngược dòng bàng quang – niệu quản 5,1% và tỷ lệ hẹp niệu quản 2,6% số đơn vị thận – niệu quản.
Kết luận: Phẫu thuật tạo hình bàng quang theo phương pháp Abol-Enein là một phương pháp an toàn và
hiệu quả. Kết quả cho thấy đây là một lựa chọn tốt cho bệnh nhân được cắt bàng quang do UTBQ.
Từ khóa: tạo hình bàng quang bằng hồi tràng, Abol-Enein

ABSTRACT


RESULTS OF ORTHOTOPIC ILEAL NEOBLADDER WITH ABOL-ENEIN PROCEDURE AT CHO RAY
HOSPITAL
Thai Kinh Luan, Pham Duc Minh, Quach Do La, Thai Minh Sam, Ngô Xuân Thái
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 63-69
Objective: Abol-Enein has introduced the serous-lined extramural technique for ureteral
reimplantation in orthotopic ileal bladder substitution, creating not only low pressure neobladder but also
antireflux mechanism in ileoureteral conjunction. We report the results of Abol-Enein ileal neobladder at
Cho Ray hospital.
Materials and Methods: All cases were performed Abol-Enein orthotopic ileal bladder substitution
following radical cystectomy from 1/2012 to 12/2017 at Cho Ray hospital. We analyze the demographic data,
BMI, preoperative and postoperative serum creatinin, operative time, estimated blood loss, complications,
continence rate, vesicoureteral reflux and ureteral stricture rate.
*Bộ môn Tiết Niệu Học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Bệnh viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Đức Minh
ĐT: (+84) 937 392 789
Email:

Chuyên Đề Ngoại Khoa

63


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Results: Mean age 57.4  9.6, ratio of male/female 28/5, mean BMI 21.1  2.2 kg/m2. Mean operative
time was 407.7  108.2 minutes, estimated blood loss was about 562.1  351.5 ml. Early complications was
39.3%, no acute renal failure. Twenty two patients ware followed up, mean follow up was 31.4  22.1

months. Preoperative and postoperative serum creatinin did not change stastically. One case had renal
failure. Recurrence was observed in 1 case after 10 months. Two cases died after 3 months and 4 months,
including 1 case due to cancer and 1 case due to another cause. Daytime continence was 90%, nighttime
continence was 55%. Ureteral reflux was observed in 2 renal units (5.1%), ileoureteral stricture in 1 renal
unit (2.6%).
Consclusions: Orthotopic ileal neobladder with Abol-Enein procedure is safe and brings many benefits.
This is a considerable choice for patient with radical cystectomy due to bladder cancer.
Keywords: ileal orthotopic neobladder, Abol-Enein

ĐẶT VẤN ĐỀ

đến 31/12/2017.

Ung thư bàng quang (UTBQ) đứng thứ 9
trong các loại ung thư phổ biến trên thế giới,
trong đó giai đoạn xâm lấn cơ chiếm từ 20% đến
35%(20,29) với phương pháp điều trị chủ yếu là cắt
bàng quang tận gốc. Phẫu thuật tạo hình bàng
quang bằng ruột dần thay thế những hình thức
chuyển lưu khác và trở thành điều trị tiêu chuẩn
ở nhiều trung tâm lớn trên thế giới(22), vừa có thể
thay thế chức năng bàng quang vừa đảm bảo
chất lượng cuộc sống.

Các biến số ghi nhận gồm: tuổi, giới tính,
BMI, giai đoạn UTBQ, chỉ số creatinin huyết
thanh. Kết quả phẫu thuật gồm thời gian phẫu
thuật, lượng máu mất, các biến chứng sớm phẫu
thuật, chức năng thận, khả năng kiểm soát nước
tiểu, tỷ lệ ngược dòng bàng quang – niệu quản,

hẹp niệu quản, tỷ lệ tái phát và tử vong.

