Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.16 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ TRÚC

NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC
SINH THPT HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH
BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số: 603180
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010


LỜI CẢM ƠN

Người nghiên cứu đề tài xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Các Thầy (Cô) giáo trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy
trong suốt năm tháng học cao học.
- TS. Trần Thị Quốc Minh - Người hướng dẫn luận văn, đã tận tình chỉ bảo trong quá
trình hoàn thành luận văn.
- Ban giám hiệu và các Thầy (Cô) giáo của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước
Bửu, Hòa Hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Người nghiên cứu cũng xin được cảm ơn các em học sinh của trường THPT Xuyên Mộc,
Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã cộng tác nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Xin trân trọng cảm ơn!



LỜI CAM ĐOAN
Người nghiên cứu xin cam đoan rằng luận văn này do chính bản thân người nghiên
cứu thực hiện, số liệu trong luận văn là có thực do quá trình người nghiên cứu nghiên cứu
thực trạng tại bốn trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu.
Nếu vi phạm người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiệm theo quy định của phòng Sau đại
học - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................................. 2
0T

T
0

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................... 3
0T

0T

MỤC LỤC ...................................................................................................................................... 4
0T

T
0

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................. 6
0T

0T


MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 1
0T

T
0

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ........................................................................................................................ 1
0T

0T

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: ............................................................................................................... 3
0T

0T

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:....................................................... 3
0T

T
0

4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU: ........................................................................................................... 3
0T

0T

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: ............................................................................................................... 3
0T


0T

6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU: ................................................................................................ 3
0T

0T

7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:........................................................................................................ 4
0T

0T

8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI: .......................................................................................... 4
0T

T
0

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ..................................................................................................... 5
0T

0T

1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề: ................................................................................................. 5
0T

0T

1.2.Lí luận chung về tham vấn tâm lí: ..................................................................................................... 11

0T

0T

1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lí: .................................................................................. 11
T
0

T
0

1.2.2. Tham vấn và các khái niệm liên quan: ...................................................................................... 14
T
0

T
0

1.2.2.1. Tư vấn và tham vấn: ......................................................................................................... 14
T
0

0T

1.2.2.2. Trị liệu tâm lí và tham vấn: ............................................................................................... 16
T
0

0T


1.2.2.3. Tham vấn và cố vấn: ......................................................................................................... 17
T
0

0T

1.2.2.4. Tham vấn và công tác xã hội: ........................................................................................... 18
T
0

T
0

1.3. Lí luận chung về nhu cầu và nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT: ...................................... 19
0T

T
0

1.3.1.Nhu cầu: ................................................................................................................................... 19
T
0

0T

1.3.1.1. Khái niệm: ........................................................................................................................ 19
T
0

0T


1.3.1.2. Đặc điểm nhu cầu: ............................................................................................................ 20
T
0

0T

1.3.1.3. Các mức độ của nhu cầu: .................................................................................................. 22
T
0

0T

1.3.1.4. Sự hình thành nhu cầu: ..................................................................................................... 23
T
0

0T

1.3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:........................................................................... 24
T
0

T
0

1.3.2.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT: .......................................................................... 24
T
0


T
0

1.3.2.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT: ................................................................... 28
T
0

T
0

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC SINH THPT
HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU ............................................................... 31
0T

T
0

2.1. Mục đích nghiên cứu: ...................................................................................................................... 31
0T

0T

2.2. Cách thức nghiên cứu: ..................................................................................................................... 31
0T

0T


2.2.1. Mẫu nghiên cứu: ...................................................................................................................... 31
T

0

0T

2.2.2. Dụng cụ nghiên cứu và cách tiến hành: .................................................................................... 32
T
0

T
0

2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng: ........................................................................................................ 32
0T

0T

2.3.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT:................................ 33
T
0

T
0

2.3.1.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT xét theo trường:............................. 36
T
0

T
0


2.3.1.2.Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp: .................................... 38
T
0

T
0

2.3.1.3. Mức độ cần được tham vấn tâm lí ở các lĩnh vực xét theo giới tính ................................... 39
T
0

T
0

2.3.2. Lí do học sinh THPT cần được tham vấn trong các lĩnh vực: .................................................... 42
T
0

T
0

2.3.2.1. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo trường: .................... 45
T
0

T
0

2.3.2.2. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp: .......................... 47
T

0

T
0

2.3.2.3. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo giới: ........................ 49
T
0

T
0

2.3.3. Cách thức học sinh giải quyết khó khăn, vướng mắc trong các lĩnh vực: .................................. 51
T
0

T
0

2.3.3.1.Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo trường:
..................................................................................................................................................... 53
T
0

2.3.3.2. Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo lớp và
giới tính: ....................................................................................................................................... 54
T
0

T

0

2.3.4 Mong muốn của học sinh THPT về phòng tham vấn tâm lí ở trường phổ thông:........................ 56
T
0

T
0

2.4. Một số biện pháp định hướng cho công tác tham vấn ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR Vũng Tàu:....... 59
0T

T
0

2.4.1.Cơ sở để xây dựng biện pháp: ................................................................................................... 59
T
0

0T

2.4.2. Một số biện pháp định hướng cho công tác tham vấn ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng
Tàu: ................................................................................................................................................... 59
T
0

T
0

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................................... 62

0T

0T

1. KẾT LUẬN: ...................................................................................................................................... 62
0T

T
0

2. KIẾN NGHỊ: ...................................................................................................................................... 63
0T

T
0

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................................. 1
0T

0T

PHỤ LỤC........................................................................................................................................ 5
0T

T
0

T
0



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

THPT: Trung học phổ thông
THCS: Trung học cơ sở
THCN: Trung học chuyên nghiệp
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
TB: Trung bình
ĐLTC: Độ lệch tiêu chuẩn
X: Chi bình phương
P: Mức ý nghĩa quan sát
N: Số người
RCT: Rất cần thiết
CT: Cần thiết
KCT: Không cần thiết


MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem lại
những thay đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người trong
xã hội, đặc biệt là ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên bên
cạnh những mặt tích cực nó cũng gây ra không ít những mâu thuẫn, xung đột và
tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Ở mỗi cá nhân
xuất hiện những khó khăn tâm lí mà tự bản thân mỗi cá nhân không thể giải quyết
được, họ đã phải tìm đến sự trợ giúp của tham vấn tâm lí - một loại hình dịch vụ
đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Áp lực lớn từ những vấn đề của xã hội hiện đại cũng làm cho quá trình phát triển

của học sinh THPT - lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân
cách mạnh mẽ nhất - diễn ra không hoàn toàn phẳng lặng, êm xuôi mà ở mỗi giai
đoạn phát triển thường xảy ra những lo âu, căng thẳng, xung đột riêng. Vì thế,
trong quá trình phát triển trẻ em luôn có những sự mất cân bằng với các hiện tượng
bất thường. Trong nhiều trường hợp, những hiện tượng bất thường đó chỉ là tạm
thời, là tự nhiên, thậm chí là cần thiết cho sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên ở một
số trường hợp khác, chúng là biểu hiện của sự nhiễu loạn tâm lí ở trẻ khiến cha mẹ,
thầy cô giáo lo lắng, bực bội và nhiều khi bất lực . Nói như Bác sĩ Nguyễn Khắc
Viện: “Bề ngoài trông như yên lành nhưng cái khổ hàng ngày vẫn bao trùm các
em”. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng các học sinh, sinh viên
ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn tâm lí trong việc lựa chọn
những chân giá trị của thời đại, trong định hướng nghề, và sự lựa chọn việc làm;
trong quan hệ giao lưu và những khó khăn nảy sinh trong chính nội tại quá trình
phát triển tâm lí lứa tuổi. Vì vậy nhu cầu cần được trợ giúp và định hướng để giải
quyết những khó khăn tâm lí ở học sinh rất lớn. Nhiều mô hình trợ giúp học sinh


được thử nghiệm, trong đó tham vấn tâm lí là một trong những hình thức đang
được phát triển và kỳ vọng.
Như vậy, có thể thấy rằng những năm học ở trường THPT là quãng thời gian quan
trọng với nhiều dấu ấn trong cuộc đời học tập của con người, đây là gian đoạn có
nhiều thay đổi trong tâm lí của mỗi cá nhân. Do đó khi gặp những căng thẳng về
tâm lí, nếu học sinh được tham vấn, giải tỏa kịp thời thì những ảnh hưởng tiêu cực
của nó đến cuộc sống nói chung và đến kết quả học tập sẽ giảm đi rõ rệt. Ngược lại,
các em có thể bị stress, lo âu, trầm cảm hoặc có những hành vi lệch chuẩn. Việc ra
đời của các phòng tham vấn tâm lí ở các trường THPT là điều rất cần thiết.
Đối với học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu, là địa bàn
huyện vùng sâu nhưng kinh tế cũng đang dần phát triển, văn hoá nơi thành thị du
nhập đã tạo ra một số xáo trộn trong cuộc sống nơi đây, dẫn đến những biến động
không nhỏ tới tâm lí của các em. Các em cũng gặp phải những khó khăn tâm lí cần

được tháo gỡ mà không phải thầy cô hay cha mẹ nào cũng có thể giúp đỡ để các
em có được sự thăng bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng phát triển nhân
cách đúng đắn. Đây là một nhu cầu có thực và ngày càng trở nên cấp thiết của học
sinh THPT. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu xem có những nguyên nhân cơ bản
nào gây ra những khó khăn tâm lí của các em? nhu cầu tham vấn tâm lí của các em
ở mức độ nào? lĩnh vực nào các em cần được tham vấn nhiều nhất? để từ đó xác
định phương hướng tổ chức các hoạt động tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của
các em học sinh trên phạm vi của huyện cũng như toàn tỉnh.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “ Nhu cầu tham vấn
tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” làm đề tài
nghiên cứu khoa học nhằm mục đích đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn
tâm lí của các em học sinh THPT, từ đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ
chức công tác tham vấn tâm lí trong trường THPT, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của phòng tham vấn trong nhà trường phổ thông để hoạt động tham vấn
tâm lí thực sự trở thành người bạn đồng hành của học sinh THPT.


2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên
Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ
chức công tác tham vấn trong trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc nói
riêng cũng như trên phạm vi toàn tỉnh Vũng Tàu.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:

3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT.
3.2. . Khách thể nghiên cứu :
458 học sinh và 35 giáo viên chủ nhiệm THPT huyện Xuyên Mộc thuộc bốn
trường: Hòa Bình, Xuyên Mộc, Phước Bửu, Hòa Hội.

4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:

Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc biểu hiện ở mức
cao, tuy nhiên có sự khác biệt về nội dung cần được tham vấn ở các trường xét
theo khối lớp và giới tính do nhiều nguyên nhân.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên
Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí cho
học sinh THPT trên địa bàn huyện.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biểu hiện của nhu cầu tham vấn tâm lí của
học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu năm học 2009 -2010


7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Tổng hợp tài liệu có liên quan để hình thành cơ sở lí luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra bằng phiếu hỏi. Đây là phương pháp chính của đề tài. Chúng tôi thiết kế
2 loại bảng hỏi dành cho học sinh và giáo viên nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu
tham vấn tâm lí của học sinh THPT ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu.
Cụ thể là khảo sát mức độ cần thiết của học sinh về tham vấn tâm lí, nhu cầu tham
vấn tâm lí ở nội dung và hình thức tham vấn…
- Phỏng vấn. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trên 10 học sinh và 10 giáo viên nhằm
tìm hiểu rõ hơn về thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT, đặc biệt

là nguyên nhân của thực trạng và những giải pháp cần thực hiện. Đồng thời phỏng
vấn để kiểm tra, khẳng định lại kết quả điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu được
những kết quả đáng tin cậy.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu:
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lí, tổng kết số liệu điều tra đưa ra các kết luận định
lượng làm cơ sở cho các kết luận định tính.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:

