Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Thực trạng quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh trung học cơ sở ở huyện Long Điền tỉnh Bà Rìa, Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.31 KB, 149 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_____________



ĐẶNG NGỌC THÁI





THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CỦA HIỆU TRƯỞNG
NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN LONG ĐIỀN,
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU.


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05.





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ HẠNH NGA








Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008.
LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với:
- Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học công nghệ - Sau Đại học trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Tâm lý - Giáo dục trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
- Các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và viết luận văn.
- Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tiến só Đỗ Hạnh
Nga, người đã hết sức tận tình, chu đáo trực tiếp hướng dẫn khoa học và
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn:
- Lãnh đạo và chuyên viên phòng GD&ĐT huyện Long Điền.
-Các thầy cô Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường Trung học cơ
sở tại huyện Long Điền.
-Gia đình, bè bạn và các đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi học
tập và hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi kính mong sự chỉ dẫn, góp ý của các
thầy giáo, cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2008



Đặng Ngọc Thái




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ Viết tắt
Cán bộ quản lý CBQL
Cao đẳng sư phạm CĐSP
Công nghệ thông tin CNTT
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa CNH - HĐH
Điểm trung bình ĐTB
Giáo viên GV
Giáo viên chủ nhiệm GVCN
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp HĐGDNGLL
Học sinh HS
Phương pháp dạy học PPDH
Quản lý giáo dục QLGD
Quản lý nhà trường QLNT
Sách giáo khoa SGK
Nghò quyết Trung ương NQTW
Tần số TS
Trung học cơ sở THCS


PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đảng và Nhà nước ta đã xác đònh mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, giàu
mạnh, dân chủ và tiến lên chủ nghóa xã hội. Muốn hoàn thành nhiệm vụ đó, giáo dục phải
đóng vai trò chủ đạo trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao – những con người có

đủ kiến thức, sức khỏe, tay nghề, kỹ năng sống, năng lực tự thích nghi, tự sáng tạo để giải
quyết những vấn đề mà cuộc sống đặt ra.
NQTW 4 khóa VII (tháng 2 năm 1993) đã xác đònh phải “khuyến khích tự học”. NQTW
2 khóa VIII (tháng 7 năm 1996) tiếp tục khẳng đònh: “Từng bước áp dụng các phương pháp
tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự
học…”
Đònh hướng trên đã được thể chế hóa trong Luật Giáo dục 2005, điều 28.2: “ Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm….”
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Đây là hoạt động tất yếu gắn
liền với quá trình học tập, là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Một yếu tố quan
trọng trong dạy học là nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen
tự học, biết vận dụng một cách linh hoạt những điều đã biết vào trong các tình huống mới; biết
tự lực phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong thực tiễn thì sẽ tạo cho họ
lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi con người để họ thích ứng với cuộc sống,
công tác, lao động và học tập.
Từ năm học 2002 – 2003, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã thay đổi đồng bộ giáo dục bậc
trung học cơ sở (THCS) bằng việc thay đổi sách giáo khoa, nội dung chương trình, phương
pháp và phương tiện dạy học, phương thức kiểm tra và đánh giá theo hướng tích cực hóa hoạt
động học tập của học sinh. Nội dung chương trình THCS mới được thiết kế theo hướng giảm
tính lý thuyết kinh viện, tăng tính thực tiễn, thực hành; bảo đảm vừa sức, khả thi; giảm số tiết
học trên lớp, tăng thời gian tự học và hoạt động ngoại khóa.
Nhìn chung, chương trình mới có nhiều tiến bộ so với chương trình cũ trong việc phát
huy khả năng học tập tích cực, chủ động của học sinh (HS). Nhiều HS chăm chỉ, được thầy cô
giáo hướng dẫn đã phát triển tốt năng lực tự học, khả năng tự chiếm lónh kiến thức và vận
dụng kiến thức khá nhuần nhuyễn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều em tuy rất cố gắng nhưng kết
quả học tập lại chưa tương xứng với công sức bỏ ra. Ngoài ra, vẫn còn không ít HS yếu kém cả
về nhận thức, thái độ cũng như phương pháp, kỹ năng học tập. Rõ ràng các em chưa biết cách
tự học.

Đối với giáo viên (GV), chương trình mới mang đến cả thích thú lẫn thách thức. Sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin (CNTT) tăng thêm hiệu quả cho giờ dạy. Tuy nhiên, GV còn gặp
khó khăn trong việc dành thời gian hướng dẫn HS tự học vì lượng kiến thức khá nhiều. Nhiều
GV còn chuyển biến chậm trong việc thay đổi phương pháp giảng dạy phù hợp với yêu cầu
của chương trình cũng như thiếu đầu tư trong việc vận dụng phương pháp và phương tiện mới
nên kết quả dạy và học chưa cao. Do phương pháp giảng dạy của GV có ảnh hưởng lớn đến
phương pháp tự học của HS nên cần thiết phải phân tích được các ảnh hưởng chủ quan và
khách quan về nhận thức, tay nghề của GV nhằm xây dựng các chủ trương, giải pháp thích hợp
cho việc đẩy mạnh phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, tự học
của HS.
Trong công tác quản lý nhà trường, các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng (HT) nhằm
nâng cao năng lực tự học cho HS vẫn còn mang tính tự phát, đối phó và thiếu đồng bộ bởi chưa
xuất phát từ lý luận khoa học phù hợp. Trọng tâm công tác quản lý nhà trường của HT – quản
lý quá trình dạy và học, trong đó có phát triển năng lực tự học của HS – chưa được đầu tư đúng
mức nên chưa đáp ứng tốt yêu cầu và nhiệm vụ giáo dục.
Vì những nguyên nhân trên, người nghiên cứu xin chọn đề tài “Thực trạng về công tác
quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh trung học cơ sở ở
huyện Long Điền, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu.” với mong muốn đánh giá đúng thực trạng quản
lý của HT các trường THCS trên đòa bàn và bước đầu đưa ra một số biện pháp quản lý khả thi
trên cơ sở lý luận khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về học tập của HS, giảng dạy
của GV, quản lý chỉ đạo của cán bộ quản lý (CBQL) ở các trường THCS nhằm góp phần vào
sự phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ mới.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về tự học và thực trạng chất lượng tự học của HS THCS,
người nghiên cứu bước đầu đề xuất một số biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao năng lực
tự học cho HS THCS.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
3.1. Xác đònh cơ sở lý luận của việc xây dựng biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao
năng lực tự học cho học sinh THCS
3.2. Phân tích thực trạng tự học của học sinh THCS và thực trạng công tác quản lý của

