Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá kết quả phẫu thuật khoét rỗng đá chũm tường thấp có chỉnh hình tai giữa trong điều trị viêm tai giữa mạn có cholesteatoma

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.24 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
KHOÉT RỖNG ĐÁ CHŨM TƯỜNG THẤP CÓ CHỈNH HÌNH TAI GIỮA
TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM TAI GIỮA MẠN CÓ CHOLESTEATOMA
Trần Thịnh*, Trần Viết Luân*, Lê Trần Quang Minh**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cholesteatoma là một bệnh lý nguy hiểm có khả năng gây ra biến chứng nặng nề do
cholesteatoma có thể phát triển, ăn mòn và phá hủy các cấu trúc xung quanh. Bệnh nhân Việt Nam với điều kiện
kinh tế và khả năng tái khám còn thấp nên cần có một phương pháp phẫu thuật phù hợp cho viêm tai giữa mạn có
cholesteatoma.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật khoét rỗng đá chũm tường thấp có chỉnh hình tai giữa trong điều trị
viêm tai giữa mạn có cholesteatoma.
Phương pháp và đối tượng: Nghiên cứu mô tả loạt ca lâm sàng trên 40 bệnh nhân bị viêm tai giữa mạn có
cholesteatoma được phẫu thuật khoét rỗng đá chũm tường thấp có chỉnh hình tai giữa bằng cân cơ thái dương và
tái khám tại bệnh viện Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 07/2016 đến tháng 07/2017.
Kết quả: Cholesteatoma thường là bệnh lý 1 bên với tỷ lệ nữ/nam tương đương nhau (1,2/1). Triệu chứng
thường gặp nhất là chảy tai (75%). Hình ảnh nội soi gặp nhiều nhất là khuyết thượng nhĩ – lõm màng chùng
(52,5%). Về thính lực, nghe kém hỗn hợp chiếm đa số (75%). Vị trí cholesteatoma chủ yếu ở thượng nhĩ – sào đạo
– sào bào (37,5%). 95% xương đe bị hủy ở nhiều mức độ. Kết quả sau phẫu thuật, thời gian biểu bì hóa hố mổ
trung bình 8,73 ± 2 tuần, màng nhĩ kín 92,5%, hố mổ khô 90%, 100% không có cholesteatoma tái phát, 62,5%
thính lực được bảo tồn hoặc cải thiện.
Kết luận: Phẫu thuật khoét rỗng đá chũm tường thấp có chỉnh hình tai giữa trên những trường hợp viêm
tai giữa mạn có cholesteatoma là một phương pháp điều trị hiệu quả, tỉ lệ tái phát thấp, thích hợp với tình trạng
xương chũm kém thông bào và khả năng tái khám của bệnh nhân nước ta.
Từ khóa: viêm tai giữa mạn (VTGM), cholesteatoma, phẫu thuật khoét rỗng đá chũm tường thấp
(KRĐCTT), chỉnh hình tai giữa (CHTG)


ABSTRACT
THE EFFICACY OF CANAL WALL DOWN MASTOIDECTOMY SURGERY WITH TYMPANOPLASTY
IN CHRONIC OTITIS MEDIA WITH CHOLESTEATOMA
Tran Thinh, Tran Viet Luan, Le Tran Quang Minh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 125-131
Background: Cholesteatoma is a dangerous disease which can cause many serious complications
because of its nature of developing, eroding and destroying the adjacent structures of middle ear. Vietnamese
patients, with low economy status and poor follow up ability, require a proper surgery for chronic otitis
media with cholesteatoma.
Objectives: to evaluate the efficacy of canal wall down mastoidectomy (CWDM) with tympanoplasty in
chronic otitis media with cholesteatoma.
Methods: A clinical series study was conducted on 40 patients with cholesteatoma underwent canal wall
*Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
**Bệnh Viện Tai - Mũi - Họng TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BSCKI. Trần Thịnh ĐT: 0909603500

Email:

