ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỖ THỊ HƯƠNG LIÊN
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 2012
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỖ THỊ HƯƠNG LIÊN
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 2012
Ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 9229013
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ
2. PGS.TS Hà Thị Thu Thủy
THÁI NGUYÊN 2018
5
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác.
Tác giả
Đỗ Thị Hương Liên
6
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tác giả luận án xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tập thể các
thầy cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm
Đại học Thái Nguyên. Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy giáo
hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ, PGS.TS Hà Thị Thu Thủy đã chỉ
bảo tận tình, ân cần, động viên khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu để hoàn thành chương trình đào tạo tiến sĩ.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, III, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lạng
Sơn, cùng các đơn vị trực thuộc quản lí và toàn thể các ban ngành, đoàn thể địa
phương đã cung cấp các tư liệu để tác giả hoàn thành luận án. Tác giả xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành
luận án.
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 10 năm 2018
Tác giả
Đỗ Thị Hương Liên
7
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
i
Lời cảm ơn
ii
Mục lục
iii
Danh mục các chữ viết tắt
iv
Danh mục các bảng
v
8
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN
: Công nghiệp
CNHHĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DV
: Dịch vụ
GD
: Giáo dục
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
LN
: Lâm nghiệp
NN
: Nông nghiệp
TCN
: Thủ công nghiệp
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
UBHC
: Ủy ban hành chính
CHND : Cộng hòa Nhân dân
UBND : Ủy ban nhân dân
9
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Lạng Sơn là một tỉnh nằm ở khu vực phía Bắc có đường biên giới tiếp giáp
với Trung Quốc, từ lâu đã được coi như cửa ngõ giao thương giữa nước ta với
Trung Quốc. Thành phố Lạng Sơn là đô thị tỉnh lỵ của tỉnh Lạng Sơn, tỉnh miền núi
Đông Bắc của tổ quốc, là một đô thị cửa khẩu có chức năng quan trọng trong kinh
tế đối ngoại.
Thành phố Lạng Sơn vùng đất đã trải qua thời kỳ Châu lỵ, Trấn lỵ và
đến năm 1925 được thành lập, trở thành thị xã tỉnh lỵ, là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội của tỉnh. Đây là nơi có nhiều di tích lịch sử như thành nhà
Mạc, Đoàn thành, Ải Chi Lăng... cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc
dân tộc đã từng hấp dẫn khách thập phương từ ngàn xưa. Sự hội tụ của các điều
kiện tự nhiên và xã hội đã tạo cho thành phố Lạng Sơn thế mạnh phát triển đô
thị, trở thành trung tâm chính trị kinh tế văn hoá xã hội của tỉnh Lạng Sơn và
vùng Đông Bắc Việt Nam. Thành phố Lạng Sơn là loại hình đô thị thương mại ra
đời từ khá sớm, được hình thành theo phương thức "thị" có trước " đô " có sau.
Ngày nay thành phố Lạng Sơn là thành phố thương mại cửa khẩu đang trên đà
phát triển, là cửa ngõ giao lưu kinh tế văn hoá của cả nước với Trung Quốc, là
địa bàn có mối quan hệ với vùng tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội Hải Phòng
Quảng Ninh.
Với quá trình đổi mới diễn ra một cách toàn diện và sâu sắc từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của
thành phố Lạng Sơn, làm nảy sinh những vấn đề về quy hoạch phát triển đô thị,
về tổ chức đời sống kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng [66, 197], đồng thời
những thay đổi về cơ sở hạ tầng đô thị đã góp phần tích cực vào quá trình phát
triển kinh tế xã hội của thành phố.
Trong giai đoạn 2000 – 2002, thực hiện đề án thành lập thành phố, thị xã
được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kiến thiết đô thị, diện mạo thay đổi. Năm
2000, thành phố Lạng Sơn được công nhận là đô thị loại III, đến tháng 10/2002,
Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập thành phố Lạng Sơn. Quá trình đô thị
hóa cùng với sự chuyển mình ngày càng mạnh mẽ của thành phố Lạng Sơn trong
những năm qua đã khẳng định sự đúng đắn trong việc thực hiện chủ trương,
đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước để thành phố Lạng Sơn trở thành
thành phố cửa khẩu quan trọng vùng biên giới Đông Bắc, với chức năng chủ yếu
là kinh tế thương mại, chính trị, an ninh quốc phòng của một tỉnh biên giới.
Thông qua nghiên cứu thực tế thực hiện đường lối đổi mới ở một địa phương
miền núi biên giới như Lạng Sơn để thấy được sự lãnh đạo và đường lối đúng
đắn của Đảng và nhà nước ta, đồng thời với việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp
phần cung cấp thêm tư liệu khoa học cho việc nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy
lịch sử địa phương cũng như góp phần giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa tốt
đẹp của nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn.