Đề tài đã mô tả được thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện
Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là: Mức độ cần được tham vấn tâm lí
trong các lĩnh vực của học sinh THPT, lí do học sinh THPT cần được tham vấn,
mong muốn của học sinh THPT về phòng tham vấn tâm lí trong trường học… Từ
đó đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí
cho học sinh THPT trên địa bàn huyện.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề:

Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu hợp quy luật, đảm bảo cho sử tồn tại và phát triển
của cơ thể. Khi bàn đến nhu cầu, các triết gia kinh điển đã viết: “ Bản thân nhu cầu
đầu tiên được thỏa mãn, hành động thoả mãn và công cụ đã đạt được để thoả mãn
nhu cầu ấy lại đưa tới những nhu cầu mới, vừa nảy sinh ra những nhu cầu mới này
là sự việc lịch sử đầu tiên {19; 76}.
Từ đầu thế kỷ XIX , Small (người Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lí của cá nhân
bắt nguồn từ những nhu cầu của nó ( về của cải, quyền lực, về sự tán thành của
người khác…). Vào giữa thế kỷ XIX, V.Koller, E.Thorndike, N.E.Miller… nghiên
cứu các kiểu hành vi động vật được thúc đẩy bởi nhu cầu và đưa ra thuật ngữ “ luật
hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữa kích thích và đáp ứng của cơ thể. Trên cơ sở

này, họ đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành vi. Cuối thế kỷ XIX,
S.Freud đã đưa vấn đề nhu cầu vào Lý thuyết bản năng của con người. Theo Freud,
lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả
hành vi của con người đều hướng tới việc mong muốn những nhu cầu của cơ thể.
Vào những năm của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu cầu ở
con người. Chẳng hạn như lý thuyết động cơ hệ của K.Lewin cho rằng, những
nhân tố thực của hoạt động tâm lí của con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ
thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội {32}.
Đại diện tiêu biểu cho trường phái tâm lí học nhân văn là A.Maslow trong công
trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng, con người có những nhu cầu chân chính
về giao tiếp, về sự lệ thuộc, về tình yêu, về lòng kính trọng… Những nhu cầu này
có bản chất, bản năng đặc trưng cho giống người. Như vậy, theo ông “tính người”
của nhu cầu được hình thành trong quá trình phát sinh loài người. Mọi nhu cầu
thuộc hệ thống thứ bậc đều có liên quan đến cấu trúc cơ thể của con người và được
dựa trên một nền tảng di truyền nhất định. Ông đã hình dung nhu cầu và sự phát


triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc cầu thang gồm năm bậc từ
thấp đến cao: Nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về
sự tự trọng và nhu cầu tự thể hiện. Mỗi bậc nhu cầu của con người đều phụ thuộc
vào bậc nhu cầu trước đó, nếu một nhu cầu ở bậc thấp không được đáp ứng cá
nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước phát triển tiếp theo. Theo ông, sau khi nhu cầu
bậc thấp được thỏa mãn thì nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu bậc cao hơn {32}.
Còn nhà tâm lí học người Mỹ - Herry Murray đã xây dựng bảng phân loại nhu cầu
gồm 20 loại nhu cầu {11, 172}. Ông cho rằng, nhu cầu là một động lực xuất phát
từ cơ thể và sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình
huống xã hội, phải có sự cải tổ nhằm mục đích đạt được sự thích ứng. Tuy chịu
nhiều ảnh hưởng của S.Freud nhưng theo ông nếu chỉ giải thích như Freud thì quá
đơn giản. Theo thuyết của ông, những nhu cầu tâm lí xác định được ở con người là
những mức độ khác nhau và cường độ mạnh yếu khác nhau ở từng người. Ở người

này có những loại nhu cầu này mãnh liệt nhưng ở người khác lại có những loại nhu
cầu khác. Tuy nhiên ông không hề đả động trực tiếp đến vấn đề nội dung của các
nhu cầu, động cơ của nhân cách, tính quy định xã hội của các nhu cầu và động cơ
gây ra hành động.
Đến nửa cuối thế kỷ XX có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của con
người được bổ sung và được trình bày trong các công trình nghiên cứu của
Mc.Clelland, Carl Rogers, Rom Harré… Các tác giả này đều nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của nhu cầu xã hội và khẳng định đây chính là tác nhân tích cực cho sự
phát triển cá nhân.
Trong tâm lí học Xô Viết, khái niệm nhu cầu giữ vai trò nền tảng trong việc nghiên
cứu chủ thể, không có nó thì không có cuộc sống. Nhưng để thỏa mãn các nhu cầu
cần phải có hoàn cảnh thích hợp, phải có những phương tiện cho phép thỏa mãn
những nhu cầu. Khi đã có sẵn nhu cầu và phương tiện thỏa mãn nhu cầu thì chủ thể
sẽ sẵn sàng thực hiện hành động đưa đến thỏa mãn nhu cầu. Đó chính là tâm thế
thực hiện hành động, nó là một khâu cần thiết với thực tại và các chức năng tâm lí.
Người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu và ý nghĩa của nó


đối với hoạt động của con người là D.N.Uznadze trong cuốn sách Tâm lí học đại
cương xuất bản năm 1940. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể
sống, là cội nguồn của tính tích cực và nó phát triển tương ứng với sự phát triển
của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực
của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Ở con người tồn
tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu cấp thấp (nhu cầu tồn tại - đói, khát, tình
dục…) và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ…). Trong những
hành vi hàng ngày của mình con người không chỉ mong muốn thỏa mãn những nhu
cầu cấp thấp mà còn mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp cao và ở mỗi cá
nhân khác nhau mức độ mỗi loại nhu cầu này là khác nhau. Sự chiếm ưu thế của
nhu cầu cấp cao hay cấp thấp ở mỗi cá nhân là do điều kiện sống, điều kiện giáo
dục, phụ thuộc vào ấn tượng, sự thể nghiệm mà con người thấy có ý nghĩa {32}.