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

125


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

down mastoidectomy with tympanoplasty at ENT Hospital – Ho Chi Minh city from 07/2016 to 07/2017.
Results: Female/male rate was 1.2/1. The most frequent clinical sign was otorrhea (75%). Eroding scutum –
retracted pars flaccida was mostly seen endoscopically (52.5%). Mixed hearing loss was the most common,

accounted for 75%. Cholesteatoma located in attic – antrum with a highest rate: 37.5%. 95% of cases had erosion
of incus. Postoperatively, median time of epithelializing was 8.73 ± 2 weeks, tympanic membrane healing was
92.5%. Mastoid cavities were found to be dry and self – cleaning in 90%. No residual or recurrent cholesteatoma
was noted postoperatively. Hearing threshold remained unchanged or improved in 62.5% of the cases.
Conclusion: canal wall down mastoidectomy with tympanoplasty is an effective procedure for chronic otitis
media with cholesteatoma with low recurrence rate, and suitable for poorly pneumatized mastoid condition as well
as the follow-up ability of Vietnamese patients.
Keywords: chronic otitis media (COM), cholesteatoma, canal wall down mastoidectomy (CWDM),
tympanoplasty

ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tai giữa mạn (VTGM) có cholesteatoma
là bệnh lý nguy hiểm gây ra biến chứng nặng nề
do cholesteatoma có thể phát triển, ăn mòn và
phá hủy các cấu trúc lân cận. Tại bệnh viện Tai
Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh, đa số bệnh nhân
đến khám có điều kiện kinh tế thấp, khả năng
theo dõi tái khám sau mổ kém nên cần có một
phương pháp phẫu thuật (PT) phù hợp(1,2,4).
PT khoét rỗng đá chũm tường thấp có chỉnh
hình tai giữa là một PT được xem là có hiệu quả
cao trong điều trị viêm tai giữa mạn có
cholesteatoma với tỷ lệ tái phát thấp, bảo tồn sức
nghe, kỹ thuật không quá phức tạp. Tuy nhiên,
còn ít báo cáo về kết quả của PT tại nước ta, do
đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
đánh giá kết quả PT khoét rỗng đá chũm tường
thấp (KRĐCTT) có chỉnh hình tai giữa (CHTG)
bằng cân cơ thái dương trong điều trị VTGM có
cholesteatoma tại Bệnh viện Tai Mũi Họng TP.

Hồ Chí Minh.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo các trường hợp bệnh.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trường hợp VTGM có
cholesteatoma đã được chẩn đoán và được PT
KRĐCTT có CHTG tại bệnh viện Tai Mũi Họng
TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng
07/2016 đến 07/2017.

126

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả bệnh nhân thỏa đầy đủ các tiêu chuẩn:
Bệnh nhân trên 16 tuổi bị VTGM có
cholesteatoma chẩn đoán dựa trên hình ảnh CT
scans xương thái dương và có cholesteatoma
trong lúc mổ, đã được PT KRĐCTT có CHTG tại
bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh
CT scan: xương chũm kém thông bào.
Bệnh nhân được thực hiện đầy đủ các bước
thăm khám và xét nghiệm đáp ứng các thông tin
cần thu thập.
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp (TH) VTGM có
cholesteatoma kèm biến chứng như liệt mặt, dò
ống bán khuyên, áp-xe não…

Các bước tiến hành nghiên cứu
Chọn bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn đưa vào
mẫu nghiên cứu.
Khảo sát đặc điểm lâm sàng, thính học, CT
scan, đặc điểm trong lúc mổ của bệnh nhân
nghiên cứu.
Theo dõi đánh giá kết quả sau mổ: thời
gian biểu bì hóa hố mổ trung bình, tình trạng
hố mổ chũm, sự lành màng nhĩ, cholesteatoma
còn sót hay tái phát. Đo thính lực sau phẫu
thuật 3 tháng.
Thu thập và phân tích số liệu bằng phần
mềm SPSS 20.0. Các biến số liên tục sẽ được biểu
diễn dưới dạng số trung bình, độ lệch chuẩn