Đến nay, cũng đã có khá nhiều nghiên cứu về quá trình đô thị hóa nói
chung của các tác giả ở trong và ngoài nước, với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Tuy nhiên, lại chưa có nghiên cứu nào về quá trình hình thành, phát triển của
thành phố và quá trình đô thị hóa dưới góc độ lịch sử diễn ra tại một thành phố
của một tỉnh miền núi, nhất là lại diễn ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc như
tỉnh Lạng Sơn. Chính vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề: “Quá trình hình thành và
phát triển thành phố Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012” làm đề tài luận án
tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Luận án sẽ tập trung vào các vấn đề
Khái quát quá trình hình thành của đô thị Lạng Sơn từ khởi thủy đến năm
1925 (năm thành lập thị xã Lạng Sơn) và quá trình phát triển của Lạng Sơn từ thị
xã lên thành phố (năm 2002), cùng chặng đường 10 năm xây dựng và phát triển
thành phố Lạng Sơn (20022012).
Phân tích những điều kiện lịch sử tác động đến sự phát triển của thị xã
Lạng Sơn và thành phố Lạng Sơn qua các giai đoạn lịch sử.
Phân tích sự thay đổi về diên cách (quy mô) thành phố Lạng Sơn qua các
thời kì, trong đó tập trung vào quy hoạch kiến trúc và cảnh quan môi trường;
đồng thời tập trung làm rõ các cơ chế, chính sách của bộ máy chính quyền đương
thời trong công tác quản lí đô thị.
Phác họa bức tranh về sinh hoạt đô thị được thể hiện qua các mặt như
dân cư đô thị, kinh tế đô thị, chính trị, văn hóa, xã hội của đô thị Lạng Sơn qua
gần một thế kỉ.
Trên cơ sở đó làm rõ những thế mạnh thúc đẩy sự phát triển của Lạng
Sơn, luận án cũng đóng góp một số ý kiến nhằm kế thừa và phát huy mặt tích
cực của đô thị hóa góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lí và quy hoạch
thành phố trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở mục tiêu đã đề ra như ở trên, đề tài hướng tới giải quyết các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Trình bày một cách có hệ thống về quá trình hình thành và phát
triển của thành phố Lạng Sơn, quá trình đô thị hóa ở thành phố Lạng Sơn tỉnh
Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012.
Thứ hai: Rút ra được những đặc điểm của quá trình đô thị hóa nói chung
và thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Thứ ba: Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình đô thị
hóa đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm
2012.
Thứ tư: Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả chỉ ra đặc trưng của đô thị Lạng
Sơn.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượ ng nghiên cứu của đề tài là thành phố
Lạng Sơn. Trong đó chúng tôi tập trung nghiên cứu về sự ra đời, quá trình phát
triển của đô thị ở thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng s ơn t ừ ch ức năng một “trấn
thành” đến một trung tâm đô thị và những đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã
hội ở thành phố Lạng Sơn.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Không gian nghiên cứu cuả đề tài là không gian lịch sử
kinh tế văn hóa xã hội Lạng Sơn với trung tâm là thành phố Lạng Sơn. Trong
quá trình trình bày luận án thuật ngữ “thị xã Lạng Sơn nay là thành Phố Lạng
Sơn” sẽ có những cách gọi khác tương ứng được sử dụng trong các văn bản hành
chính cả chính quyền đương thời để phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Trong
một số nội dung phạm vi nghiên cứu có thể mở rộng ra địa bàn tỉnh để thấy
được sự liên quan mật thiết giữa thành phố Lạng Sơn với toàn tỉnh.
Về thời gian: Đề tài giới hạn chủ yếu trong thời gian từ năm 1925 đến
năm 2012. Trong đó, năm 1925 là năm chính quyền thực dân Pháp đã ra Nghị định
số 30431 về việc thành lập thị xã Lạng Sơn là trung tâm đô thị của tỉnh Lạng Sơn
(theo công điện của Chánh văn phòng Phó Thống sứ Bắc Kỳ về Nghị định thiết
lập Lạng Sơn Thất Khê thành thị xã ngày 23/9/1925. Năm 2012, thành phố Lạng
Sơn đã trải qua 10 năm xây dựng và phát triển kể từ khi được công nhận là thành
phố (giai đoạn 2002 – 2012). Việc lấy mốc năm 2012 có thể chưa thật sự chính
xác nhưng sẽ giúp NCS thuận lợi hơn khi khai thác nguồn tư liệu.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu để để có cái nhìn toàn diện, luận án
còn đề cập khái quát một số vấn đềcủa thành phố trong phạm vi thời gian và
không gian rộng hơn.
Phương pháp nghiên cứu: Để tiếp cận đề tài “Quá trình hình thành và
phát triển thành phố Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012” là một đề tài rộng, cần
nguồn tư liệu khá lớn, đa dạng bởi vậy phương pháp đầu tiên được sử dụng nghiên
cứu ở đây là khai thác triệt để những tư liệu gốc như các tài liệu tại Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia I, III, Chi cục Văn thư Lưu trữ Lạng Sơn.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng là phương pháp lịch sử và phương pháp
logic
Các phương pháp đa ngành, liên ngành: kết hợp giữa phương pháp lịch sử
với phương pháp điều tra xã hội học để xử lí các số liệu và thông tin liên quan.