Phương pháp tạo hình bàng quang phải đảm
bảo các yêu cầu: tiểu có kiểm soát, dung tích
bàng quang đủ lớn với áp lực thấp và cơ chế
chống ngược dòng để bảo vệ đường tiết niệu
trên(1,3,22). Tác giả Abol-Enein đã phát triển kỹ
thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng với
nhiều ưu điểm: thứ nhất là xếp ruột hình chữ W
để tạo thành hình cầu áp lực thấp, thứ hai là tạo
đường hầm ngoài thanh mạc khi cắm lại niệu
quản để tạo ra cơ chế chống ngược dòng. Hiệu
quả của phương pháp đã được báo cáo thông
qua một số nghiên cứu, tuy nhiên những nghiên
cứu tại Việt Nam còn hạn chế. Chúng tôi báo cáo
những kết quả đã đạt được của phẫu thuật tạo
hình bàng quang theo phương pháp Abol-Enein.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Báo cáo mô tả hàng loạt trường hợp. Tất cả
bệnh nhân UTBQ được chỉ định cắt bàng quang
tận gốc và được tạo hình bàng quang bằng hồi
tràng và cắm lại niệu quản theo phương pháp
Abol-Enein tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/01/2012

64

Quy trình phẫu thuật: Sau khi cắt bàng
quang, nạo hạch chậu, chọn đoạn cuối hồi tràng
cách gốc hồi manh tràng 20cm, biệt lập một đoạn

40 – 45 cm, tạo hình chữ W theo Hautmann. Tạo
đường hầm kiểu thành ngoài thanh mạc bằng
cách khâu thanh mạc ruột của 2 cánh bên chữ W
bằng Vicryl 3.0, chiều dài đường hầm gấp 5 lần
đường kính niệu quản. Nối miệng niệu quản
vào đỉnh đường hầm khi niệu quản đủ dài.
Trường hợp niệu quản không đủ dài, khâu 2 vạt
ruột phía dưới trước, sau đó mới cắm niệu quản
vào ruột. Mở rộng miệng niệu quản hình vát để
tránh hẹp miệng nối niệu quản – ruột, khâu niệu
quản – ruột bằng Vicryl 4.0. Đặt thông niệu quản
2 bên. Khâu 2 ngành bên của chữ W bằng Vicryl
3.0. Nối niệu đạo – bàng quang tân tạo tại đỉnh
chữ W trên ống thông Benique 20 – 24 French.
Khâu mặt trước bàng quang tân tạo bằng Vicryl
3.0, mở bàng quang ra da bằng Pezzer 24Fr,
khâu 2 nòng niệu quản vào thông Pezzer.
Các biến số được phân tích bằng phần
mềm thống kê SPSS 22.0, khác biệt có ý nghĩa
khi p<0,05.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ


nhau có ý nghĩa thống kê, p=0,219>0,05.

Trong thời gian nghiên cứu từ 1/2012 đến
12/2017, tại bệnh viện Chợ Rẫy, có 33 trường
hợp được phẫu thuật tạo hình bàng quang tân
tạo theo phương pháp Abol-Enein. Độ tuổi
trung bình 57,4  9,6 (39-81) tuổi. Nam giới
chiếm ưu thế với 28/33 TH (84,8%), nữ giới
chiếm 5/33 TH (15,2%). Chỉ số khối cơ thể
trung bình 21,11  2,22 (16,65-24,97).

Lượng máu mất ước tính chung là 562,12 
351,57 ml, trong đó lượng máu mất trung bình
của nhóm mổ mở là 552,08  330,84 ml, nhóm
PTNS cắt bàng quang, tạo hình ngoài cơ thể là
585,71  429,84 ml, bệnh nhân được PTNS hoàn
toàn trong ổ bụng có lượng máu mất là 200 ml
và trường hợp mổ nội soi có hỗ trợ robot là 1000
mL. Mổ mở và PTNS cắt bàng quang, tạo hình
ngoài cơ thể có lượng máu mất khác nhau không
có ý nghĩa thống kê, p=0,826>0,05.