HT nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh THCS huyện Long Điền.
3.3. Xây dựng các biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao năng lực tự học cho học
sinh THCS huyện Long Điền.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
Nếu xây dựng được một hệ biện pháp quản lý của HT mang tính khoa học, khả thi nhằm
nâng cao năng lực tự học cho HS thì sẽ tăng hiệu quả việc cải tiến, đổi mới công tác quản lý
trường THCS, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo.
5. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao
năng lực tự học cho học sinh THCS.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Năng lực tự học của học sinh THCS.
6. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU:
6.1. Về nội dung:
Đề tài chỉ giới hạn ở công tác quản lý quá trình dạy - học của HT nhằm nâng cao năng
lực tự học cho HS THCS mà không đi sâu nghiên cứu hệ thống kiến thức, kỹ năng tự học của
HS hay nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học của GV.
Các số liệu về thực trạng tình hình giáo dục huyện Long Điền được tính từ thời điểm
huyện Long Điền được hình thành (từ năm 2003 đến nay).
6.2. Về đòa bàn nghiên cứu:
Đề tài chỉ khảo sát học sinh của 5 trường và cán bộ quản lý, giáo viên của 7/7 trường
THCS thuộc huyện Long Điền, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
7.1. Nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp và hệ thống những vấn đề lý luận có liên quan đến nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài.
7.2. Phương pháp chuyên gia:
Sử dụng phương pháp này trong việc xin ý kiến chuyên gia (CBQL và chuyên viên
Phòng Giáo dục - Đào tạo) về các vấn đề có liên quan đến nội dung đề tài.
7.3. Phương pháp phỏng vấn:
Phương pháp này được sử dụng để phỏng vấn trực tiếp một số CBQL, GV và HS khi tìm

hiểu nhận thức, thái độ, sự quan tâm của họ về những vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
7.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Người nghiên cứu sử dụng phiếu này để tìm hiểu thực trạng:
- Vấn đề về nhận thức, thái độ, mức độ quan tâm, phương pháp và kỹ năng tự học của
HS.
- Vấn đề về thực trạng giảng dạy và đổi mới phương pháp giảng dạy của GV
- Vấn đề về phương pháp quản lý của HT trong việc nâng cao năng lực tự học cho HS.
Số lượng câu hỏi cho từng loại phiếu như sau:
+ Phiếu thăm dò ý kiến HS có 14 câu hỏi, mẫu thăm dò là 506 phiếu
+ Phiếu thăm dò ý kiến GV có 15 câu hỏi, mẫu thăm dò là 312 phiếu.
+ Phiếu thăm dò ý kiến CBQL có 16 câu hỏi, số lượng 16 phiếu.
7.5. Phương pháp quan sát:
Người nghiên cứu sử dụng phương pháp này để tìm hiểu:
- Công tác quản lý của HT trong hoạt động tự học của HS
- Hoạt động giảng dạy, công tác chủ nhiệm và giáo dục ngoài giờ lên lớp của GV
- Hoạt động tự học của HS.
7.6. Phương pháp toán thống kê:
Dùng trong khi xử lý số liệu từ phiếu điều tra.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
8.1. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tự học của HS và công tác quản
lý của HT trong việc nâng cao năng lực tự học cho học sinh THCS tại huyện Long Điền
8.2. Xây dựng hệ thống các biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao năng lực tự học
cho học sinh THCS tại huyện Long Điền. Nếu phù hợp có thể áp dụng cho các trường THCS
nằm trên những đòa bàn tương tự.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho
học sinh THCS.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học
cho học sinh THCS ở huyện Long Điền, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu.

Chương 3: Đề xuất một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực
tự học cho học sinh THCS ở huyện Long Điền, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu.
Cuối luận văn có danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục kèm theo.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA HIỆU TRƯỞNG NHẰM NÂNG CAO
NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THCS.

1.1. Lòch sử vấn đề nghiên cứu các biện pháp quản lý nhằm nâng cao năng lực tự học
1.1.1. Các quan điểm và tư tưởng trong lòch sử giáo dục học
Từ thời cổ đại, các nhà sư phạm như Khổng Tử, Socrates, Aristot...đã từng nói đến tầm
quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực nhận thức của người học:
Khổng Tử (551-479 trước Công Nguyên) đã từng nhấn mạnh: “Đơn cử cho biết một góc,
còn ba góc không chòu tự suy nghó thì dừng lại không dạy nữa” (Cử nhất ngung, tam dó bất
ngung phản tắc, tắc phục dã) hay “Học mà không suy nghó thì dễ mắc sai lầm, suy nghó mà
không học thì mất nhiều thời gian, thậm chí là không đem lại kết quả” (Học nhi bất tư tắc
võng. Tư nhi bất học tắc đãi) [9].
Socrates (469-339 trước Công Nguyên) với phương pháp mang tên mình (còn gọi là
phương pháp đỡ đẻ) luôn đề cao tầm quan trọng của phương pháp đàm thoại để đi đến chân lý
trong học tập. Đây chính là cơ sở của phương pháp dạy học nêu vấn đề hiện nay [35].
Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực của người học, xem người học là chủ thể của quá
trình học tập đã được J. A. Commenxki (1592-1670) – ông tổ của nền giáo dục cận đại, một
Galilê của giáo dục, người đã đưa ra những yêu cầu cải tổ nền giáo dục với những phương
pháp dạy học nhằm hướng cho học sinh tìm tòi, suy nghó để tự nắm bắt bản chất của sự vật
hiện tượng – nhắc đến từ thế kỷ XVII: “Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm,
phán đoán, phát triển nhân cách...hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học
sinh học nhiều hơn” [35].
J.J. Rousseau (1712-1778) đã viết trong tác phẩm Ê-min nổi tiếng của mình: “...khêu gợi