Phương pháp khu vực học: Căn cứ vào thực tế khách quan của lịch sử và
điều kiện xã hội của địa phương để nghiên cứu.
Phương pháp điều tra khảo sát thực địa: Đối tượng chính của luận án là
tập trung nghiên cứu về thành phố Lạng Sơn nhưng việc nghiên cứu đặt trong
mối quan hệ với cả các huyện khác và cả tỉnh Lạng Sơn cũng là rất cần thiết, do
đây là một công việc hết sức quan trọng nên cần được tiến hành bằng các bảng
câu hỏi điều tra và phỏng vấn mà tác giả đưa ra.
4. Đóng góp của luận án
Thứ nhất: Luận án trình bày một cách có hệ thống quá trình hình thành
và phát triển thành phố Lạng Sơn nói riêng cũng như mảnh đất Lạng Sơn nói
chung.
Thứ hai: Phục dựng lại một bức tranh toàn cảnh về thành phố Lạng Sơn
từ năm 1925 đến 2012 và thấy được những tác động cũng như ảnh hưởng của
quá trình đô thị hóa đến kinh tế xã hội của thành phố Lạng Sơn.
Th ứ ba: Tái hiện lại bức tranh toàn cảnh về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội của thành phố Lạng Sơn. Qua đó chỉ ra những đặ c điểm riêng mang
tính đặc thù trong quá trình phát triển c ủa thành phố Lạng Sơn so với các
thành phố khác ở nướ c ta.
Thứ tư: Luận án còn cung cấp nguồn tư liệu mới, đáng tin cậy về thành
phố Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012, phục vụ việc nghiên cứu và giảng
dạy lịch sử địa phương.
5. Bố cục Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận án được
chia thành 5 chương chính:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.
Chương 2. Thị xã Lạng Sơn từ khi thành lập đến ngày hòa bình lập lại (1925
1954).
Chương 3. Chuyển biến của thị xã Lạng Sơn trong những năm 19541975.
Chương 4. Chuyển biến của thị xã Lạng Sơn sau ngày thống nhất đất
nước và sự thành lập thành phố (19752002).
Chương 5. Thành phố Lạng Sơn qua 10 năm xây dựng, phát triển (20022012).
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về nguồn tư liệu
Để hoàn thiện luận án, tác giả đã sử dụng một số nguồn tư liệu liên quan
trực tiếp và gián tiếp đến đề tài như: tư liệu thành văn; tư liệu tranh ảnh, bản
đồ, hiện vật; tư liệu điền dã.
1.1.1. Tư liệu thành văn
Nguồn tư liệu là các văn kiện của các kì Đại hội Đảng, các nghị quyết,
quyết định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật; báo cáo và nghị
quyết triển khai, tổng kết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh
Lạng Sơn và của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Lạng Sơn, Ủy ban hành
chính thị xã Lạng Sơn cùng một số các báo cáo, quyết định của chính phủ Pháp
thi hành trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn trước năm 1945. Ngoài ra còn có các
số liệu, báo cáo thống kê của chi cục thống kê và của các cơ quan, ban ngành của
Trung ương và địa phương có liên quan đến đề tài luận án.
Nguồn tư liệu là các công trình nghiên cứu của các tác giả ở trong và ngoài
nước, trong đó có các chuyên khảo đề cập đến vấn đề kinh tế, văn hóa của thành
phố Lạng Sơn; các kỷ yếu Hội thảo khoa học cùng các bài viết trên các tạp chí
chuyên ngành có liên quan đến đề tài luận án nghiên cứu.
Tư liệu lưu trữ
Nguồn tư liệu có liên quan trực tiếp đến đề tài được lưu giữ tại Trung
tâm Lưu trữ quốc gia. Trước tiên là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, tập trung chủ
yếu ở ba phông tài liệu lưu trữ là Fonds de la residenee Superieure au tonkin (Phủ
Thống sứ Bắc Kỳ), Phủ Toàn quyền Đông Dương và Nha kinh lược Bắc kì.
Trong đó có nhiều tư liệu quan trọng về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, sự thay đổi địa giới hành chính của thành phố Lạng Sơn. Do đó có thể khai
thác chủ yếu ở một số dãy tài liệu sau: ở dãy tài liệu kí hiệu E (về tổ chức chính
quyền địa phương) có dãy tài liệu E2 (sự thay đổi địa giới hành chính với 68 hồ
sơ), trong đó có một số hồ sơ liên quan đến Lạng Sơn như hồ sơ 33306 có tiêu
đề “Modificcations dans lescirconsciptions administratius de la provice de
LangSon” (sửa đổi các đơn vị hành chính của tỉnh Lạng Sơn); hay tài liệu số
01025913, hồ sơ số 4049 với tiêu đề “Asorganisation administrative et Suppession
de la delegation de la provice de LangSon” (về việc thay đổi hành chính và xóa bỏ
địa lí tỉnh Lạng Sơn hay E02 (bảng tiểu dẫn các điều kiện kinh tế xã hội).