Giai đoạn ung thư trước phẫu thuật, không
có TH nào ở giai đoạn T1, có 26 TH (78,8%) ở
giai đoạn T2 và 7 TH (21,3%) giai đoạn T3. Kết
quả giải phẫu sau mổ bệnh có 1 TH giai đoạn Ta,
10 TH (30,3%) giai đoạn T1, 18 (54,5%) giai đoạn
T2, 1 TH (3%) giai đoạn T3 và 3 TH giai đoạn
T4a. Tỷ lệ đánh giá đúng giai đoạn T trước và
sau mổ là 14/33 TH (42,4%). Trước mổ có 2 TH

(6,1%) di căn hạch giai đoạn N1, sau mổ chúng
tôi phát hiện thêm 2 trường hợp di căn hạch
chậu bịt. Giải phẫu bệnh UTBQ trong nghiên
cứu chủ yếu là carcinoma niệu mạc tại bàng
quang, chiếm 90,9%, trong đó 25 TH (75,8%) là
độ ác cao và 5 TH (15,1%) là độ ác thấp. Có 3 TH
(9,1%) có giải phẫu bệnh là carcinoma tế bào gai.
Nghiên cứu có 24 trường hợp (72,7%) được
mổ mở, 7 trường hợp (21,2%) được phẫu thuật
nội soi cắt bàng quang và tạo hình ngoài cơ thể,
1 trường hợp (3%) được phẫu thuật nội soi cắt
bàng quang và tạo hình bàng quang hoàn toàn
trong ổ bụng, 1 trường hợp (3%) được phẫu
thuật nội soi cắt bàng quang có hỗ trợ robot và
tạo hình bàng quang ngoài cơ thể.
Thời gian phẫu thuật trung bình của tất cả
các phương pháp khoảng 407,73  108,25 phút,
trong đó nhóm bệnh nhân được phẫu thuật mổ
mở có thời gian phẫu thuật trung bình là 376,04
 63,94 phút, nhóm bệnh nhân được phẫu thuật
nội soi cắt bàng quang và tạo hình ngoài cơ thể
là 454,29  148,78 phút, bệnh nhân được phẫu
thuật nội (PTNS) soi hoàn toàn là 710 phút và
bệnh nhân được phẫu thuật nội soi có hỗ trợ
robot cắt bàng quang và tạo hình ngoài cơ thể là
540 phút. Thời gian mổ giữa mổ mở và PTNS cắt
bàng quang, tạo hình ngoài cơ thể không khác

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Thời gian nằm hậu phẫu trung bình là 16,6 
6,3 ngày, trong đó nhóm bệnh nhân mổ mở là
15,5  4,0 ngày, PTNS cắt bàng quang, tạo hình
ngoài cơ thể là 17,14  5,7 ngày, PTNS có hỗ trợ
Robot có thời gian nằm viện hậu phẫu là 13 ngày
và PTNS hoàn toàn trong ổ bụng có thời gian
nằm viện dài nhất là 42 ngày. Thời gian nằm
viện hậu phẫu ngắn nhất là 8 ngày. Sự khác biệt
về thời gian nằm viện giữa phương pháp PTNS
cắt bàng quang, tạo hình ngoài cơ thể và mổ mở
không có ý nghĩa thống kê (p=0,397>0,005).
Thời gian có nhu động ruột sau mổ trung
bình 4,2  1,2 ngày, trong nhóm mổ mở là 4,1 
1,2 ngày, nhóm PTNS cắt BQ, tạo hình ngoài cơ
thể 4,4  1,1 ngày, PTNS hoàn toàn là 5 ngày và
PTNS có hỗ trợ Robot là 2 ngày. Sự khác biệt
giữa mổ mở và PTNS cắt bàng quang, tạo hình
ngoài cơ thể không có ý nghĩa thống kê
(p=0,554>0,05). Thời gian rút dẫn lưu sau mổ
trung bình 9,4  4,8 ngày, không có sự khác biệt
giữa nhóm mổ mở và PTNS cắt bàng quang tạo
hình ngoài cơ thể, rút dẫn lưu sau khoảng 8 – 9
ngày (p=0,961>0,05).
Tỷ lệ biến chứng trong thời gian nằm viện
trong mẫu nghiên cứu là 39,3%.
Chúng tôi theo dõi 22/33 TH, thời gian theo
dõi trung bình là 31,49  22,19 tháng, ngắn nhất
là 3 tháng, dài nhất là 74 tháng. Chỉ số Creatinin
huyết thanh trước mổ là 1,10  0,18 mg/dL và
sau mổ là 1,10  0,24 mg/dL. Chỉ số Creatinin

máu trung bình sau mổ 3 tháng là 1,01  0,24
mg/dL và sau mổ hơn 6 tháng là 1,11  0,25
mg/dL Chỉ số Creatinin huyết thanh sau mổ 3