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
hoặc số trụng vị và khoảng tứ phân vị. Các biến
định danh sẽ được biểu diễn dưới dạng số đếm
và tần suất.
Phương pháp phẫu thuật khoét rỗng đá chũm
tường thấp có chỉnh hình tai giữa bằng cân cơ
thái dương
Đường mổ sau tai: khoét rỗng đá chũm
tường thấp, bóc tách khối cholesteatoma, bảo tồn
xương con nếu được, thám sát tổn thương các
cấu trúc quan trọng như dây thần kinh mặt, ống
bán khuyên ngoài.

Lấy sạch cholesteatoma, lấy cân cơ thái
dương có kích thước phù hợp với hố mổ chũm,
lót lên bề mặt hố mổ chũm và dưới màng nhĩ cũ.
Cố định mảnh cân cơ bằng gelfoam và đặt dẫn
lưu hố mổ ra ngoài.
Chỉnh hình tai giữa tùy thuộc vào tình trạng
xương con: chỉnh hình tai giữa loại II khi xương
con bị ăn mòn một phần nhưng chuỗi xương con
vẫn còn liên tục, đặt mảnh cân cơ thái dương
trên chuỗi xương con, dưới màng nhĩ cũ. Chỉnh
hình tai giữa loại III khi xương búa và xương đe
không còn, chỉ còn lại xương bàn đạp, thì đặt cân
cơ lên chỏm xương bàn đạp và dưới màng nhĩ
cũ, hoặc dùng xương tự thân (xương búa hoặc
xương đe còn lại) hay sụn đặt lên xương bàn
đạp, sau đó đặt cân cơ lên phần xương vừa
chỉnh hình và dưới màng nhĩ cũ.
Chỉnh hình vành tai, ống tai.

Nghiên cứu Y học

Bảng 1: Đặc điểm bệnh lý VTGM có cholesteatoma
ghi nhận trước phẫu thuật
Lý do nhập viện n (%)
Chảy tai
Đau tai
Ù tai
Hình ảnh nội soi trước mổ
Khuyết thượng nhĩ – lõm màng chùng
Thủng nhĩ sát rìa

Lõm nhĩ
Khác (polyp thượng nhĩ, hẹp ống tai, tự
khoét chũm, khuyết thành sau ống tai)
Đặc điểm thính lực
Nghe kém hỗn hợp
Nghe kém dẫn truyền

30 (75%)
4 (10%)
6 (15%)
21 (52,5%)
7 (17,5%)
6 (15%)
6 (15%)

30 (75%)
10 (25%)

Bảng 2: Đặc điểm bệnh lý VTGM có cholesteatoma
ghi nhận trong phẫu thuật
Vị trí cholesteatoma
Thượng nhĩ – sào đạo – Sào bào
Luồn vào trong xương con
Thượng nhĩ
Hòm nhĩ
Toàn bộ tai giữa
Tổn thương các cấu trúc ở tai giữa
Huỷ xương đe
Huỷ xương búa đe
Hủy đe đạp

Hủy toàn bộ xương con
Xương con nguyên vẹn
Gián đoạn xương con
Huỷ tường thượng nhĩ
Hủy trần nhĩ
Hở ống fallope
Hở ống bán khuyên ngoài

15 (37,5%)
11 (27,5%)
8 (20%)
10 (25%)
7 (17,5%)
4 (10%)
17 (45%)
2 (5%)
15 (37,5%)
2 (2,5%)
15 (37,5%)
40 (100%)
2 (5%)
4 (10%)
1 (2,5%)

Khâu da và mô dưới da.