Ngoài ra tác giả luận án cũng tiến hành khai thác tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia III, với các phông Văn phòng Chính phủ, là phông tài liệu lưu trữ
có giá trị trong thành phần phông lưu trữ quốc gia Việt Nam. Đa số các tài liệu tác
giả khai thác được đều là tài liệu gốc, hình thành trong quá trình hoạt động của các
cơ quan nhà nước trung ương và địa phương. Có thể kể tới một số hồ sơ như
708/17589, “Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng về việc đổi tên các xã, huyện
thuộc tỉnh Lạng Sơn”; hồ sơ 9420: “Báo cáo về tình hình lũ lụt ở Lạng Sơn năm
1986”. Phông Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hồ sơ số 2054, “Quyết định của Ủy ban
nhân dân tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt đồ án thiết kế quy hoạch chung xây dựng
thị xã Lạng Sơn năm 19862000”……
Xuất phát từ nhu cầu phục vụ công tác sưu tầm nghiên cứu, sưu tầm, bảo
tồn các giá trị văn hóa lịch sử của tỉnh nhà. Thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban
nhân dân tỉnh và thành phố Lạng Sơn cũng như sự quản lí trực tiếp của Sở văn
hóa Thể thao và Du lịch Lạng Sơn nên trong những năm gần đây Thư viện và
Bảo tàng tổng hợp tỉnh đã tiến hành dịch, sưu tầm, khai thác các tư liệu về tất cả
các mảng đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…. Việc bảo tồn các giá trị
văn hóa, lịch sử đã tạo sự thuận lợi hơn cho các nhà nghiên cứu nói chung và tác
giả luận án nói riêng trong công tác sưu tầm tư liệu.
Ngoài những tư liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, tác giả luận án đã
khai thác thêm những tư liệu lưu trữ khác tại Chi cục văn thư Lưu trữ tỉnh Lạng
Sơn và Phòng lưu trữ thành ủy thành phố Lạng Sơn, qua đó đã giúp cho tác giả
những tư liệu cần thiết liên quan đến nội dung luận án.
Nguồn tư liệu báo chí
Các tờ báo của Trung ương và Địa phương:
Trước hết là một số tờ báo dưới hình thức thông tin như Báo Bắc Kạn
Ty thông tin Bắc Kạn số 83 (12/6/1950); Báo Hà Giang Ty thông tin Hà Giang
số 22, 28…; một số bản tin của Ty thông tin Thanh Hóa hay Ty thông tin Tuyên
Quang; Ty thông tin Thái Nguyên; Bản tin tin tức cơ quan của Quận chính
thành phố Hà Nội số 3 ngày 22/10/1954; hay Báo Cứu quốc Cơ quan tuyên
truyền kháng chiến của tổng bộ Việt Minh; báo Liên khu I; báo Ninh Thuận; Báo
Liên hiệp kháng chiến cơ quan tuyên truyền kháng chiến tỉnh hội Thanh Hóa; báo
Việt Minh độc lập cơ quan tuyên truyền của Việt Minh Cao Bằng Bắc Kạn
Lạng Sơn; báo Lạng Sơn…đã đăng tải nhiều thông tin về tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội...của thành phố Lạng Sơn.
Các tạp chí chuyên ngành:
Trên các tạp chí chuyên ngành một số các bài viết có nội dung liên quan
đến đề tài luận án như “Một số nét về hoạt động của hệ thống ngân hàng trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn” (Tạp chí ngân hàng, số 62004); “Lạng Sơn với phát triển
kinh tế và hội nhập” (Tạp chí Đông Nam Á, số 12005), “Khu kinh tế cửa khẩu
Tân Thanh, chặng đường 10 năm phát triển” (Tạp chí Đông Nam Á, số 2 2007),
“Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt Trung” (Tạp chí Cộng Sản, số 42007)
…
1.1.2. Tư liệu tranh ảnh, bản đồ, hiện vật
Bao gồm tranh ảnh và bản đồ cũng là nguồn tư liệu hết sức quan trọng và
cần thiết cho tác giả luận án. Các tư liệu tranh ảnh, bản đồ hiện vật được khai
thác chủ yếu tại Bảo tàng thành phố Lạng Sơn và Thư viện tỉnh Lạng Sơn, với các
danh mục ảnh về con người, về phong tục tập quán, hệ thống các chợ ở Lạng Sơn,
về diện mạo thành phố Lạng Sơn… Ngoài ra còn có các nguồn ảnh tư liệu về lịch
sử, kinh tế, văn hóa, xã hội…của thành phố đăng tải trên các trang Web của Trung
ương, địa phương…
1.1.3. Tư liệu điền dã
Tác giả luận án đã trực tiếp điền dã, thu thập tư liệu tại nhiều nơi ở cả
thành phố và các huyện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Bao gồm khảo sát tại hệ
thống các chợ lớn ở thành phố Lạng Sơn như phố chợ Kỳ Lừa, chợ Đông Kinh,
chợ Giếng Vuông, chợ Chi Lăng, chợ Tân Thanh, chợ Đêm. Tìm hiểu lịch sử hình
thành và phát triển của các chợ gắn với sự ra đời và phát triển của đô thị Lạng
Sơn qua các hoạt động mua bán, thương mại… giữa người Việt với nhau, giữa
người Việt với người Hoa và người Pháp. Cùng với đó là khảo sát hệ thống sông
ngòi như sông Thương, sông Kỳ Cùng và các vấn đề về lịch sử, văn hóa, xã hội
của một số phường trên địa bàn thành phố nhằm bổ sung tư liệu thực tế cho đề
tài luận án như: phường Đông Kinh, phường Vĩnh Trại, phường Tam Thanh, Chi
Lăng, Hoàng Văn Thụ….