65


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

tháng và 6 tháng so với trước mổ khác nhau
không có ý nghĩa, p=0,816 > 0,05.
Một trường hợp bị suy thận với Creatinin
máu là 1.57 mg/dL sau thời gian theo dõi là 29
tháng. Một TH tái phát ung thư tại niệu quản
trái đoạn chậu sau thời gian theo dõi 10 tháng.
Hai TH tử vong sau mổ 3 tháng và 4 tháng, 1
TH tử vong do ung thư, 1 TH tử vong do bệnh
lý tim mạch.
Tỷ lệ kiểm soát nước tiểu ban ngày: 18/20 TH
(90%), tỷ lệ kiểm soát nước tiểu ban đêm: 11/20
TH (55%). Thể tích nước tiểu tồn lưu trung bình:
52,1  81,9 mL. Tỷ lệ ngược dòng bàng quang –
niệu quản 5,1%, tỷ lệ hẹp niệu quản 2,6% trên số
đơn vị thận – niệu quản.
Bảng 1. Các biến chứng sớm phẫu thuật trong
nghiên cứu
Biến chứng
Nội khoa

Nhiễm khuẩn vết mổ
Choáng nhiễm khuẩn
Thuyên tắc phổi
Suy thận cấp
Ngoại khoa
Tụ dịch bạch huyết
Rò nước tiểu niệu đạo – bàng
quang
Hẹp niệu quản
Rò niệu quản
Tổng

Số TH

Tỷ lệ (%)

4
1
1
0

12,1
3,0
3,0
0

6

18,2


1

3,0

0
0
13

0
0
39,3

BÀN LUẬN
Thời gian mổ trung bình nhóm bệnh nhân
mổ mở là 376,04  63,94 phút, thấp hơn kết quả
của tác giả Trần Chí Thanh là 404,5  51,2
phút(27). Trong các nghiên cứu của tác giả AbolEnein, ghi nhận thời gian phẫu thuật dao động
khoảng 5-6 giờ(17).
Nhóm bệnh nhân được phẫu thuật nội soi
cắt bàng quang, tạo hình ngoài cơ thể có thời
gian phẫu thuật trung bình là 454,29  148,78
phút. Thời gian mổ cao hơn so với nghiên cứu
khác, tác giả Springer là 330 phút(23), tác giả
Cathelineau là 280 phút(5).
Lượng máu mất trung bình 562,12  351,57
ml, nhóm mổ mở là 552,08  330,84 ml, cao

66

hơn so với kết quả của tác giả Trần Chí Thanh

là 343,6 103,3 ml(27). Nhóm bệnh nhân được
PTNS cắt bàng quang, tạo hình ngoài cơ thể có
lượng máu mất 585,71  429,84 ml, cao hơn tác
giả Springer và Cathelineau với lượng máu
mất khoảng 410 - 550ml(5).
Máu mất chủ yếu vào giai đoạn cắt bàng
quang, tại thời điểm cắt 2 cánh bên bàng quang
và cắt dây chằng mu tuyến tiền liệt cũng như
tĩnh mạch lưng dương vật. Phẫu thuật nội soi
cung cấp hình ảnh phẫu trường tốt giúp cho
phẫu thuật viên kiểm soát được những mạch
máu tốt hơn vì thế lượng máu mất trong PTNS
thấp hơn mổ mở. Điều này cũng đã được nhiều
tác giả trên thế giới ghi nhận(23,26,30). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, PTNS cắt bàng quang, tạo
hình ngoài cơ thể có lượng máu mất cao hơn
một chút so với mổ mở nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê.
Trường hợp được phẫu thuật nội soi cắt
bàng quang và tạo hình bàng quang hoàn toàn
trong ổ bụng, thời gian mổ là 710 phút, trong đó
thời gian cắt bàng quang và nạo hạch là 130
phút, thời gian tạo hình bàng quang là 580 phút
với lượng máu mất khoảng 200ml. Tác giả Haber
và cộng sự thực hiện phẫu thuật nội soi cắt bàng
quang và tạo hình hoàn toàn trong ổ bụng trên
17 bệnh nhân tại bệnh viện Cleverland ghi nhận
thời gian mổ trung bình là 564 phút với lượng
máu mất khoảng 788 ml, 23% trường hợp phải
truyền máu(9).