Dựa trên quan điểm triết học Mac-Lênin, X.L.Rubinstêin cho rằng, con người có
nhu cầu sinh vật nhưng bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì
vậy cần xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông
nhấn mạnh sự cần thiết của con người về một “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể. “Cái gì
đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn nhu cầu
thông qua sự hoạt động của chủ thể. Theo ông, nhu cầu là một thành tố của động
cơ, chính là hạt nhân của nhân cách cho nên nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện
khác nhau của nhân cách, đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú, niềm tin. Vì
vậy thực tế nhu cầu là xuất phát điểm của một loạt các hiện tượng tâm lí, tuy nhiên
khi nghiên cứu về nhân cách chúng ta không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải
khám phá ra quá trình nảy sinh và biểu hiện của nhu cầu, đồng thời phải thống nhất
các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố chủ quan (trạng thái tâm lí
của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
Từ quan niệm trên ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực, vừa
mang tính chủ động. Cụ thể: Nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể
nhưng được thỏa mãn hay không thỏa mãn lại phụ thuộc vào hệ thống các đối
tượng trong những điều kiện cụ thể (tính thụ động của nhu cầu); mặt khác nhu cầu


sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng, phương thức, phương tiện thỏa
mãn nhu cầu – nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động (tính tích cực của
nhu cầu). Chính từ hai mặt này mà ta thấy được sự hình thành và phát triển của nhu
cầu. Đó là sự vận động bên trong của nhu cầu theo những giai đoạn, cấp độ nhất
định.
Khi đề cập đến nhu cầu A.N.Leonchiev đã xác định hai cấp độ của nó: là trạng
thái tâm lí bên trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt động. Nó thể hiện trạng thái
thiếu thốn của cơ thể. Nhưng do chưa có đối tượng để thỏa mãn nên ở cấp độ này
nhu cầu chỉ có khả năng phát động sức mạnh của các chức năng tâm lí và tạo ra sự
kích thích chung. Kết quả, dẫn đến các hành vi tìm tòi vô hướng. Cấp độ thứ hai,
cao hơn, nhu cầu gặp gỡ đối tượng. Ở cấp độ này nhu cầu có khả năng kích thích,

hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng: hướng đến đối tượng
thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, nhu cầu theo đúng nghĩa tâm lí học (ở cấp độ tâm lí)
phải gắn liền với đối tượng của nó. Nói cách khác nhu cầu phải được “vật hoá”,
“đối tượng hoá” vào trong thực thể khách quan, ở bên ngoài chủ thể, hướng dẫn và
kích thích chủ thể về phía đó. Sự phát triển của nhu cầu là sự phát triển nội dung
đối tượng của nó{25; 589}.
Leonchiev đi sâu phân tích bản chất tâm lí của nhu cầu và đã khẳng định: “Nhu cầu
với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Nhu
cầu không chỉ là những cái mà chủ thể sinh ra đã có và chi phối hoàn toàn hoạt
động của con người mà nó nảy sinh trong quá trình hoạt động và sau đó quay trở
lại chi phối hoạt động của con người theo sơ đồ:
Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động
Ông cho rằng, nhu cầu của con người không chỉ được sản xuất ra mà còn được cải
biến ngay trong quá trình sản xuất và tiêu thụ và đó cũng chính là mấu chốt để hiểu
được bản chất các nhu cầu của con người.
Ở nước ta, những đề tài nghiên cứu về vấn đề nhu cầu tham vấn tâm lí của đối
tượng học sinh THPT đã được một số tác giả thực hiện:


Trong đề tài “Khó khăn tâm lí và nhu cầu tham vấn của học sinh phổ thông” nhóm
tác giả Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007) đã chỉ ra các khía
cạnh thể hiện khó khăn tâm lí ở học sinh THPT là khó khăn trong việc xác định lựa
chọn nghề nghiệp cho tương lai, khó khăn trong học tập, băn khoăn về sự phát
triển tâm sinh lí của bản thân, khó khăn trong quan hệ với cha mẹ, thầy cô. Nghiên
cứu đã chỉ ra sự cần thiết của hoạt động tham vấn trong nhà trường và những hình
thức tham vấn mà học sinh quan tâm như tham vấn trực tiếp tại trường, qua thư,
qua điện thoại {13}.
Các tác giả Trương Bích Nguyệt (2003), Võ Thị Tích (2004) đã tìm hiểu nhu cầu
về nội dung và hình thức tham vấn trong nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm
chất và năng lực của nhà tham vấn, tác giả đã kết luận thành lập phòng tham vấn

trong nhà trường là việc rất cần thiết với yêu cầu phải có chuyên viên tham vấn có
trình độ chuyên môn về tâm lí giáo dục và phải có một số phẩm chất cần thiết như:
dễ gần và thân thiện, biết thông cảm và chia sẻ, tôn trọng và giữ bí
mật…{26},{29}.
Nghiên cứu về nội dung tham vấn giới tính của học sinh nhóm tác giả Ngô Đình
Qua, Nguyễn Thượng Chí (2006) đã đưa ra kết luận là cả học sinh THCS và học
sinh THPT đều có nhu cầu được tư vấn về tâm lí - giới tính, nhưng số học sinh
THPT có nhu cầu chiếm tỉ lệ % cao hơn. Nhu cầu này chưa được người lớn đáp
ứng đầy đủ vì vậy cần phải có phòng tư vấn tâm lí giáo dục đặt tại các trường trung
học {28}.
Tác giả Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hoàng (2006) trong nghiên cứu về tham vấn
học đường nhìn từ góc độ giới đã đề cập đến sự khác biệt về nhu cầu tham vấn của
học sinh nam và nữ. Theo nhóm tác giả, nhà tham vấn học đường cần nắm được
những mối quan tâm khác nhau giữa học sinh nam và học sinh nữ, phân tích được
các tác động của mối quan hệ tham vấn, hiệu quả giữa nhà tham vấn học đường là
nam hay nữ khi làm việc với học sinh là nam hay nữ… Từ đó đề xuất việc nâng
cao nhận thức về giới của các nhà tham vấn học đường thông qua các khóa học lấy
giới làm trung tâm trong quá trình tham vấn {8}.