1.2. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2.1. Những nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa ở Việt Nam
Những nghiên cứu trong nước
Có thể thấy rằng, từ trước đến nay cũng đã có khá nhiều những công trình
trên thế giới cũng như ở Việt Nam nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa. Ở Việt
Nam các đô thị cũng được hình thành từ khá sớm. Từ sau năm 1975, đã có một số
công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về đô thị và đô thị hóa. Tại Việt Nam
những nghiên cứu đầu tiên về đô thị và quá trình đô thị hóa đã được tiếp cận
dưới góc độ sử học, trong đó chủ yếu là tìm hiểu về sự hình thành và phát triển
của các đô thị của Việt Nam. Trước tiên phải kể đến cuốn “Đô thị cổ Việt Nam”
(Viện Sử học Việt Nam), xuất bản năm 1989. Đây là công trình tổng hợp nhiều
bài nghiên cứu của nhiều tác giả khảo cứu về các đô thị cổ trong lịch sử của
Việt Nam như Hà Nội, Hoa Lư, Phố Hiến, Hội An …[ ; ]ra đời và phát triển từ
thế kỉ thứ III đến thế kỉ thứ XIX.
Những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề đô thị và đô thị hóa được mở rộng
nghiên cứu trên các lĩnh vực nhân học, kinh tế học như: cuốn “ Đô thị Việt Nam”,
xuất bản năm 1995 của tác giả Đàm Trung Phường [80]. Sự ra đời của cuốn sách
này không chỉ cho thấy bước phát triển mới trong việc nghiên cứu đô thị mà còn
về vấn đề quy hoạch và phát triển đô thị ở Việt Nam. Nội dung sách gồm 4
chương chính, trong đó có những vấn đề chung về đô thị, đánh giá thực trạng
mạng lưới đô thị, định hướng chiến lược phát triển đô thị của Việt Nam trong
bối cảnh đô thị hóa trên thế giới. Công trình này đưa ra cách tiếp cận mới về đô
thị và đô thị hóa. Thứ hai là công trình “Đô thị hóa tại Việt Nam và Đông Nam Á”
(xuất bản năm 1995) của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, đã đề cập đến tình
hình và xu thế đô thị hóa tại Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á; nhu cầu
quản lí đô thị, bảo vệ môi trường, tình trạng tăng dân số cơ học, các kinh nghiệm
phát triển đô thị ở các nước Đông Nam Á; về vấn đề môi trường nhân văn, môi
trường văn hóa trong quá trình đô thị hóa cũng như tiến trình đô thị hóa trong lịch
sử, đồng thời giới thiệu một số đô thị cổ ở nước ta cũng như trên thế giới [111].
Năm 1998, công trình nghiên cứu “Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của các tác giả Trần Ngọc Hiên,
Trần Văn Chử [51]. Cuốn sách đã đề cập đến những lí thuyết chung về đô thị.
Trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm, đồng thời đánh giá những tác
động của công cuộc công nghiệp thóa hiện đại hóa tới quá trình đô thị và đô thị
hóa; của các chính sách tác động đến sự phát triển đô thị ở nước ta.
Bước sang những năm đầu thế kỉ XXI, khi vấn đề công nghiệp hóa hiện
đại hóa, toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của nhân loại, vấn đề đô thị và tác động
của đô thị hóa càng được các nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt với nhiều cách
tiếp cận khác nhau trên các lĩnh vực văn hóa học, kinh tế học, xã hội học, nhân
học, sử học…
Năm 2000, cuốn “Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn” của các tác giả
Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đăng được xuất bản [60]. Với vai trò
là một trung tâm đầu não chính trị, tốc độ đô thị hóa của Hà Nội dưới thời Pháp
thuộc được chuyển biến nhanh chóng hơn so với các thế kỉ trước, cả về diện
mạo và quy hoạch đô thị. Quá trình đô thị hóa đã đem lại những chuyển biến về
kinh tế, văn hóa, giáo dục, hệ thống giao thông đô thị…
Năm 2002, hai tác giả là Tôn Nữ Quỳnh Trân, Nguyễn Thế Nghĩa (đồng
chủ biên) đã cho ra đời ấn phẩm “Phát triển Đô thị bền vững”[110], cuốn sách
được biên soạn với nội dung chủ yếu từ cuộc Hội thảo khoa học quốc tế: “Phát
triển Đô thị bền vững Vai trò của nghiên cứu và giáo dục”, cuốn sách đã tập
hợp nhiều bài viết có nội dung mang tính lí luận chung và nghiên cứu những
trường hợp cụ thể về phát triển đô thị ở Việt Nam cùng các nước trên thế giới,
những đặc thù và phương hướng giải quyết theo nguyên tắc bền vững trong đô
thị; năm 2004, Võ Kim Cương đã cho ra đời cuốn “ Quản lí đô thị thời kì chuyển
đổi”[29], nêu lên một số vấn đề cơ bản về quản lí đô thị trong thời kì chuyển
đổi, phần hai là các bài viết của tác giả được đúc kết trong quá trình tham gia
quản lí đô thị.