Trường hợp được mổ nội soi cắt bàng quang
có hỗ trợ Robot và tạo hình ngoài cơ thể, thời
gian mổ là 540 phút trong đó thời gian cắt bàng
quang và nạo hạch là 300 phút với lượng máu
mất khoảng 1000ml. Hệ thống Robot trang bị
hình ảnh 3D, dụng cụ phẫu thuật uyển chuyển
và linh hoạt nhưng đây là trường hợp đầu tiên
nên phẫu thuật viên còn gặp khó khăn trong
việc điều khiển camera cũng như các cánh tay
robot làm kéo dài thời gian phẫu thuật. Tuy
nhiên, bệnh nhân phục hồi sớm trong giai đoạn
hậu phẫu, trung tiện vào ngày hậu phẫu thứ 2
và rút dẫn lưu cạnh bàng quang sau mổ 5 ngày.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Phẫu thuật nội soi có hỗ trợ Robot có nhiều ưu
điểm của phẫu thuật ít xâm hại như bệnh nhân ít
đau hơn, lượng máu mất ít hơn, thời gian mổ
ngắn, khoảng 340 – 510 phút đồng thời tỷ lệ biến
chứng và kết cục về mặt ung thư vẫn có thể so
sánh được so với mổ mở(4,9,15,19).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không ghi
nhận trường hợp nào có tai biến nghiêm trọng
trong mổ, không có tổn thương mạch máu hay
ống tiêu hóa. Không có tử vong trong mổ.
Nhiễm khuẩn vết mổ trong nghiên cứu này
gặp trong 12,1% TH, các trường hợp này đều

được điều trị nội khoa, không có TH nào bung
vết mổ cần phải mổ lại. Tỷ lệ này cao hơn trong
nghiên cứu của Trần Chí Thanh là 2,38%(27) và
các tác giả khác trên thế giới là khoảng 2 –
10%(1,5,10,18).

Nghiên cứu Y học

nghiên cứu của chúng tôi huyết khối tĩnh mạch
sâu dẫn đến thuyên tắc phổi có thể do có nhiều
yếu tố nguy cơ như bệnh nhân lớn tuổi, thời gian
phẫu thuật kéo dài, thời gian nằm viện lâu do
biến chứng rò niệu đạo – bàng quang tân tạo.
Vấn đề điều trị phòng ngừa huyết khối tĩnh
mạch sâu cũng đã được bàn luận nhiều. Hội
Niệu Khoa Hoa Kỳ khuyến cáo mạnh mẽ rằng
nên điều trị phòng ngừa huyết khối trước phẫu
thuật cho bệnh nhân cắt bàng quang(6), đặc biệt
là những bệnh nhân có nguy cơ như béo phì, hút
thuốc lá, lớn tuổi hay có những bệnh lý tăng
đông, trải qua cuộc phẫu thuật lớn(7).

Một trường hợp sau mổ bị choáng nhiễm
khuẩn, chiếm tỷ lệ 3%. Theo nghiên cứu của tác
giả Gandaglia và cộng sự theo dõi 1094 bệnh
nhân, ghi nhận tỷ lệ biến chứng là 31,1%, trong
đó tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết là 14,2%(8). Tương tự
trong nghiên cứu của Lavellee trên 1115 bệnh
nhân cắt bàng quang thì tỷ lệ biến chứng là
55,3% với 9,7% trường hợp bị nhiễm khuẩn