KẾT QUẢ
Có 40 trường hợp VTGM có cholesteatoma
được PT KRĐCTT có CHTG thoả tiêu chuẩn
chọn mẫu. Mẫu nghiên cứu có tuổi trung bình là

40 ± 14 tuổi, tỷ lệ nữ/nam là 1,2/1.
Triệu chứng cơ năng thường gặp nhất là
chảy tai (75%), triệu chứng thực thể thường gặp
nhất là Khuyết thượng nhĩ – lõm màng chùng
(52,5%). Tình trạng thính lực trước mổ: nghe
kém hỗn hợp chiếm đa số (75%) (Bảng 1).
Các dấu hiệu ghi nhận trong phẫu thuật về
vị trí cholesteatoma, tình trạng tổn thương được
trình bày ở Bảng 2.

Hình 1: KTN – Lõm màng chùng

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

127


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học
Kết quả phẫu thuật

Thời gian phẫu thuật trung bình là 115 ± 40
phút. Đa số các trường hợp bệnh nhân được
chỉnh hình tai giữa loại III (52,5%), chỉnh hình tai
giữa loại II (10%), vì phần lớn bệnh nhân đều bị
bệnh lâu năm, các cấu trúc tai giữa đã bị
cholesteatoma ăn mòn nhiều chỉ còn xương bàn
đạp hoặc đế xương bàn đạp, trong đó:


37,5% trường hợp xương con mất toàn bộ, sức
nghe giảm 13,18 dB (Bảng 5).

Bảng 3: Các vật liệu để chỉnh hình tai giữa loại III
Cân cơ đặt lên chỏm bàn đạp
9 (42,9%)
Chêm sụn giữa cân cơ và chỏm bàn đạp
7 (33,3)
Chêm xương tự thân giữa cân cơ và xương bàn đạp 5 (23,8%)

Hình 2: Hố mổ khô, biểu bì hóa

Theo dõi và đánh giá sau mổ
Thời gian theo dõi hậu phẫu trung bình 7,74
tháng (lâu nhất là 12 tháng, ngắn nhất là 4 tháng)
chúng tôi ghi nhận đặc điểm về màng nhĩ, hố
mổ chũm và thính lực như sau:
Thời gian biểu bì hóa hố mổ trung bình là
8,73 ± 2 tuần (Bảng 4, Hình 2, 3, 4, 5).
Bảng 4: Đặc điểm hố mổ
Tình trạng hố mổ
Hố mổ khô
37 (92,5%)
Hố mổ chảy dịch
3 (7,5)
Tình trạng màng nhĩ
Màng nhĩ kín
36 (90%)
Màng nhĩ hở
4 (10%)

Cholesteatoma tái phát
Không
40 (100%)

Hình 3: Hố mổ viêm tiết dịch

Bảng 5: Đặc điểm thính lực trước và sau phẫu thuật

CHTG loại II
Các nhóm CHTG loại III
Đặt cân cơ trực tiếp lên chỏm
bàn đạp
Chêm sụn giữa cân cơ và chỏm
bàn đạp
Chỉnh hình Đặt lên chỏm bàn đạp
xương con Đặt lên đế bàn đạp

Sức nghe trung bình
đường khí (dB)
Trước PT Sau PT
p
28
23
0,016
57,59

56,85

0,7


44,28

42,86

0,3

52,57
56,66

55
60

0,6
0,3

Thính lực sau phẫu thuật 3 tháng: 62,5%
trường hợp thính lực được bảo tồn hoặc cải
thiện, 4 trường hợp được chỉnh hình tai giữa loại
II, sức nghe cải thiện 5dB (p=0,016 > 0,05), 21
trường hợp được chỉnh hình tai giữa loại III, sức
nghe thay đổi không đáng kể (p = 0,87 > 0,05),