Năm 2005, tác giả Đình Quang cho ra đời cuốn sách “ Đời sống văn hóa đô
thị và khu công nghiệp Việt Nam”, nội dung đi sâu vào nghiên cứu quá trình đô thị
hóa ở nước ta và trên thế giới hiện nay, về đời sống văn hóa đô thị, thực trạng
văn hóa xã hội khu vực đô thị, cũng như khu công nghiệp cùng triển vọng đô thị
hóa Việt Nam và bối cảnh văn hóa thế kỉ XXI.
Cuốn “Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay” (2006) của tác giả
Nguyễn Thanh Tuấn [114], cung cấp cái nhìn mới về văn hóa trong đô thị, tác giả
đi sâu nghiên cứu: Đô thị và biến đổi văn hóa đô thị nói chung, trong thời kì đổi
mới cũng như thời kì hiện đại; những quan điểm và biện pháp điều tiết quá trình
tiếp tục biến đổi văn hóa đô thị.
Ngoài ra còn có các tác phẩm đã được Nhà xuất bản Xây dựng ấn hành
như Đỗ Hậu (2010), “Quản lí đất đai và bất động sản đô thị”. Trương Quang
Thao (2011), “Đô thị học, những khái niệm mở đầu”, đề cập tới năm khái niệm –
chìa khóa đi vào nghiên cứu đô thị học, đó là: đô thị, đô thị hóa, đô thị học, quy
hoạch và nhà đô thị cùng nhiều khái niệm phát sinh từ các thuật ngữ ấy [ ; ].
Năm 2012, tác giả Trần Hữu Quang đã cho ra đời tác phẩm “Hạ tầng đô
thị Sài Gòn buổi đầu” [82], trong đó đã khắc họa một bức tranh khái lược về quá
trình hình thành hạ tầng đô thị của thành phố Sài Gòn vào giai đoạn đầu của thời
kì Pháp thuộc, tìm hiểu lịch sử của đô thị Sài Gòn. Có thể nói một trong những
điểm khác biệt giữa đô thị hiện đại với làng xã trong nông thôn cổ truyền chính
là điểm sau đây: đô thị luôn luôn là nơi xuất hiện rất nhiều chuẩn mực hết sức
cụ thể quy định cả về không gian vật lí lẫn về quy cách sinh hoạt, với số lượng
nhiều hơn và phức tạp hơn nhiều so với làng xã ở nông thôn. Hay tác giả
Nguyễn Sĩ Quế với cuốn “Lịch sử đô thị” (xuất bản năm 2012), đề cập đến công
tác quy hoạch đô thị của một số nước trên thế giới cũng như các đô thị tiêu biểu
thời kì cổ đại, phong kiến, cận đại và một phần đô thị hiện đại Việt Nam. Là cơ
sở khoa học trong việc phục vụ nghiên cứu định hướng quy hoạch các đô thị
mới, cũng như tôn tạo và phục hồi các di sản của đô thị cũ [ ; ].
Năm 2013, tác giả Đăng Trường với “Đô thị thương cảng Phố Hiến”
[112]. Nội dung chính được đề cập đến là thế kỉ XVIIXVIII, là thời kì hưng
khởi của đô thị cổ Việt Nam, nhiều đô thị xuất hiện và đạt được những thành
tựu đáng kể, hàng loạt các đô thị trở lên nổi tiếng trong đó có Phố Hiến, là một
đô thị thương cảng phát triển rực rỡ, một trung tâm đô hội rất nhiều ngành, mang
diện mạo một đô thị kinh tế, một tập hợp chợ, các thương điếm phương Tây.
Năm 2014, tác giả Đỗ Bang (chủ biên), thuộc Hội khoa học Lịch sử tỉnh
Thừa Thiên Huế đã cho ra đời cuốn sách “Đô thị Thừa Thiên Huế, tiến trình phát
triển và những giải pháp quy hoạch” [16]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của
các tác giả khu vực miền Trung và Thừa Thiên Huế, nghiên cứu chủ yếu về tiến
trình phát triển đô thị qua các giai đoạn lịch sử, đúc kết bài học kinh nghiệm đưa
giải pháp quy hoạch thành thành phố loại I trực thuộc trung ương.