huyết(13). Một số nghiên cứu khác trên bệnh nhân
được cắt bàng quang và tạo hình bàng quang
bằng ruột ghi nhận tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết
thấp hơn, từ 1,5% đến 13,4%(10,14,25).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, không ghi
nhận TH nào suy thận cấp sau mổ, không có
biến chứng rò nước tiểu qua miệng nối niệu
quản – ruột hay hẹp niệu quản trong thời gian
nằm viện. Kết quả này tương đồng với tác giả
Trần Chí Thanh và các tác giả khác(18,21,27,28), thấp
hơn tác giả Ali-El-Dein và Papadopoulos với tỷ
lệ hẹp niệu quản lần lượt là 0,5% và 4%(2,18). Theo
chúng tôi, những biến chứng như hoại tử niệu
quản hay rò niệu quản là do niệu quản thiếu
máu nuôi. Ưu điểm của phương pháp AbolEnien là niệu quản nằm trong đường hầm và
được khâu vào 2 vạt ruột nên được cung cấp
máu nuôi dồi dào. Ngoài ra, khi cắm vào bàng
quang ruột, miệng niệu quản được xẻ rộng thêm
làm giảm nguy cơ hẹp niệu quản sau mổ.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, ghi nhận 1
TH rò nước tiểu tại miệng nối niệu đạo – bàng
quang tân tạo. Bệnh nhân được thay thông niệu
đạo bàng quang và bơm rửa bàng quang, dịch
dẫn lưu ra ít dần và rút vào ngày hậu phẫu 28.
Ngày hậu phẫu 31 bệnh nhân thở nhanh nông,
phù chân phải, được siêu âm doppler mạch máu
chi dưới và chụp CT-scan ngực, chẩn đoán huyết
khối tĩnh mạch sâu chân phải và thuyên tắc

nhánh động mạch phổi 2 bên bệnh nhân được
điều trị kháng đông và xuất viện sau 1 tuần. Các
tác giả trên thế giới cũng đã báo cáo tỷ lệ huyết
khối tĩnh mạch sâu vào khoảng 1 – 3% và thuyên
tắc phổi khoảng 1 – 2% sau phẫu thuật cắt bàng
quang tạo hình bằng ruột(1,2,5). Trường hợp trong

Trong quá trình theo dõi sau 3 tháng và hơn
6 tháng chỉ số Creatinin huyết thanh không khác
biệt có ý nghĩa so với trước và sau mổ. Một TH
có Creatinin huyết thanh trước và sau mổ là 1,42
– 1,48 mg/dL, theo dõi đến tháng thứ 16 chỉ số
Creatinin huyết thanh tăng lên 1,57 mg/dL, siêu
âm đánh giá cấu trúc 2 thận bình thường, không
ứ nước. Sự thay đổi Creatinin này không nhiều
lại trong thời gian dài nên nghĩ nguyên nhân do
bệnh thận mạn, một phần bệnh nhân lớn tuổi,
hiện tại đã bước sang tuổi 73, đồng thời mắc các
bệnh lý nội khoa mạn tính như tăng huyết áp và
đái tháo đường týp 2 hơn 10 năm. Nghiên cứu
của Stein trên theo dõi chức năng thận trên 181
BN tạo hình bàng quang bằng ruột, thời gian

Chuyên Đề Ngoại Khoa

67


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

theo dõi trung bình 33 tháng, có 7 TH (4%) bị suy
giảm chức năng thận, trong đó 2 TH hẹp miệng
nối niệu quản ruột, 5 TH còn lại có hình ảnh hệ
tiết niệu hoàn toàn bình thường(24).
Nhiều nghiên cứu đã xác định được có
những yếu tố nguy cơ không liên quan đến việc
tạo hình bàng quang có thể làm suy giảm chức
năng thận theo thời gian như tăng huyết áp, đái
tháo đường hay có những đợt viêm thận bể thận
cấp(11,12,16). Vì vậy, ngoài việc theo dõi những biến
chứng muộn của phẫu thuật tạo hình cần phải
điều trị những bệnh đồng mắc làm tăng nguy cơ
bệnh thận mạn.

10.

11.

12.

13.

14.

KẾT LUẬN
Phẫu thuật tạo hình bàng quang theo
phương pháp Abol-Enein là một phương pháp
an toàn và hiệu quả. Kết quả cho thấy đây là

một lựa chọn tốt cho bệnh nhân được cắt bàng
quang do UTBQ quang.

15.