tinh thần yêu chuộng khoa học và cấp cho các em phương pháp học khoa học khi nào tinh thần
yêu chuộng khoa học phát triển hơn nữa. Đó là nguyên tắc căn bản của một nền giáo dục tốt.”
[50, tr. 475].
Rải rác trong nhiều tác phẩm khác nhau, những nhà triết học của phương Tây đã tiếp tục
bàn về tư tưởng tự học, sự phát huy tính tích cực nhận thức của người học trong các tác phẩm
của mình. Những tư tưởng ấy đã góp phần đặt nền móng cho sự phát triển của giáo dục hiện
đại.
1.1.2. Các quan điểm và tư tưởng trong giai đoạn hiện đại
1.1.2.1. Trên thế giới
Thế kỷ XX chứng kiến những bước nhảy vọt lớn lao của toàn nhân loại. Nhằm đào tạo
những con người có đủ kiến thức, năng lực phục vụ cho sự tiến bộ xã hội, các nhà giáo dục đã
đưa ra nhiều quan điểm tiến bộ dựa trên những cơ sở lý thuyết tâm lý, giáo dục khác nhau.
Trên cái nền chung ấy, tư tưởng tự học đã được đi sâu nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Phần lớn
các nghiên cứu đều nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động tự học đối với sự phát triển tư
duy cũng như rèn luyện thói quen học tập và nghiên cứu suốt đời cho người học. Mặt khác, các
nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra được: muốn nâng cao năng lực và hiệu quả tự học, GV phải biết
tổ chức các hoạt động nhận thức cũng như hướng dẫn tự học cho học sinh.
Nhà giáo dục Mỹ J. Dewey (1859-1952) đã khẳng đònh: “Toàn bộ quá trình giáo dục
phải được hiểu là quá trình học suy nghó thông qua giải quyết các vấn đề” để từ đó hình thành
và phát triển trí tuệ. Và từ trí tuệ đi đến năng lực giải quyết vấn đề [35].
Trong tác phẩm “Tự học như thế nào”, nhà bác học, nhà văn hóa Nga N.A. Rubakin
(1862-1946) đã chỉ ra phương pháp tự học để nâng cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn. Rubakin
đặc biệt chú trọng đến việc đến việc đọc sách. Ông khẳng đònh: hãy mạnh dạn tự mình đặt câu
hỏi rồi tự mình tìm lấy câu trả lời – đó chính là phương pháp tự học.
Vào thập niên 30 của thế kỷ XX, nhà giáo dục nổi tiếng Nhật Bản Tsunesaburo
Makiguchi (1871-1944) đã nhấn mạnh: “Giáo viên không bao giờ học thay cho học viên mà
học viên phải tự mình học lấy. Nói khác đi, dù giáo viên có làm gì đi nữa thì mọi tri thức được
truyền thụ vẫn không có giá trò nếu họ không làm cho học sinh tự mình kiểm nghiệm và thực
nghiệm những tri thức đó” [28, tr. 152].
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, các nhà giáo dục Âu Mỹ đã tăng cường

nghiên cứu để tìm ra những phương pháp dạy học phù hợp với những đổi thay lớn lao khi nhân
loại đi vào cuộc cách mạng thông tin và nền kinh tế tri thức.
Năm 1999, tổ chức UNESCO đã từng nhắc nhở các chuyên gia của mình: Đừng biến
người được đào tạo và bồi dưỡng trở thành một thứ gà công nghiệp. Sự “no đầy kiến thức” sẽ
là một tai họa hơn là một vận may. Hãy giúp họ biết tự học nhiều hơn được đi học. Đó là mấu
chốt của thành công.
Peter Vaill, GS đại học Antioch nhấn mạnh: “Mục tiêu quan trọng của giáo dục là giúp
học sinh trở thành chuyên gia thích ứng”. Điều này có nghóa là người học được trang bò tổ hợp
kỹ năng, tri thức, thái độ và giá trò để nhận thức được tầm quan trọng của việc học, có phương
pháp học tập đúng đắn, có thể tự học suốt đời nhằm thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của
xã hội hiện đại.
Nhà giáo dục S. Rassekh đã bàn về sự thay đổi của giáo dục trong thế kỷ XXI: “Quyền
lực của giáo viên không còn dựa trên sự thụ động và dốt nát của học sinh mà dựa trên năng
lực của giáo viên góp phần vào sự phát triển tột đỉnh của các em...Một GV sáng tạo là một GV
biết giúp đỡ HS tiến bộ nhanh chóng trên con đường tự học.” [27].
Trong tác phẩm “Nền giáo dục cho thế kỷ XXI: Những triển vọng của Châu Á – Thái
Bình Dương” (1991), Nhà giáo dục Ấn Độ Raja Roy Singh đã viết: “Học để học nữa, học
thường xuyên và học suốt đời, tất cả gắn liền với nhau. Cơ sở cho quá trình này là học cách
học, tóm lược mục tiêu giáo dục và mục tiêu của việc học và dạy ngay từ những giai đoạn đầu
tiên. Chính trong hoạt động học, trong khi tiếp thu tri thức và vận dụng tri thức mà lòng ham
học được kích thích và cũng chính từ đó, khả năng học độc lập được phát triển.” [39, tr.116].
Năm 1996, hội đồng quốc tế Jacques Delors về giáo dục cho thế kỷ XXI đã gởi
UNESCO bản báo cáo “Học tập – một kho báu tiềm ẩn”. Báo cáo đã phân tích nhiều vấn đề
của giáo dục trong thế kỷ XXI, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người học, cách
học cần phải được dạy cho thế hệ trẻ.
Trong cuốn sách nổi tiếng Cách mạng học tập (1999), Cordon Dryden và Jeannette Vos
đã đề ra công thức MASTER để hướng dẫn người học phát huy năng lực học tập của bản thân
(M = Mind set for successs, A = Acquire knowledge, S = Search out the meaning, T = Trigger
the memory, E = Exhibit knowledge, R = Reflect how to learn). [27, tr. 93].
Hầu hết các nghiên cứu gần đây của các nhà giáo dục đều cho rằng: giáo dục ở thế kỷ