128

Hình 4: Màng nhĩ kín

Hình 5: Màng nhĩ hở

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

Biểu đồ 1: Thính lực trước và sau phẫu thuật ở các loại chỉnh hình tai giữa loại III.
thể kiểm soát được cholesteatoma nên phải
BÀN LUẬN
khoan bỏ thành sau ống tai. Hoặc những trường
Qua 40 trường hợp trong mẫu nghiên cứu
hợp có bộc lộ các cơ quan quan trọng như dây
chúng tôi nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh viêm tai giữa
VII, màng não, ống bán khuyên ngoài, phẫu
mạn có cholesteatoma nữ tương đối nhiều hơn
thuật viên cũng phải rất cẩn thận để không làm
nam, đa số bệnh nhân ở độ tuổi lao động, triệu
tổn thương các cấu trúc này và cố gắng lấy sạch
chứng chảy tai chiếm đa số trường hợp (75%),
bệnh tích. Những trường hợp thời gian phẫu
hình ảnh nội soi thường gặp nhất là khuyết
thuật ngắn khi thính lực mất nhiều, không còn
thượng nhĩ – lõm màng chùng chiếm đa số
xương con, phẫu thuật viên xác định thực hiện
(52,5%), tương đồng với các tác giả khác. Riêng
khoét rỗng đá chũm tường thấp ngay từ đầu.
thính lực trước phẫu thuật, chúng tôi ghi nhận
Vị trí thường gặp nhất của cholesteatoma ở
đa số trường hợp bị nghe kém hỗn hợp, điều
thượng nhĩ – sào đạo – sào bào chiếm 37,5%
này trái ngược với tác giả Goyal(3) thực hiện tại

trường hợp, có 11 trường hợp (27,5%)
Ấn Độ, sở dĩ có điểm khác biệt này là do các
cholesteatoma luồn vào trong xương con, đây là
bệnh nhân trong nghiên cứu của Goyal được
những trường hợp khó kiểm soát cholesteatoma,
phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm trong khi đó
chúng tôi buộc phải gỡ bỏ xương búa hoặc
phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
xương đe, hoặc cả xương búa đe để lấy sạch
tôi được phát hiện trễ, bệnh tích đã ảnh hưởng
bệnh tích vì mục tiêu quan trọng nhất trong điều
không chỉ làm tổn thương tai giữa mà còn gây
trị cholesteatoma là giữ tai an toàn. Tuy nhiên
ảnh hưởng đến cấu trúc lân cận ở tai trong.
bệnh tích nhiều hay ít và khu trú ở thượng nhĩ
Thời gian phẫu thuật trung bình là 115 ±
hay lan ra toàn bộ tai giữa đều không ảnh hưởng
40,12 phút, thời gian phẫu thuật dài nhất là
đến thời gian lành hố mổ đã được kiểm chứng
những trường hợp thính lực còn tốt, xương con
bằng test ANOVA (p= 0,11).
còn nguyên vẹn, các phẫu thuật viên cố gắng giữ
Tất cả trường hợp đều được vá nhĩ và lót bề
xương thành sau ống tai, nhưng sau cùng không

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

129



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

mặt hố mổ bằng cân cơ thái dương. Tùy vào tình
trạng của xương con được đánh giá trong phẫu
thuật, chúng tôi sẽ thực hiện các loại chỉnh hình
tai giữa, nếu xương con bị hủy 1 phần nhưng
chuỗi xương con còn liên tục, chúng tôi thực
hiện chỉnh hình tai giữa loại II, nếu xương con bị
hủy chỉ còn lại xương bàn đạp, có thể chỉnh hình
tai giữa loại III bằng cách đặt cân cơ trực tiếp lên
chỏm bàn đạp, chêm sụn giữa cân cơ và chỏm
bàn đạp, hoặc có thể dùng xương tự thân đặt
giữa cân cơ và xương bàn đạp.
Bảng 6: So sánh tình trạng hố mổ và tình trạng
màng nhĩ với các tác giả
Maria Izabel Kos
Eero Vartiainen
Mukherjee
Grewal
Goyal
Chang Woo Kim
Chúng tôi