16.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

68

Abol-Enein H and Ghoneim MA (2001), "Functional results of
orthotopic ileal neobladder with serous-lined extramural

ureteral reimplantation: experience with 450 patients", J Urol,
Vol. 165(5), pp. 1427-32.
Ali-el-Dein B, Shaaban AA, Abu-Eideh RH et al (2008),
"Surgical complications following radical cystectomy and
orthotopic neobladders in women", J Urol, Vol. 180(1), pp.
206-10; discussion 210.
Benson MC, Seaman EK and Olsson CA (1996), "The ileal
ureter neobladder is associated with a high success and a low
complication rate", J Urol, Vol. 155(5), pp. 1585 -1588.
Bochner BH, Dalbagni G, Sjoberg DD et al (2015), "Comparing
Open Radical Cystectomy and Robot-assisted Laparoscopic
Radical Cystectomy: A Randomized Clinical Trial", European
Urology, Vol. 67(6), pp. 1042-1050.
Cathelineau X, Arroyo C, Rozet F et al(2005), "Laparoscopic
assisted radical cystectomy: the montsouris experience after
84 cases", Eur Urol, Vol. 47(6), pp. 780-4.
Chang SS, Bochner BH, Chou R et al(2017), Treatment of NonMetastatic
Muscle-Invasive
Bladder
Cancer:
AUA/ASCO/ASTRO/SUO Guideline.American Urological
Association Education and Research.
Forrest JB, Clemens JQ, Finamore P et al (2009), "AUA Best
Practice Statement for the prevention of deep vein thrombosis
in patients undergoing urologic surgery", J Urol, Vol. 181(3),
pp. 1170-7.
Gandaglia G, Varda B, Sood A et al(2014), "Short-term
perioperative outcomes of patients treated with radical
cystectomy for bladder cancer included in the National
Surgical Quality Improvement Program (NSQIP) database",

Canadian Urological Association Journal, 8(9-10):pp.E681-E687.
Haber GP, Crouzet S, and Gill IS (2008), "Laparoscopic and

17.

18.

19.

20.

21.

22.

23.

24.

robotic assisted radical cystectomy for bladder cancer: a
critical analysis", Eur Urol, Vol. 54(1), pp. 54-62.
Jensen JB, Lundbeck F, and Jensen KM (2006), "Complications
and neobladder function of the Hautmann orthotopic ileal
neobladder", BJU Int, Vol. 98(6), pp. 1289-94.
Jin XD, Roethlisberger S, Burkhard FC, Birkhaeuser F, Thoeny
HC, and Studer UE (2012), "Long-term renal function after
urinary diversion by ileal conduit or orthotopic ileal bladder
substitution", Eur Urol, Vol. 61(3), pp. 491-7.
Ku JH and Lerner SP (2012), "Variables Affecting Long-term
Maintenance of Renal Function Following Ileal Based Urinary

Diversion", European Urology, Vol. 61(3), pp. 498-500.
Lavallee LT, Schramm D, Witiuk K, Mallick R, Fergusson D,
Morash C, Cagiannos I, and Breau RH (2014), "Peri-operative
morbidity associated with radical cystectomy in a multicenter
database of community and academic hospitals", PLoS One,
Vol. 9(10), pp. e111281.
Malavaud B, Vaessen C, Mouzin M, Rischmann P, Sarramon
J, and Schulman C (2001), "Complications for radical
cystectomy. Impact of the American Society of
Anesthesiologists score", Eur Urol, Vol. 39(1), pp. 79-84.
Menon M, Hemal AK, Tewari A, Shrivastava A, Shoma AM,
El-Tabey NA, Shaaban A, Abol-Enein H, and Ghoneim MA
(2003),
"Nerve-sparing
robot-assisted
radical
cystoprostatectomy and urinary diversion", BJU Int, Vol.
92(3), pp. 232-6.
Nishikawa M, Miyake H, Yamashita M, Inoue TA, and
Fujisawa M (2014), "Long-term changes in renal function
outcomes following radical cystectomy and urinary
diversion", Int J Clin Oncol, Vol. 19(6), pp. 1105-11.
Osman Y, Abol-Enein H, Nabeeh A, Gaballah M, and Bazeed
M (2004), "Long-term results of a prospective randomized
study comparing two different antireflux techniques in
orthotopic bladder substitution", Eur Urol, Vol. 45(1), pp. 82-6.
Papadopoulos I and Weichert-Jacobsen K (2001), "Experiences
with the entero-ureteral anastomosis via the extramural
serous-lined tunnel: procedure of Abol-Enein", Urology, Vol.
57(2), pp. 234-8.