XXI đã có những thay đổi lớn nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo những con người có năng lực
tự quyết đònh. Trong tương lai gần, mỗi người học sẽ phải có đủ các phẩm chất: tự học (self
learning), tự tổ chức (self organizing), tự quyết đònh (self defining) và tự phát triển (self
developing). [4, tr.87]
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Chủ tòch Hồø Chí Minh – tấm gương sáng về tự học – đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta coi
trọng việc tự học. Trong bài “Sửa đổi lối làm việc” (1947), Người viết: “Lấy tự học làm cốt.
Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Sau này nói về công tác huấn luyện và học tập (1950),
Người nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học...Không phải có thầy thì học, thầy
không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập.”. “Muốn có nhiều cán bộ, Đảng phải giúp đỡ
cán bộ tự học tập.”[1].
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng – nhà lãnh đạo vô cùng tâm huyết với sự nghiệp giáo
dục của dân tộc – cũng đã từng nói: “...bí quyết quan trọng nhất là phương pháp học tập...”[35,
tr. 13]

Nguyên Phó Chủ tòch nước Nguyễn Thò Bình đã nêu vấn đề phát huy nội lực để phát
triển đất nước: “Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với quyết tâm tự học – tự đào
tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra nội lực cần thiết cho sự phát triển của một con
người và cho đất nước.”
Đồng chí Vũ Oanh, chủ tòch Hội Khuyến học Việt Nam cũng khẳng đònh: “Cần từ bỏ
lối dạy nhồi một lần cho cả đời, lối truyền thụ áp đặt một chiều, phát huy tư duy sáng tạo và
năng lực tự học, tạo ra năng lực và thói quen học suốt đời của người học...” [35, tr. 17].
Tư tưởng tự học – tự đào tạo cũng đã được Đảng ta xem như một chiến lược để thúc
đẩy giáo dục phát triển. Điều này đã được khẳng đònh một cách nhất quán ở nhiều văn bản
khác nhau:
+ NQTW4 khóa 7 (tháng 1/1993) đã xác đònh phải “khuyến khích tự học”. NQTW2
khóa 8 (tháng 12/1996) lại tiếp tục khẳng đònh phải “đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo
đảm điều kiện và thời gian tự học” [4, tr. 45].

+ Nhằm phát huy nội lực của người học để đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong
giai đoạn CNH - HĐH, Nghò quyết Đại hội IX (2001) lại tiếp tục nhấn mạnh: “Phát huy tinh
thần độc lập suy nghó và sáng tạo để nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay
nghề...tự tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập nghiệp”. [VKĐ, 110]
+ Với mục tiêu tạo sự chuyển biến cơ bản về giáo dục và đào tạo, Nghò quyết Đại hội
X (2006) vạch rõ: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học...phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy
nghó của học sinh, sinh viên.” [53, tr. 207]
+ Chỉ thò 40 Của Ban Bí thư TW Đảng ngày 15/06/2007 đã khẳng đònh: “Phải đổi mới
mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng lý
thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết
vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học...”
Đònh hướng của Đảng đã được thể chế chế hóa ở Luật Giáo dục 2005, điều 28.2:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”
Như vậy, việc phát huy năng lực tự học cho HS đã dựa trên nền tảng quan điểm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực phục vụ cho sự nghiệp
phát triển đất nước trong thời kỳ CNH – HĐH. Năng lực tự học được rèn luyện và dần dần
được nâng cao tạo thành một năng lực cơ bản để người học có thể học suốt đời. Trong xã hội
hiện đại, tự học suốt đời là quyền và nghóa vụ của con người, giúp họ có khả năng thích ứng
cao với mọi tình huống của đời sống, bắt nhòp được sự bùng nổ của thông tin, khoa học và công
nghệ.
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, các nhà giáo dục Việt Nam đã nhìn ra được tầm quan
trọng của việc tự học. Cố giáo sư Tạ Quang Bửu (nguyên bộ trưởng Bộ Đại học và THCN) đã
nhấn mạnh với sinh viên ĐHBK Hà Nội nhân buổi nói chuyện tại trường vào năm 1970: “Tự
học là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo, đồng thời là cái nôi nuôi dưỡng trí sáng tạo. Ai
giỏi tự học khi đang ở trường, người đó sẽ tiến xa.”
Các nhà sư phạm hàng đầu của Việt Nam như Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Đặng

Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Thái Duy Tiên...đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động tự học
của người học. Hầu hết các tác giả đều cho rằng năng lực tự học không chỉ cần thiết cho HS
khi ngồi trên ghế nhà trường mà còn trong cả cuộc đời. Hình thành năng lực tự học cho học
sinh trở thành một mục tiêu cơ bản của giáo dục nhà trường.
Trong tác phẩm “Dạy cách học”(2003), tác giả Vũ Văn Tảo đã điểm qua xu thế phát
triển giáo dục trên thế giới hiện nay. Tác giả đã làm rõ quan hệ mới giữa dạy và học. Theo đó,
việc học và người học được xem là lý do của việc dạy và người dạy. Cốt lõi của việc học là tự
học. Do đó, khâu quan trọng nhất trong việc dạy là dạy cách tự học, cách rèn luyện tư duy
phân tích, tổng hợp, tư duy phê phán, sáng tạo.
Tác phẩm “Quá trình dạy – tự học” (2001) do Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên là tác phẩm
có kế thừa và bổ sung những tác phẩm tâm huyết trước đó của ông và những cọâng sự như
“Luận bàn và kinh nghiệm về tự học” của Nguyễn Cảnh Toàn (1995), “Dạy học giải quyết
vấn đề” của Vũ Văn Tảo và Trần Văn Hà (1996), “Phương pháp giáo dục tích cực, lấy người
học làm trung tâm” của Nguyễn Kỳ (1995)...Tác phẩm đã đưa ra quan điểm: thực chất của dạy
– học lấy người học làm trung tâm là dạy – tự học. Tác động từ thầy là ngoại lực, năng lực và
phương pháp tự học của trò là nội lực. Vì vậy người thầy phải hướng đến mục đích dạy học
cộng hưởng với tự học để kết hợp cả ngoại lực và nội lực nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học.
Trên các tạp chí nghiên cứu về giáo dục và tâm lý, đặc san Dạy – Tự học của Hội
khuyến học Việt Nam, các nhà nghiên cứu trong nước đã có nhiều bài báo về tư tưởng đổi mới
cách dạy và cách học, tầm quan trọng của việc tự học, những nhân tố ảnh hưởng đến việc tự
học cũng như phương pháp hướng dẫn tự học hiệu quả.
Điểm qua một số công trình tiêu biểu như trên, có thể thấy rằng vấn đề tự học và nâng
cao năng lực tự học có cơ sở lý luận vững chắc. Các nhà nghiên cứu giáo dục ở nước ta cũng
như trên thế giới đã khẳng đònh tính khoa học của vấn đề cũng như ích lợi của nó trong thực
tiễn. Mặc dù vậy, những công trình nghiên cứu chuyên sâu về các biện pháp quản lý của hiệu
trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho người học thì còn ít được bàn đến. Do số lượng còn
ít - chỉ một số công trình như: “Các biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao năng lực tự học
cho HS THCS” của tác giả Lê Văn Chiến, ĐHSP Huế; “Các biện pháp quản lý của HT nhằm
nâng cao năng lực tự học cho HS THPT” của tác giả Lê Khắc Mỹ Phượng trường CBQL GD-