Hố mổ khô
95%
98%
95%
91%

94,87%
86%
92,5%

Màng nhĩ kín
94,2%
92%

94,87%
90%

Phẫu thuật KRĐCTT có CHTG này thích
hợp với các trường hợp xương chũm kém thông
bào do không cần phải khoan xương nhiều cũng
như làm thu nhỏ hố mổ chũm. Việc theo dõi tái
khám, chăm sóc sau mổ thuận lợi, đặc biệt ở
những bệnh nhân ở xa, không có điều kiện tái
khám thường xuyên. Ưu điểm của phẫu thuật
KRĐCTT so với KRĐC tường cao (canal wall up
mastoidectomy) là giúp lấy sạch bệnh tích và
kiểm soát cholesteatoma được tốt hơn. Ngược
lại, PT KRĐC tường cao thích hợp hơn với
những TH VTGM có cholesteatoma với thông
bào xương chũm phát triển.
Tất cả bệnh nhân sau khi xuất viện sẽ được
dặn dò lịch tái khám và cách chăm sóc tai.
Chúng tôi theo dõi các bệnh nhân ít nhất 4
tháng, vì lúc đó tình trạng tai giữa đã tương đối
ổn định và có thể đo được thính lực.
Thời gian trung bình hố mổ được biểu bì hóa

là 8,73 ± 2 tuần. Trong khi đó thời gian biểu bì
hóa hố mổ trong nghiên cứu của Maria Izabel
Kos(6) là 6 tuần và trong nghiên cứu của Kim(5) là
11,1 ± 4,6 tuần. Sự khác biệt về kết quả trong
nghiên cứu của chúng tôi với Kos và Kim có thể

130

do sử dụng chất liệu để lấp hố mổ khác nhau.
Hai tác giả trên đã sử dụng vạt cơ thái dương có
cuống trong khi đó chúng tôi lại dùng cân cơ
thái dương. Trước đây, phẫu thuật khoét rỗng
đá chũm tường thấp thường để trơ bề mặt hố
mổ nên sự lành thương của xương khó khăn và
chậm. Do đó tình trạng chảy dịch tai sau phẫu
thuật thường kéo dài hoặc không cải thiện. Để
khắc phục nhược điểm này, nhiều tác giả trên
thế giới đã sử dụng vạt cơ có cuống hoặc mô
mềm để lấp hố mổ tuy nhiên kỹ thuật khá phức
tạp và khó đánh giá sự hiện diện hay tái phát
của cholesteatoma sau phẫu thuật. Trong nghiên
cứu này, chúng tôi đã sử dụng cân cơ thái
dương tự thân có độ tương hợp sinh học cao để
vá nhĩ đồng thời lót bề mặt hố mổ tạo thành cầu
nối giữa lớp biểu bì của màng nhĩ và hố mổ giúp
cho quá trình biểu bì hóa hố mổ dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, các bệnh nhân trong mẫu nghiên
cứu của chúng tôi đều có xương chũm kém
thông bào, hố mổ sau phẫu thuật tương đối nhỏ
nên việc biểu bì cũng diễn ra nhanh hơn.

Bảng 7: So sánh thính lực trung bình sau phẫu thuật
với các tác giả

Maria Izabel Kos
Mukherjee
Tos và Lau
Fisch
Chúng tôi

Thính lực TB sau phẫu thuật
(tăng hoặc không thay đổi)
72%
77%
62%
60%
62,5%

Về thính lực sau phẫu thuật, chúng tôi đã
bảo tồn hoặc cải thiện thính lực cho 62,5%
trường hợp, những trường hợp còn lại bị giảm
thính lực do mất toàn bộ chuỗi xương con.
Ngưỡng nghe đường khí trung bình ở nhóm
bệnh nhân được chỉnh hình tai giữa loại III được
bảo tồn hoặc thay đổi không đáng kể trong khi
đó lại cải thiện 5dB ở nhóm bệnh nhân được
chỉnh hình tai giữa loại II (sự thay đổi có ý nghĩa
thống kê, T-test p<0,016). Sức nghe trung bình
đường khí ở nhóm bệnh nhân mất toàn bộ chuỗi
xương con giảm 13,18dB so với trước phẫu
thuật. Tình trạng giảm sức nghe ở những trường