Nghiên cứu về “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinhTHPT tác
giả Nguyễn Hà Thành (2009) đã đưa ra kết luận: Tất cả học sinh THPT đều có nhu
cầu hiểu biết và được giáo dục về sức khỏe sinh sản. Học sinh THPT mong muốn
chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản được chính thức đưa vào trường học {30}.
Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lí cho học sinh ở
các trường THPT tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho biết hiện nay đã có gần 50
trường phổ thông có phòng tham vấn tâm lí nhưng chủ yếu tập trung ở hai thành
phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mức độ tiếp cận với hoạt động này
của học sinh còn khá khiêm tốn (chỉ có 0.3% học sinh thường xuyên đến phòng
tham vấn, số lượng học sinh đến tham vấn ở mức độ thỉnh thoảng và thường xuyên

chiếm chưa đến 7%). Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều nhưng có ba
nhóm yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp xuất phát từ bản thân học sinh, những
người làm công tác tham vấn trong trường THPT và từ phía nhà trường, xã hội
{20}.
Ngoài ra còn rất nhiều những bài viết trên tạp chí Tâm lí học, các bài tham luận
đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học, đề cập đến nhu cầu của tham vấn cũng
như sự cần thiết của chuyên viên tâm lí trong trường học và cách thức tổ chức các
hoạt động tham vấn trong trường {14}, {12}, {7}, {16}, {24}… đã phản ánh phần
nào về nhu cầu tham vấn tâm lí của thanh thiếu niên, đặc biệt các vấn đề tâm lí hay
gặp phải của họ cũng như các hình thức tham vấn phù hợp.
Như vậy, có thể thấy rằng nhu cầu đòi hỏi về tham vấn trong xã hội hiện nay là rất
lớn, nhất là ở lứa tuổi học sinh phổ thông mà hoạt động tham vấn một cách chuyên
nghiệp ở nước ta còn rất mới mẻ cả về nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là
trên địa bàn huyện vùng sâu vùng xa thì hoạt động tham vấn gần như bị bỏ ngỏ,
các công trình nghiên cứu còn rất ít ỏi. Điều đó đang đặt ra cho chúng ta sự nỗ lực
rất nhiều trong nghiên cứu, phát triển tham vấn trên mọi phương diện. Xuất phát từ
hoàn cảnh thực tiễn này chúng tôi triển khai đề tài “Nhu cầu tham vấn tâm lí của
học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” nhằm đánh giá chính


xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em nơi đây và để góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong các trường phổ thông hiện nay.
1.2.Lí luận chung về tham vấn tâm lí:
1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lí:

Tham vấn (Counseling) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt Nam trong khoảng
10 – 15 năm trở lại đây, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn đang tồn tại nhiều cách
hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này.
Không riêng gì ở Việt Nam mà tại các nước Phương tây và Bắc Mỹ thuật ngữ tham
vấn cũng được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi, nó dùng để chỉ những hoạt

động của người giúp đỡ thông thường hoặc của tình nguyện viên, họ được xem
như như là người làm công tác trợ giúp. Hay những người làm công tác tham vấn
chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch vụ xã hội hoặc các trường học với
nền tảng kiến thức về tâm lí học, công tác xã hội hoặc các ngành khác. Dưới đây
có thể dẫn ra một số cách hiểu của các tác giả trong và ngoài nước về khái niệm
này:
Theo hiệp hội tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997): Tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc
tâm lí, sức khoẻ tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các
chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập
trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn
đề bệnh lí. Định nghĩa này cũng xác định rằng quá trình tham vấn được hiểu như là
một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách hàng, trong mối quan hệ
này nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết vấn đề của mình.
P.K.Onner cho rằng, tham vấn là một quá trình vì vậy đòi hỏi nhà tham vấn phải
dành thời gian nhất định và sử dụng các kỹ năng một cách thuần thục để giúp đỡ
thân chủ tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai các giải pháp trong điều kiện cho
phép.
Richard Nelsson(1997) cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới thay đổi cách
thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo nên một cuộc


sống tốt đẹp hơn. Theo ông, tham vấn là một quá trình can thiệp, giải quyết vấn đề
với một mối quan hệ, một quá trình tương tác đặc biệt giữa người làm tham vấn và
thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử dụng ở những cấp độ khác nhau,
có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà tâm lí học, cán sự xã
hội hay đơn thuần là một phần công việc của giáo viên, y tá, tình nguyện viên {9}.
Trong Từ điển Tâm lí học, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hiểu tham vấn là quá trình
các chuyên gia chẩn đoán, tìm hiểu căn nguyên và thiết lập cách xử lí đối với
những trẻ em có vấn đề về tâm lí {36}.
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai: Tham vấn tâm lí là một hoạt động mà nhà chuyên