Pruthi RS and Wallen EM (2007), "Robotic assisted
laparoscopic radical cystoprostatectomy: operative and
pathological outcomes", J Urol, Vol. 178(3 Pt 1), pp. 814-8.
Rozan R, Albuisson E, Donnarieix D, Giraud B, Mazeron JJ,
Gerard JP, Pernot M, Gerbaulet A, Baillet F, Douchez J, and et
al (1992), "Interstitial iridium-192 for bladder cancer (a
multicentric survey: 205 patients)", Int J Radiat Oncol Biol Phys,
Vol. 24(3), pp. 469-77.
Shaaban AA, Abdel-Latif M, Mosbah A, Gad H, Eraky I, AliEl-Dein B, Osman Y, El-Mekresh M, Ibrahim EH and ElKappany H (2006), "A randomized study comparing an
antireflux system with a direct ureteric anastomosis in
patients with orthotopic ileal neobladders", BJU international,
Vol. 97(5), pp. 1057-1062.
Skinner EC and Daneshmand S (2015), "Orthotopic Urinary
Diversion", in Campbell - Walsh Urology, A.J. WEIN, Editor,
11th ed., Elsevier, Philadelphia, pp. 2344 - 2368.
Springer C, Mohammed N, Alba S, Theil G, Altieri VM,
Fornara P, and Greco F (2014), "Laparoscopic radical
cystectomy with extracorporeal ileal neobladder for muscleinvasive urothelial carcinoma of the bladder: technique and
short-term outcomes", World J Urol, Vol. 32(2), pp. 407-12.
Stein JP, Dunn MD, Quek ML, Miranda G, and Skinner DG

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

25.

26.


27.

28.

(2004), "The orthotopic T pouch ileal neobladder: experience
with 209 patients", J Urol, Vol. 172(2), pp. 584-7.
Studer UE, Burkhard FC, Schumacher M, Kessler TM, Thoeny
H, Fleischmann A and Thalmann GN (2006), "Twenty years
experience with an ileal orthotopic low pressure bladder
substitute--lessons to be learned", J Urol, Vol. 176(1), pp. 161-6.
Tang K, Li H, Xia D, Hu Z, Zhuang Q, Liu J, Xu H, and Ye Z
(2014), "Laparoscopic versus Open Radical Cystectomy in
Bladder Cancer: A Systematic Review and Meta-Analysis of
Comparative Studies", PLOS ONE, Vol. 9(5), pp. e95667.
Trần Chí Thanh (2016), Nghiên Cứu Ứng Dụng và Kết Quả
Tạo Hình Theo Phương Pháp Abol-Enein Trong Điều Trị
UTBQ, Luận án Tiến Sĩ Y Học Ngoại - Tiết Niệu, ĐH Y Hà Nội.
Turkolmez K, Baltaci S, Gogus C, Beduk Y, and Gogus O
(2004), "Results of the ureteral reimplantation with serous-

Chuyên Đề Ngoại Khoa

29.

30.

Nghiên cứu Y học

lined extramural tunnel in orthotopic ileal W-neobladder", Int
J Urol, Vol. 11(6), pp. 368-73.

Vũ Lê Chuyên (2012), "Đại Cương Về UTBQ", trong Phẫu
Thuật Cắt Bàng Quang, Nhà Xuất Bản Y Học, Thành Phố Hồ
Chí Minh, tr. 13 - 61.
Yu CC, Ou YC, and Yang CK (2015), "Minimal incisions for
laparoscopic radical cystectomy with extracorporeal-assisted
urinary diversion", Urological Science, Vol. 26(2), pp. 91-94.

Ngày nhận bài báo:

08/11/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

10/12/2018

Ngày bài báo được đăng:

10/03/2019

69



×