ĐT; “Một số biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao năng lực tự học cho sinh viên trường
CĐSPMG TW3” của tác giả Phạm Thò Thu Thủy – nên việc xây dựng một hệ biện pháp quản
lý phù hợp nhằm phát huy năng lực tự học cho người học vẫn chưa được bàn thấu đáo.
1.2. Cơ sở lý luận về tự học và năng lực tự học
1.2.1. Khái niệm về tự học và năng lực tự học
1.2.1.1. Tự học
Các nhà giáo dục Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về tự học và đưa ra nhiều khái niệm
khác nhau về tự học.
Tác giả Thái Duy Tuyên cho rằng: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lónh kiến thức, kó
năng, kó xảo,...và kinh nghiệm lòch sử – xã hội loài người nói chung của bản thân người học”.
Tác giả cũng đưa ra nhiều kiểu tự học khác nhau:
+ Tự học có sự hướng dẫn của giáo viên như tự học của HS, SV, nghiên cứu sinh...
+ Tự học không có sự hướng dẫn của GV như trường hợp của nhhững người trưởng
thành, những nhà khoa học.
+ Tự học trong cuộc sống: thường gặp ở các nhà văn, các nhà văn hóa, các nhà kinh tế,
các nhà chính trò – xã hội...
Tác giả cũng nêu ra các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học như: động cơ, tố chất,
năng lực, ý chí...của người học; GV, cha mẹ, bạn bè và xã hội; các điều kiện vật chất và tinh
thần xung quanh người học nhằm giúp người học tìm ra chỗ yếu để bổ sung nhằm tự học có
hiệu quả [48].
Vũ Văn Tảo đònh nghóa: “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó
chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trò con người mình bằng cách thu
nhận, xử lý thông tin lấy từ môi trường sống xung quanh mình.” [40, tr.6].
Tác giả Võ Quang Phúc cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học...Tự học phản ánh
rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người
học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả nhất đònh
trong hoàn cảnh nhất đònh với nội dung học tập nhất đònh.”
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn – tấm gương sáng về tự học - lại quan niệm: “Tự học là tự
mình động não, suy nghó, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...)
và có khi cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,

thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì,
nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi..) để chiếm
lónh một lónh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lónh vực đó thành sở hữu của mình” [44,
tr. 60].
Tác giả cũng chia tự học làm ba kiểu: tự học ở mức cao, tự học có hướng dẫn và tự học
giáp mặt. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh dạng tự học có hướng dẫn như là một giải pháp quan
trọng để giải quyết một số khó khăn mà ngành giáo dục đang gặp phải.
Nhìn chung, các đònh nghóa tuy có khác nhau về câu chữ nhưng nội hàm của các khái
niệm đều nhấn mạnh đến tính tự chủ, tính độc lập và tích cực của người học trong quá trình
nhận thức và chiếm lónh tri thức khoa học. Người thầy (hay tài liệu, SGK...) chỉ đóng vai trò là
ngoại lực tác động, hướng dẫn. Muốn thành công, người học phải phát huy nội lực, ý chí, sự
hiểu biết, sự say mê học tập...để tự suy nghó và xử lý thông tin. Hoạt động tự học có thể diễn
ra ở bất cứ ở đâu, lúc nào khi người học có nhu cầu hiểu biết trước các tình huống đặt ra trong
cuộc sống.
Do mục tiêu nghiên cứu của đề tài, người nghiên cứu đồng ý với các khái niệm đã
được trình bày về tự học – tự đào tạo. Luận văn tiếp tục kế thừa các thành tựu trong nghiên
cứu khoa học của người đi trước.
Kiểu tự học được xét đến trong luận văn này là kiểu tự học có sự hướng dẫn trực tiếp
hoặc gián tiếp của giáo viên để phù hợp với đối tượng khảo sát là CBQL, GV và HS THCS.
1.2.1.2. Năng lực tự học
Năng lực:
Theo giáo sư Mai Hữu khuê: “Năng lực là những phẩm chất tâm lý mà nhờ đó con
người tiếp thu tương đối dễ dàng những kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo và tiến hành một hoạt động
nào đó có kết quả”û[21, tr. 97].
Phạm Minh Hạc đònh nghóa: “Năng lực là tổ hợp phức tạp những thuộc tính tâm lý của
mỗi người, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất đònh nhằm đảm bảo cho hoạt
động đó diễn ra có kết quả.” [12, tr. 280].
Như vậy, năng lực không phải có sẵn mà năng lực vừa là tiền đề vừa là kết quả của
hoạt động tương ứng; là kết quả của sự phát triển nhân cách, hoàn toàn phụ thuộc vào quá
trình phát triển nhân cách trong hoạt động.