Năm 2015, tác giả Phan Xuân Biên (chủ biên) với “ Xây dựng văn hóa đô
thị trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh ” [20]. Nội dung chủ yếu
đề cập đến vấn đề đô thị hóa tác động mạnh đến kinh tế, văn hóa, xã hội, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân…ở Thành phố Hồ Chí Minh và những
hệ quả, mà đặc biệt là sự tác động đến nền văn hóa đô thị hiện nay.
Năm 2016, tác giả Nguyễn Văn Kim trong “Vân Đồn, thương cảng quốc
tế của Việt Nam”. Đây là công trình xuất bản dựa trên kết quả nghiên cứu của
Đề tài khoa học trọng điểm, Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình không chỉ làm
rõ quá trình hình thành và phát triển của đô thị, thương cảng Vân Đồn mà còn đạt
đến những nhận thức toàn diện, hệ thống về truyền thống khai thác biển, tư duy
hướng biển của người Việt trước đây cũng như hiện nay qua trường hợp Vân
Đồn – Quảng Ninh.
Những nghiên cứu của người nước ngoài
Ngoài những tác giả Việt Nam đi sâu nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa ở
nước ta, đặc biệt thời kì này còn có các tác giả người nước ngoài nghiên cứu chủ
yếu về các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Có thể kể
đến:
Tác giả André Masson (Pháp, 1929) với cuốn sách “Hanoi pendant la
periode heroique 18731888” (Dịch: Hà Nội giai đoạn 18731888, Lưu Đình Tuân
dịch, 2003), cuốn sách đã mô tả chi tiết những thay đổi của Hà Nội trong một
thời kì lịch sử đặc biệt khi đô thị này chuyển mình từ thành thị phương Đông
sang một đô thị theo kiểu châu Âu dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân
Pháp.
Cuốn: “Hà Nội chu kì của những đổi thay” (Mạc Thu Hương, Trương
Quốc Toàn dịch, 2003), cuốn sách tập hợp các bài viết của 22 tác giả chủ yếu là
người Pháp và có 3 tác giả người Việt Nam, cuốn sách gồm 5 phần: Mở đầu,
Thăng Long; Vùng đất sinh ra từ những dòng nước; Hình ảnh thành phố qua bản
đồ; Ký ức lắng đọng: từ những mô hình đô thị tới các công trình; Hình thái kiến
trúc và tương lai của thành phố.
Tác giả người Mỹ là Timothy M.Gorman (2008) trong “Nền kinh tế hàng
ngày: suy nghĩ lại về tính chất không chính thống ở Việt Nam” đã nghiên cứu về Hà
Nội thời kì đô thị hóa đã xuất hiện những người nông dân từ nông thôn vào thành phố
để kiếm sống. Qua đó tác giả cũng coi đó là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa.
Cũng trong năm 2008, tác giả người Mỹ nữa là Mike Douglass thuộc Trung
tâm Nghiên cứu đô thị hóa, Khoa Quy hoạch đô thị và vùng Đại học Hawaii trong
công trình “Đô thị hóa vùng ven Đông Nam Á: bỏ rơi không gian công cộng” đã
đưa ra kết quả nghiên cứu về những chuyển biến trong văn hóa đô thị, đó là một
cảnh quan hoàn toàn mới đang bao quanh các thành phố lớn ở Đông Nam Á, theo
tác giả thì toàn cầu hóa Đông Nam Á đang phát triển. Được xây dựng lên từ đất
nông nghiệp và làng mạc là những công trình xây dựng mới, bao gồm các khu đô
thị mới rộng lớn và những khu nhà ở biệt lập bên cạnh những trung tâm mua sắm
là những siêu thị bán lẻ và siêu thị ngoại ô mới xây, tất cả đều lớn về số lượng
và quy mô. Thành phố Hồ Chí Minh là một điển hình của sự biến đổi này. Tác
giả cũng khẳng định đô thị hóa tạo cho Hà Nội một diện mạo mới, mở rộng ra
các vùng ven đô theo cả chiều rộng và cao với những khu đô thị, khách sạn…Với
những khu đô thị mới như Bắc An Khánh, Nhà Bè, New City, Ciputra, Phú Mỹ
Hưng…
Lisa Drummond (2008) trong “Đô thị hóa ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh”
đã nghiên cứu quá trình đô thị hóa ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có
những biến đổi một cách sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Song song với những
tác động tích cực của đô thị hóa như tăng trưởng kinh tế, đời sống văn hóa, vật
chất và tinh thần của người dân được nâng cao thì còn tồn tại nhiều mặt trái như
chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm môi trường ….