môn bằng kiến thức, hiểu biết và kỹ năng nghề nghiệp của mình, thấu hiểu những
cảm xúc, suy nghĩ, hành vi của đối tượng (cá nhân, gia đình hay nhóm), giúp họ
khai thác nguồn lực, tiềm năng cho quá trình giải quyết {22}.
TS Trần Thị Giồng thì định nghĩa: “Tham vấn là sự tương tác giữa nhà tham vấn
và thân chủ, trong quá trình này nhà tham vấn sử dụng các kỹ năng chuyên môn
giúp thân chủ khơi dậy tiềm năng để họ có thể tự giải quyết vấn đề đang gặp phải”.
PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, Tham vấn là tham vấn với chính thân chủ đang có
vấn đề cần tìm cách giải quyết phù hợp.
TS. Trần Thị Minh Đức đã đưa ra khái niệm khá toàn diện, phản ánh nhiều góc độ.
Theo tác giả, tham vấn là một tiến trình tương tác giữa người làm tham vấn - người
có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và
được pháp luật thừa nhận, với thân chủ - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lí
cần được giúp đỡ. Thông qua các kỹ năng trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình, giúp
thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải
quyết vấn đề của chính mình {9}. Như vậy, quá trình tham vấn nhằm giúp cho thân
chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của
mình, nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp về mặt thông tin, giải tỏa
các xúc cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ chứ không
đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình


giúp đỡ chứ không làm hộ cho thân chủ, quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh
lên, giám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn của chính mình.
Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của tham vấn như sau:
 Tham vấn là một tiến trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc và phải mang tính
liên tục. Một quá trình tham vấn bao gồm các giai đoạn cụ thể khác nhau có
thể kéo dài trong một vài ngày, một tuần, một tháng, thậm chí một vài năm.
Thông thường một ca tham vấn có thể diễn ra với 5 giai đoạn sau:
• Giai đoạn 1: Thiết lập quan hệ.
• Giai đoạn 2: Thu thập, xử lí thông tin, đánh giá vấn đề.

• Giai đoạn 3: Tìm kiếm cách giải quyết và giúp thân chủ lựa chọn giải
pháp thích hợp nhất.
• Giai đoạn 4: Giám sát và trợ giúp thân chủ thực hiện giải pháp.
• Giai đoạn 5: Kết thúc tham vấn.
Tham vấn là một hoạt động diễn ra trong một quá trình với các hoạt động xây dựng
mối quan hệ, khai thác tìm hiểu xác định vấn đề, giải quyết vấn đề.
 Tham vấn là sự trợ giúp: Trợ giúp trong quá trình tham vấn là giúp thân chủ
những công cụ, phương tiện tâm lí để họ tự giúp chính bản thân mình, củng
cố lại cái tôi của họ từ đó có đủ tự tin trong việc ứng phó với những khó
khăn trong cuộc sống. bản chất của tham vấn là phương pháp trợ giúp người
có vấn đề tự giải quyết vấn đề của chính mình chứ không phải là đưa ra lời
khuyên mà chúng ta thường hiểu. Nhiệm vụ của nhà tham vấn phải làm là
một chỗ dựa tinh thần để thân chủ có cơ hội và có đủ tự tin nhìn lại mình
một cách khách quan.
 Tham vấn là trợ giúp, khai thác tiềm năng của thân chủ để thân chủ tự giải
quyết vấn đề của mình. Khả năng thích ứng ở mỗi con người là rất lớn và
bản thân thân chủ đến với nhà tham vấn cũng có khả năng này nhưng chưa ý
thức được hoặc cố tình không ý thức được. Nhiệm vụ của nhà tham vấn là
giúp thân chủ nhìn thấy tiềm năng của chính mình, đánh thức và sử dụng


chúng để xử lí tình huống mà họ đang gặp phải. Những khó khăn của thân
chủ là những vấn đề mang tính chất riêng tư và chính họ là người trong cuộc,
là người trực tiếp cảm nhận, trải nghiệm, đánh giá hậu quả của tình huống và
trực tiếp lượng giá những tác động tích cực hoặc tiêu cực do việc giải quyết
tình huống mang lại. Vì vậy chỉ có thân chủ mới là người hợp lí và có đủ
điều kiện để thực thi các chiến lược cải thiện cuộc sống cho chính bản thân
họ. Tất nhiên họ không thể làm việc một cách độc lập mà cần có sự giúp đỡ
của nhà tham vấn nhưng quyền quyết định và đứng ra thực hiện cuối cùng
phải là thân chủ. Họ phải tích cực, chủ động giải quyết vấn đề và cải thiện

tình trạng cho chính bản thân mình. Với ý nghĩa này tham vấn có tác dụng là
giúp thân chủ nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong cuộc sống.
Như vậy, có thể nhận thấy hoạt động tham vấn được diễn ra trên cơ sở mối quan hệ
giao tiếp đặc biệt, đòi hỏi sự tương tác tích cực giữa người làm tham vấn và đối
tượng. Người làm tham vấn là người được trang bị các giá trị, thái độ đạo đức nghề
nghiệp, những tri thức hiểu biết về tâm lí con người và các kỹ năng tham vấn để
thấu hiểu đối tượng, giúp đối tượng vượt lên chính mình. Còn đối tượng được tham
vấn do nhiều nguyên nhân khác nhau trở nên mất cân bằng về tâm lí, khó khăn
trong thích nghi, hoà nhập xã hội.
Trong đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lí
của học sinh THPT. Từ những phân tích ở trên chúng tôi quan niệm rằng: Tham
vấn tâm lí là một tiến trình trợ giúp đối tượng(người đang có khó khăn về tâm lí
cần được giúp đỡ) nâng cao nhận thức, duy trì sự thăng bằng tâm lí, tăng cường
khả năng ứng phó với các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của bản thân, ra quyết
định phù hợp với hoàn cảnh của mình và thực hiện quyết định một cách hiệu quả.
1.2.2. Tham vấn và các khái niệm liên quan:
1.2.2.1. Tư vấn và tham vấn:

Tư vấn – trong tiếng Anh là consultation - được xem như quá trình tham khảo về
lời khuyên hay sự trao đổi quan điểm về vấn đề nào đó để đi đến một quyết định.


Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Tư vấn là sự phát biểu ý kiến về những vấn đề
được hỏi đến nhưng không có quyền quyết định. Hoạt động này phần nhiều diễn ra
dưới dạng hỏi - đáp.
Cho đến hiện nay ở Việt nam vẫn còn nhiều tranh luận về cách gọi tên tham vấn
hay tư vấn. PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, tham vấn là tham vấn với chính thân
chủ đang có vấn đề cần tìm cách giải quyết phù hợp, còn tư vấn chỉ là sự cung cấp
kiến thức, thông tin, hoặc cách giải quyết đã có sẵn cho thân chủ mà thôi, không
đòi hỏi phải tìm hiểu thân chủ, không đòi hỏi phải cùng thân chủ tìm cách giải

quyết phù hợp {4}.
Thực tế cho thấy hoạt động của các trung tâm tư vấn hiện nay phần lớn hoạt động
theo phương thức hỏi - đáp, trao đổi ý tưởng, cung cấp thông tin và có thể là đưa ra
lời khuyên để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng chức năng của tham
vấn không phải là đưa ra lời khuyên, do vậy có sự khác biệt giữa tham vấn và tư
vấn ở những điểm sau:
- Về mục tiêu: Tư vấn chủ yếu hướng đến giải quyết vấn đề hiện tại còn hoạt
động tham vấn hướng tới mục tiêu lâu dài hơn, đó là giúp cá nhân nâng cao
khả năng tự giải quyết vấn đề sau khi được tham vấn.
- Về tiến trình: Tư vấn thường là cung cấp thông tin hay đưa ra lời khuyên do
vậy nó diễn ra trong một thời gian ngắn, giải quyết vấn đề tức thời. Còn
tham vấn diễn ra trong thời gian có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng, thậm
chí hàng năm.
- Về mối quan hệ: Trong tư vấn, có thể là mối quan hệ trên dưới giữa một
người được xem là “uyên bác” với những thông tin chuyên môn, còn bên kia
là người “thiếu hiểu biết” về vấn đề nào đó, bên cạnh mối quan hệ ở đây
không đòi hỏi sự tương tác rất tích cực từ phía đối tượng. Trong khi đó ở
tình huống tham vấn, mối quan hệ mang tính ngang bằng, bình đẳng và đòi
hỏi có sự tương tác rất chặt chẽ và hợp tác tích cực giữa hai bên, có thể nói
mối quan hệ này đóng vai trò như một công cụ quan trọng cho sự thành công
của ca tham vấn.


- Về cách thức tương tác: Cách thức can thiệp của tư vấn chính là cung cấp
thông tin và lời khuyên bổ ích từ người tư vấn với đầy đủ kiến thức chuyên
sâu về vấn đề cần tư vấn. Trong tham vấn, sự thành công phụ thuộc vào kỹ
năng tương tác của nhà tham vấn để thân chủ tự nhận thức, hiểu chính mình
và hoàn cảnh của mình để chủ động tìm kiếm giải pháp phù hợp và thực hiện
nó.
Xét về phương diện khái niệm, nhiều người đồng tình theo hướng nên dùng thuật

ngữ tham vấn để tránh ngộ nhận về việc chỉ nghe rồi khuyên theo khuynh hướng
cả tham vấn viên và thân chủ cùng tìm cách giải quyết vấn đề {12}.
1.2.2.2. Trị liệu tâm lí và tham vấn:

Trị liệu – tiếng Anh là therapy được lấy từ gốc Hy Lạp là therapia có nghĩa là chữa
trị, làm lành. Trị liệu tâm lí là (psychotherapy) có nghĩa là sự xóa bỏ rắc rối, những
bệnh lí mang tính tâm lí. Cho đến nay cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa hai
thuật ngữ này vẫn chưa kết thúc. Hiện có hai nhóm quan điểm khác nhau trong
việc phân biệt tham vấn và trị liệu tâm lí:
- Nhóm quan điểm cho rằng không có sự khác biệt rõ ràng giữa tham vấn và
trị liệu tâm lí. Điển hình như Carl Rogers(1952), C.Btruax và R. Carkhuff
(1967), C.H Patteenson(1974,1986), G.Corey(1991) đều xem tham vấn và trị
liệu tâm lí như nhau bởi theo họ cả hai hoạt động này đều là quá trình tâm lí
nhấn mạnh nhu cầu của đối tượng, cùng sử dụng những kỹ năng giống nhau
như lắng nghe tích cực, thấu hiểu những điều đối tượng nói và thúc đẩy khả
năng tự giúp, tính trách nhiệm của cá nhân.{23}
- Nhóm quan điểm cho rằng có sự khác biệt giữa tham vấn và trị liệu tâm lí.
Điển hình như: F.Robinson(1950), C.Thorne(1950), P.Blos(1946),
L.Tyler(1958). Các tác giả này cho rằng, trị liệu tâm lí chú trọng tới thay đổi
nhân cách còn tham vấn hướng việc giúp đối tượng sử dụng nguồn lực sẵn
có để đối phó với vấn đề trong cuộc sống tốt hơn. Trong tham vấn yếu tố
được xem như trọng tâm là bản thân đối tượng và mối quan hệ đầy tính nhân


văn giữa nhà tham vấn và đối tượng, còn trong trị liệu tâm lí, yếu tố nổi trội
là nhà trị liệu và những kỹ thuật trị liệu cụ thể. Bên cạnh đó địa điểm thực
hiện giữa tham vấn và trị liệu cũng khác nhau, tham vấn thường được diễn ra
trong những cơ sở trường học, cộng đồng nhiều hơn trong khi đó trị liệu tâm
lí thường thấy cả ở các cơ sở y tế mang tính chữa trị.{23}
Từ nghiên cứu tài liệu và thực tiễn, tác giả Bùi Thị Xuân Mai đã đưa ra một sự so