Xét về cấu trúc, nhân cách con người bao gồm hai thành tố cơ bản: Năng lực (tài) và
phẩm chất (đức). Người ta phân biệt năng lực chung và năng lực chuyên môn. Năng lực chung
giúp con người thực hiện có kết quả những hoạt động khác nhau như năng lực lao động, năng
lực học tập...Còn năng lực chuyên môn cho phép người ta làm tốt một loại công việc nào đó
như năng lực về Toán, về Âm nhạc...
Như vậy, năng lực là khả năng hoàn thành có kết quả một công việc nào đó. Về thực
chất đó là sự phù hợp một bên là yêu cầu công việc và bên khác là những phẩm chất tâm lý cá
nhân. Năng lực con người gắn liền với sở thích của người ấy. Vì vậy, hứng thú đối với một loại
công việc nào đấy, say mê một hoạt động nào đấy thường nói lên người ấy có năng lực về
hoạt động đó.
Thành phần của năng lực gồm: kỹ năng, kỹ xảo, tri thức và thái độ.
Năng lực tự học:
Từ khái niệm về tự học và năng lực nêu trên, ta có thể khái quát về năng lực tự học:
Năng lực tự học là những thuộc tính tâm lý hoặc kỹ năng mà nhờ chúng người học tự
mình xử lý các thông tin, các vấn đề được đặt ra trong học tập cũng như trong cuộc sống nhằm
biến kiến thức của nhân loại thành sở hữu của riêng mình một cách hiệu quả nhất [32].


Năng lực tự học được hình thành và phát triển do nhận thức, thái độ và phương pháp tự
học tốt của bản thân người học, đồng thời phải được tác động của phương pháp dạy học
(PPDH), phương tiện học tập và các điều kiện giáo dục trong và ngoài nhà trường.
Năng lực tự học tốt sẽ giúp người học có điều kiện tự nghiền ngẫm vấn đề học tập theo
một yêu cầu và phương pháp riêng để nắm nội dung vấn đề một cách chắc chắn và bền vững,
bồi dưỡng phương pháp học tập và kỹ năng vận dụng tri thức, rèn luyện ý chí và năng lực hoạt
động sáng tạo. Năng lực tự học của mỗi người là do bản thân người ấy tự xây dựng và phát
triển thông qua quá trình hoạt động bản thân và là phẩm chất cần thiết cho sự phát triển và
thành đạt lâu dài cho mỗi con người.
Nâng cao năng lực tự học cho HS có nghóa là nâng cao những phẩm chất, kỹ năng, kỹ
xảo...cần thiết để HS tiến hành tự học một cách hiệu quả. Từ đó, say mê và tự giác học tập để
chiếm lónh tri thức. Năng lực tự học được nâng cao sẽ thúc đẩy, kích thích hoạt động tự học

trong quá trình học tập, từ đó tăng hiệu quả chất lượng học. Như vậy, chất lượng học tập của
HS là thước đo hiệu quả tự học và hiệu quả tự học xác đònh mức độ giá trò của năng lực tự học.
1.2.2. Vai trò của tự học và năng lực tự học
Trong nền kinh tế tri thức và sự bùng nổ thông tin như hiện nay, tự học là chiếc chìa
khóa thần kỳ giúp con người học tập hiệu quả. Kiến thức của nhân loại tăng lên nhanh chóng,
nhu cầu luân chuyển tri thức ngày càng cao nên con người muốn thích ứng, hòa nhập, tự khẳng
đònh cá nhân mình thì phải không ngừng bổ túc tri thức bằng con đường tự học.
Tự học là cơ sở cho việc hình thành năng lực tự học để người học có thể học tập suốt đời
đồng thời rèn luyện tác phong nghiên cứu khoa học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học
tập và nghiên cứu khoa học. Một yếu tố quan trọng đảm bảo thành công trong học tập và
nghiên cứu là khả năng phát hiện kòp thời và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn. Nếu rèn luyện cho người học có kỹ năng, phương pháp, thói quen tự học, biết linh
hoạt ứng dụng những điều đã học vào những tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải
quyết những vấn đề đặt ra thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, tiềm năng vốn có trong mỗi con
người. Làm được như vậy thì kết quả học tập sẽ nhân lên gấp bội mà người học còn được
chuẩn bò để tự học khi học lên cao hơn cũng như khi vào đời, dễ dàng thích ứng với cuộc sống.
Tự học giúp con người rèn luyện được những phẩm chất cao quý như : kiên trì, sáng tạo,
nỗ lực vươn lên, hình thành tác phong khoa học, hoàn thiện nhân cách. Sự thành đạt của những
tấm gương sáng về tự học ở trong nước như Hồ Chí Minh, Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Trí Viễn;
trên thế giới như Bill Gates, T. Edison là minh chứng hùng hồn nhất cho luận điểm này.
Tự học là xu thế học tập hiện đại phù hợp với xu thế đổi mới giáo dục hiện nay trên thế
giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Disterwerg đã viết: “Người thầy giáo tồi truyền đạt chân
lý; người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lý.” [3, tr. 68]. Triết lý giáo dục thế kỷ XXI do
UNESCO đưa ra với 4 trụ cột muốn nhắc nhở nhân loại rằng con người muốn tồn tại trong nền
kinh tế tri thức thì phải học; học suốt đời, học theo hướng của 4 trụ cột và phải hình thành, phát
triển xã hội học tập. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 của nước ta là phải thực hiện
“mọi người đi học, học thường xuyên suốt đời; cả nước thành một xã hội học tập”. Trong điều
kiện của nước ta hiện nay, muốn thực hiện tốt điều ấy, người học cần phải biết tự học và hình
thành năng lực tự học.
Người học là đối tượng của hoạt động dạy nhưng cũng đồng thời còn là chủ thể của