hợp này là do trước phẫu thuật khối

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

cholesteatoma đã dẫn truyền âm thanh trực tiếp
đến đế bàn đạp, sau khi lấy sạch bệnh tích thì
mất đi cơ chế dẫn truyền này làm bệnh nhân
nghe kém hơn. Bên cạnh mục tiêu cải thiện sức
nghe, chỉ định vá nhĩ được đặt ra nhằm bảo vệ
các cấu trúc quan trọng của tai giữa như thần
kinh mặt, cửa sổ tròn, cửa sổ bầu dục, và lót bề
mặt hố mổ chũm để giúp hố mổ mau khô, hết
chảy dịch và không tạo thành các mô hạt viêm
khi để trơ xương hố mổ.

phát thấp (chưa ghi nhận trường hợp nào tái
phát cholesteatoma trong khoảng thời gian theo
dõi trung bình 7 tháng). Phương pháp này thích
hợp với các trường hợp xương chũm kém thông
bào do không cần phải khoan xương nhiều cũng
như làm thu nhỏ hố mổ chũm. PT KRĐCTT có
CHTG có thể được ứng dụng trên lâm sàng đặc
biệt phù hợp với khả năng kinh tế cũng như ý
thức chăm sóc sức khoẻ chưa cao của người dân
nước ta.


Kết quả nghiên cứu của chúng tôi và các tác
giả khác đã cho thấy cân cơ thái dương tự thân
có độ tương hợp sinh học cao làm một chất liệu
sinh học phù hợp với việc lót hố mổ và vá nhĩ
trong phẫu thuật khoét rỗng đá chũm tường
thấp có chỉnh hình tai giữa. Hơn nữa do kỹ thuật
lấy cân cơ tương đối đơn giản, có thể thực hiện 1
thì, rút ngắn thời gian phẫu thuật giảm thiểu
những nguy cơ có thể xảy ra do việc gây mê kéo
dài cho bệnh nhân. Bên cạnh đó, chi phí điều trị
hợp lý, thời gian cần thiết để theo dõi và đánh
giá sau phẫu thuật ngắn là những ưu điểm để
phương pháp này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy PT
KRĐCTT có CHTG trên những trường hợp
VTGM có cholesteatoma là một phương thức
điều trị có kết quả khả quan với tỷ lệ hố mổ khô
và màng nhĩ kín lần lượt là 92,5% và 90%, tỉ lệ tái

1.
2.

3.

4.


5.

6.

Bailey BJ (2006). "Head & Neck Surgery - Otolaryngology, 4th
edition". Lippincott Williams & Wilkins.
Flint PW, Haughey BH, Lund V, Niparko JK et al (2015). In:
Cummings Otolaryngology - head and neck surgery, 6th ed.
Elsevier Saunders - Philadelphia, PA.
Goyal R, Ashish M, Sadat Q et al (2016). "Modified Radical
Mastoidectomy with Type III Tympanoplasty: Revisited". Indian
Journal of Otolaryngology and Head & Neck Surgery, 68(1):pp.52-55.
Huỳnh Bá Tân (2014). "Viêm tai giữa mạn tính có
cholesteatoma: Chẩn đoán và điều trị". Kỷ yếu Hội Nghị Khoa Học
Tai Mũi Họng Toàn Quốc lần thứ XVII.
Kim CW, Oh JI, Young CK et al (2012). "A technique for
concurrent procedure of mastoid obliteration and meatoplasty
after canal wall down mastoidectomy". Auris Nasus Larynx,
39(6):pp.557-561.
Kos MI, Montandon P, Castrillon R et al (2004). "Anatomic and
Functional Long-Term Results of Canal Wall-Down
Mastoidectomy". Annals of Otology, Rhinology & Laryngology,
113(11):pp.872-876.

Ngày nhận bài báo:
Ngày phản biện nhận xét bài báo:

21/01/2019
13/02/2019


Ngày bài báo được đăng:

20/04/2019

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

131



×