sánh giữa tham vấn và trị liệu tâm lí rất thuyết phục như sau:
- Đối tượng trợ giúp trong tham vấn thường là những người có vấn đề liên
quan đến cuộc sống hàng ngày còn trong trị liệu, đối tượng gồm cả những
người có vấn đề rối nhiễu tâm lí, hành vi ở mức độ tương đối rõ rệt và mang
tính bệnh lí nhiều hơn.
- Công cụ can thiệp của tham vấn chủ yếu là mối quan hệ tương tác nghề
nghiệp với sự tích cực, chủ động của chính đối tượng dưới sự xúc tác gợi mở
của nhà tham vấn, còn công cụ ưu thế của trị liệu là hệ thống các liệu pháp
và các trắc nghiệm tâm lí
- Hình thức tham vấn được sử sụng ở phạm vi rộng hơn bởi các chuyên gia
tâm lí học, các cán bộ xã hội chuyên nghiệp, thậm chí các nhà sư phạm, cán
bộ ngành y, và một số nhà trợ giúp không chuyên trên cơ sở nắm vững các
kỹ năng căn bản, nguyên tắc đạo đức của tham vấn. Trong khi đó trị liệu tâm
lí thường được sử dụng bởi các nhà tâm lí học, các nhà tham vấn chuyên
nghiệp được phép hành nghề.
1.2.2.3. Tham vấn và cố vấn:

Cố vấn, theo từ điển bách khoa Việt Nam đó là nhà chuyên gia được hỏi ý kiến.
Như vậy có nghĩa cố vấn là hoạt động của một bên là người xin ý kiến (lời khuyên)
và một bên là chuyên gia cho ý kiến (lời khuyên).
Theo Hiệp hội các nhà tham vấn Mỹ, cố vấn là một hoạt động tương tác mang tính
tự nguyện giữa một nhà chuyên môn và một cá nhân hay một nhóm, một tổ chức


xã hội mà ở đó nhà chuyên môn giúp các đối tượng xác định vấn đề và giải quyết
vấn đề liên quan tới công việc hay những vấn đề tiềm ẩn {12}.
Như vậy, về thực chất hoạt động cố vấn là quá trình giúp đỡ cá nhân, tổ chức giải
quyết vấn đề. Bên cạnh có những nét chung với tham vấn như: Việc áp dụng hệ
thống lí thuyết (lấy con người làm trung tâm của C.R.Roger, lí thuyết học tập của
B.F.Skinner…), đều là một quá trình đòi hỏi phải qua các bước cơ bản, từ xây

dựng mối quan hệ đến lượng giá hay kết thúc quá trình tương tác … Cố vấn có
những khác biệt so với tham vấn:
- Mối quan hệ trong tham vấn là quan hệ tương tác hai chiều còn trong cố vấn mối
quan hệ tương tác đôi khi mang tính chất 3 bên, bởi vì đối tượng quan tâm chính
của nhà cố vấn và người cần cố vấn nhiều khi là bên thứ ba có thể là cá nhân hay
một tổ chức.
- Nhà cố vấn có thể bằng cách gián tiếp hay trực tiếp đưa ra cho người cần cố vấn
những thông tin, hiểu biết mới, những lời khuyên song không nhất thiết mang tính
trực tiếp mặt đối mặt một cách thường xuyên như trong tham vấn {22}.
1.2.2.4. Tham vấn và công tác xã hội:

Tham vấn và công tác xã hội đều là những nghề nghiệp nhằm trợ giúp con người.
Tham vấn chủ yếu tập trung vào các vấn đề tâm lí của cá nhân, nhóm và gia đình.
Còn phạm vi công tác xã hội thì rộng hơn, sự can thiệp của công tác xã hội không
chỉ nhằm giúp đỡ cá nhân, gia đình mà cả cộng đồng ở nhiều lĩnh vực khác nhau:
Pháp luật, kinh tế, điều kiện sinh sống… Trong công tác xã hội, người ta có thể sử
dụng tham vấn như là một công cụ để tăng cường lòng tự trọng và cải thiện tâm lí
cho trạng thái cá nhân còn trong tham vấn người ta có thể kết nối với các hoạt động
xã hội để tăng cường nguồn lực giúp đỡ thân chủ {34}.


1.3. Lí luận chung về nhu cầu và nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:
1.3.1.Nhu cầu:
1.3.1.1. Khái niệm:

Có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu. Tác giả A.V.Daparogiet cho rằng “Nhu
cầu là sự phản ánh vào óc người sự cần thiết mà người đó cảm thấy đối với một vật
thể nào đó. Nhu cầu kích thích con người hành động, buộc con người phải vươn tới
một đối tượng nhất định. A.N. Leonchiev thì cho rằng, nhu cầu là một trạng thái
của con người, cần một cái gì đó cho cơ thể nói riêng, con người nói chung sống và

hoạt động. Trong từ điển Tâm lí học Giáo sư Vũ Dũng đã định nghĩa, nhu cầu là
“trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết
cho sự tồn tại và phát triển của mình, và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân”
{5}.
PGS.TS Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con
người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển” {35}. Theo tác giả Phạm
Minh Hạc, “Nhu cầu là một thuộc tính của nhân cách, biểu thị mối quan hệ tích
cực của cá nhân với hoàn cảnh, là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần phải được
thỏa mãn trong điều kiện nhất định để có thể tồn tại và phát triển.{11}.
Tóm lại, có nhiều quan điểm khác nhau về nhu cầu nhưng có thể nhận định khái
quát về nhu cầu như sau:
Nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hành động khác nhau của con người, với
tư cách là một hiện tượng tâm lí, nhu cầu chi phối mãnh liệt đến đời sống tâm lí nói
chung, đến hoạt động của con người nói riêng.
Nhu cầu là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Tuỳ theo từng
thời kỳ lịch sử, trình độ nhận thức, môi trường sống, đặc điểm tâm sinh lí, mỗi
người có những nhu cầu khác nhau như người hiện đại có nhu cầu khác với người
nguyên thuỷ, trẻ em có nhu cầu khác với người lớn, nhu cầu ở nam giới khác nữ
giới, nhu cầu của người trí thức khác với nông dân lao động và ở những vùng miền
do điều kiện phát triển khác nhau thì mức độ nhu cầu cũng khác nhau.


×