hoạt động học. Nếu người học không chủ động học, không phát huy nội lực, không có cách tự
học tốt thì việc dạy học khó lòng đạt kết quả cao. Vì vậy, muốn dạy tốt – học tốt thì chủ thể
của hoạt động dạy (GV) phải tổ chức quá trình dạy học thành một quá trình hợp tác với chủ
thể của hoạt động học (HS) để cùng thực hiện mục tiêu dạy học. Trong quan hệ hợp tác ấy,
GV giữ vai trò chủ động chỉ đạo, dẫn dắt, gợi mở, đánh giá...theo hướng đích đã đặt ra. HS giữ
vai trò chủ động phát huy nội lực của mình để cải biến chính mình, hoàn thiện nhân cách.
Như vậy, quá trình dạy trở thành quá trình dạy – tự học. Thầy dạy để trò biết tự học,
hình thành năng lực tự học sáng tạo để học tập suốt đời. GV phải căn cứ vào nội dung dạy học
và trình độ phát triển tư duy của HS mà hướng dẫn cho HS phương pháp tự học, để ngoại lực
của thầy kết hợp với nội lực của trò nhằm hoàn thành mục tiêu dạy học. Dạy để trò biết tự học
và hình thành năng lực tự học tốt trở thành mục tiêu giáo dục.
Tóm lại, tự học là hoạt động tất yếu, là bộ phận không thể thiếu của hoạt động học.
Quản lý hoạt động dạy và học trong nhà trường phải quản lý hoạt động tự học.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và nâng cao năng lực tự học cho học
sinh THCS
1.2.3.1 Ảnh hưởng của động cơ học tập
Khi HS ý thức được nhiệm vụ học tập như một mục đích tự giác của bản thân thì lúc đó ở
học sinh xuất hiện động cơ học tập. Động cơ học tập là sự giác ngộ nhiệm vụ học tập, là động
lực của quá trình dạy học. Nói khác đi, động lực của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa trình
độ hiểu biết phải đạt tới theo yêu cầu của chương trình với trình độ hiểu biết hiện có của học
sinh trước khi nghiên cứu vấn đề đó.
Nhiệm vụ của GV ở khâu khởi động quá trình dạy học là phải biến mâu thuẫn khách
quan này thành mâu thuẫn chủ quan của HS để học sinh có nhu cầu hiểu biết và hình thành
động cơ học tập. Trên cơ sở đó, GV tổ chức một cách khéo léo những công tác tự lực cho HS
để rèn luyện cho họ phương pháp học tập hợp lý và cả những phương pháp tìm tòi sáng tạo,
nhờ đó rèn luyện tư duy sáng tạo cho HS. Học tập như vậy sẽ hào hứng vì HS cảm thấy niềm
vui của nhận thức và của lao động sáng tạo [6,tr. 27-28].
Động cơ học tập có thể chia thành hai nhóm lớn:
+ Các động cơ hứng thú nhận thức: thường đến khi bài học có nội dung mới, đột ngột,
bất ngờ và chứa đựng những yếu tố nghòch lý, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của các em.

+ Các động cơ nghóa vụ và trách nhiệm: thể hiện ở nghóa vụ với Tổ quốc, với quê hương;
trách nhiệm với gia đình, thầy cô, bản thân, bạn bè...
độ tuổi THCS, động cơ học tập của các em HS đa dạng nhưng chưa bền vữõng. Biểu
hiện cụ thể của điều này là thái độ nhiều khi mâu thuẫn, từ rất tích cực đến thờ ơ, lười biếng;
từ nỗ lực học tập đến thụ động học thuộc lòng từng chữ; hứng thú rõ rệt với môn học này
nhưng lại không hào hứng với môn học khác.
Vì vậy, việc giáo dục động cơ học tập, kích thích hứng thú học tập cho HS THCS là việc
rất quan trọng, đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của GV. Bởi động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú
là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản
sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghó độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách
học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập.
1.2.3.2 Ảnh hưởng của nội dung dạy học
Nội dung dạy học là một bộ phận được chọn lọc trong nền văn hóa của dân tộc và nhân
loại – đó là hệ thống những tri thức, những cách thức hoạt động, những kinh nghiệm hoạt động
sáng tạo và những tiêu chuẩn về thái độ đối với thế giới, con người phù hợp về mặt sư phạm
nhằm hình thành và phát triển nhân cách người học[15, tr. 45].
Các thành phần của nội dung dạy học có mối liên hệ mật thiết lẫn nhau và quy đònh lẫn
nhau. Nội dung dạy học ở trường phổ thông được chứa đựng trong sách giáo khoa, tài liệu tham
khảo và trong các nguồn thông tin khác. Trong giảng dạy, GV phải tính đến tác động của
những kênh thông tin này để phối hợp nhằm phát huy thế mạnh của quá trình đào tạo trong
nhà trường là tính hệ thống, có kế hoạch chặt chẽ và vừa sức, sát đối tượng của các thông tin
đưa vào dạy học.
Nội dung dạy học hiện nay phải đảm bảo cung cấp cả kiến thức lẫn kỹ năng, kỹ xảo
cùng với các phương pháp nhận thức khoa học, phương pháp hoạt động. Mục đích của việc này
là nhằm trang bò cho HS một hành trang để có thể vừa tham gia ngay vào cuộc sống hiện tại
khi hết cấp học, phục vụ cho yêu cầu trước mắt vừa phải chú trọng đến việc tạo ra tiềm lực
cho sự phát triển lâu dài.
Trong quá trình học tập, HS phải tự mình chiếm lónh tri thức để hoàn thiện nhân cách.
Nội dung dạy học phù hợp với điều kiện trường lớp, trang thiết bò, thời gian vật chất dành cho
việc học và phù hợp với tâm sinh lý, khả năng, sự chấp nhận của người học sẽ tác động lớn

đến hứng thú học tập, lòng say mê, tính tự lực và sáng tạo của HS. Bên cạnh đó, phương pháp
dạy học và kiểm tra đánh giá của GV cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao năng lực tự
học cho HS.
1.2.3.3 Ảnh hưởng của phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
Phương pháp dạy học (PPDH) là cách thức hoạt động của GV trong việc chỉ đạo, tổ chức
các hoạt động học tập nhằm giúp HS chủ động đạt các mục tiêu dạy học [6, tr. 41].
Như vậy, người học là đối tượng của hoạt động dạy và là chủ thể của hoạt động học.
Phương pháp dạy học bao gồm cả cách dạy của GV và cách học của HS. Thông qua hoạt động
học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến
thức, kó năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu
người học không tự giác chủ động, không chòu học, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả
của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Muốn đổi mới cách học, phát huy năng lực tự học của học sinh thì phải đổi mới cách
dạy. Trong giảng dạy, HS sẽ được GV

cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ
chức và chỉ đạo. Thông qua đó, HS tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải
thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của
đời sống thực tế (nhất là được sự hỗ trợ đắc lực của CNTT như hiện nay), HS trực tiếp quan
sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghó của mình, từ đó
nắm được kiến thức kó năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kó năng đó,
không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. HS
không chỉ được truyền thụ kiến thức mà còn được giáo dục thái độ và phương pháp hoạt động.
Từ đó năng lực tự học và tự học suốt đời của HS mới phát triển.
Trong học tập, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận đònh thực trạng và
điều chỉnh hoạt động học của HS mà tạo điều kiện để bản thân GV và các cấp quản lý nhận
đònh và đánh giá đúng về thực trạng dạy và học tại cơ sở giáo dục. Trên cơ sở đó mà đề ra
những chủ trương, biện pháp chỉ đạo, uốn nắn kòp thời và sâu sát nhằm nâng hiệu quả đào tạo.
Kiểm tra đánh giá trong dạy học có 3 chức năng cơ bản: chức năng phát hiện, điều
chỉnh; chức năng củng cố, phát triển trí tuệ của học sinh; chức năng giáo dục. Mỗi chức năng

đều góp phần quan trọng vào việc hình thành phương pháp học tập tích cực cũng như hoàn
thiện nhân cách cho HS. Trong giáo dục hiện đại, khi việc rèn luyện và nâng cao năng lực tự
học cho học sinh trở thành một mục tiêu giáo dục thì bên cạnh việc đánh giá, GV phải hướng
dẫn học sinh phát triển kó năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này,
giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh
giá đúng và điều chỉnh hoạt động kòp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống
mà nhà trường phải trang bò cho học sinh.
Muốn đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc
kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kó năng đã
học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống
thực tế. Việc thay đổi khâu đánh giá sẽ có tác dụng kích thích người được giáo dục trở thành
người tự giáo dục.
Với sự trợ giúp của các thiết bò kó thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công
việc nặng nhọc đối với GV, mà lại cho nhiều thông tin kòp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh
hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Đồng thời, HS cũng có thể thường xuyên tự kiểm tra để
tìm ra phương pháp tự học tốt hơn.
1.2.3.4 Ảnh hưởng của điều kiện và môi trường học tập
Con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Tính cách HS được hình thành từ sự giáo dục
và tự giáo dục ở nhà trường phổ thông và còn chòu ảnh hưởng của môi trường xã hội. Giáo dục
gia đình là hạt nhân cơ bản hình thành tính cách người học từ thưở ấu thơ. Do đó, chính sự tác
động mạnh mẽ của xã hội, nhất là gia đình đã hình thành ở trẻ động cơ, thái độ học tập, đến
chất lượng học tập và sự phát triển năng lực tự học của các em.
Môi trường và điều kiện học tập của xã hội và gia đình dành cho trẻ có ảnh hưởng rất
lớn đến quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học. Môi trường xã hội lành mạnh, những
điều kiện chăm sóc thiết yếu từ gia đình như tài liệu học tập, góc học tập, sự quan tâm và tạo
điều kiện của cha mẹ...là những điều kiện cần thiết để trẻ ham học và có khả năng học tập tốt.
Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bò và phương tiện phục vụ học tập của nhà trường
có vai trò quan trọng trong việc hình thành và nâng cao năng lực tự học cho học sinh. Nhất là
với mục tiêu của chương trình THCS hiện nay, khi phương tiện không chỉ dừng lại ở mức độ
minh họa mà đã trở thành công cụ nhận thức quan trọng cho học sinh. Thư viện, phòng thí

nghiệm, sách báo, tài liệu tham khảo, mạng internet...mang đến những kiến thức phong phú,
đa dạng giúp các em có thêm vốn tri thức quý báu cũng như những kỹ năng khai thác thông tin
cần thiết để có thể tự học suốt đời.
1.2.3.5 Ảnh hưởng của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Đưa chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) vào kế hoạch giáo
dục phổ thông chính khóa là một trong những biểu hiện rõ nhất của việc đổi mới sự nghiệp
giáo dục theo nghò quyết 40 của Quốc hội. Họat động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt
động được tổ chức ngoài giờ học các môn trên lớp, là sự tiếp nối các hoạt động dạy – học trên
lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành
động của học sinh.
HĐGDNGLL nhằm củng cố và khắc sâu những kiến thức của các môn học, mở rộng và
nâng cao hiểu biết của học sinh về các lónh vực đời sống xã hội; rèn luyện và phát triển ở HS
các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi HS THCS; bồi dưỡng thái độ tự giác tích cực tham gia
các hoạt động tập thể và hoạt động xã hội [4].
Quan hệ giao tiếp có ý nghóa nhất trong lứa tuổi THCS – thiếu niên và tiền thanh niên -
là quan hệ với bạn cùng tuổi. Chính vì vậây, nó mang ý nghóa giáo dục lớn nhất trong lứa tuổi
này. Một khi quan hệ bạn bè trở nên có ý nghóa hơn thì các HĐGDNGLL (mà quan hệ bạn bè
nổi lên ở vò trí chủ yếu) sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhân cách của các em.
Chính vì vậy, các nhà quản lý ở trường THCS phải biết tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên
lớp phù hợp với nhu cầu và khả năng HS đồng thời kích thích được hứng thú, tính sáng tạo
trong hoạt động của HS nhằm giúp các em có động cơ học tập đúng đắn cũng như các thao tác
tư duy, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong quá trình học tập. Môi trường tập thể với những bạn bè
cùng tuổi giúp cho HS hình thành động cơ, thái độ học tập đúng đắn cũng như các thao tác tư
duy cần thiết trong quá trình học tập và tự học. HĐNGLL ở trường THCS còn giúp HS thi đua
học tập, rèn luyện đạo đức; khơi dậy tinh thần đồng đội, giúp nhau tự học, nâng cao năng lực
tự học cho các em.
1.3 Cơ sở lý luận về quản lý
1.3.1 Khái niệm về quản lý và các chức năng quản lý
1.3.1.1. Khái niệm quản lý
Từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng được hình thành. Cùng với

sự phát triển của xã hội loài người, trình độ tổ chức, điều hành cũng được nâng lên và phát
triển theo. Mác viết : "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người
độc tấu vó cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng"
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động của xã hội loài người nhằm đạt
mục đích, hiệu quả cao hơn, năng suất cao hơn; đó chính là hoạt động giúp cho người đứng đầu

×