Các bài viết, hội thảo, luận văn, luận án
Trong những năm trở lại đây từ nhận thức đúng đắn để có thể phát huy
những tác động tích cực và hạn chế những hệ lụy do đô thị hóa gây ra, các nhà
khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đã nghiên cứu để đưa ra những khái
niệm mới, mô hình mới cho sự phát triển đô thị hóa bền vững. Ngoài các công
trình kể trên còn có một số bài viết hay một số đề tài của các tác giả được đăng
trên các tạp chí hay các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế và trong nước. Có thể
kể đến bài viết của tác giả Đào Thế Tuấn với “ Đô thị hóa và đô thị hóa ven đô ở
Hà Nội” trong “Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”.
Tác giả Lê Quang Hậu với bài “Vài nét về quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn thời kì
19541975”, trong cuốn “Phát triển đô thị bền vững” (xuất bản năm 2002), đã đề
cập đến quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1975…
Năm 2016, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc
gia Hà Nội phối hợp với trường Đại học Hoa Đông của Thượng Hải (Trung
Quốc), tổ chức hội thảo quốc tế và cho xuất bản Kỷ yếu hội thảo về đô thị ở cả
châu Á và châu Âu: “Đô thị châu Á và châu Âu: Nghiên cứu so sánh” (Asian –
European cities: A comparative study)”. Cuộc hội thảo đã quy tụ được nhiều bài
nghiên cứu có chất lượng của nhiều nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước. Có
thể tới một số nghiên cứu nổi bật về đô thị như Prof. Wang Lei (Shanghai
University of Traditional Chinese Medicine) “Urban Dreams and Consequences of
Urbanization: Historical Reflections on the Emerging Cities in the Medieval
Europe” (Những giấc mộng đô thị và hệ quả của quá trình đô thị hóa: Góc nhìn
lịch sử về những đô thị trỗi dậy ở châu Âu trung đại); hay tác giả Detlef Briesen
(Gießen University, Germany/ USSH) “Cityscape in Europe and Southeast Asia.
Ideas for a Systematic Comparison” (Không gian đô thị châu Âu và Đông Nam Á:
Những ý tưởng so sánh hệ thống). Đỗ Thị Thanh Loan (USSH) trong “ In Search
of a Metropolitan Model: Experiences from Tokyo Metropolis and Lessons for
Hanoi City” (Nghiên cứu Mô hình vùng đô thị: Kinh nghiệm từ đô thị Tokyo và
bài học cho thủ đô Hà Nội)…..Qua đó, cho thấy các tác giả đã có những cái nhìn
và cách tiếp cận nghiên cứu mới về vấn đề đô thị, những bài học kinh nghiệm
được rút ra và vận dụng trong các vấn đề về quy hoạch và quản lí đô thị ở việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa hiện nay.
Bên cạnh đó cũng phải kể tới những luận văn, luận án có nội dung liên
quan đến vấn đề đô thị hóa ở nước ta: Luận văn “ Quá trình đô thị hóa ở Phú
Minh (Phú Xuyên Hà Tây)” (1997) của tác giả Nguyễn Ngọc Hà cũng cho ta
thấy rõ tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng tại nơi đây. Luận văn “ Sự hình
thành đô thị Hội An trong lịch sử” của tác giả Tạ Thị Hồng Vân (2000), đã nêu
lên quá trình hình thành và phát triển đô thị thương cảng Hội An cùng những biến
động do sự hình thành thương cảng này. Luận văn “Quá trình đô thị hóa của Hà
Nội thời Pháp thuộc (18851945)” của tác giảNguyễn Hồng Chi (2010), đã nêu
được quá trình đô thị hóa ở Hà Nội trong gần 2 thế kỉ và sự chuyển biến quan
trọng từ một đô thị truyền thống phương Đông sang đô thị hiện đại kiểu phương
Tây. Luận văn “Quá trình đô thị hóa ở Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương (19972012)” (2014) của tác giả Dương Ngọc Hải đã tái hiện một cách
khách quan quá trình đô thị hóa ở thành phố Thủ Dầu Một, những yếu tố tác
động, ưu và nhược điểm trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Thủ Dầu Một.
Bên cạnh những luận văn được bảo vệ thành công cũng có nhiều luận án
tiến sĩ trên một số lĩnh vực nghiên cứu về đô thị hóa. Có thể kể đến như:
Luận án của tác giả Nguyễn Th ừa H ỷ với đề tài “ Thăng Long Hà
Nội thế k ỉ XVIIXVIIIXIX ” (1983), đây là bản luận án đi sâu nghiên cứu về
kinh tế, xã hội của Thăng Long Hà Nội trong 3 th ế k ỉ trên phươ ng diện
thành thị trung đại Việt Nam. Tác giả còn so sánh, đố i chiếu cấu trúc và sự
phát triển c ủa Thăng Long Hà Nội với một số thành thị khác trên thế giới,
chủ yếu là các thành thị trung đạ i Tây Âu.
Có thể nói từ đầu thế kỉ XXI là thời kì nở rộ của các nghiên cứu về đô thị,
điều đặc biệt là những nghiên cứu này không chỉ dừng lại ở nghiên cứu các đô
thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh mà hàng loạt các đô thị khác cũng
được nghiên cứu. Năm 2000, tác giả Nguyễn Quang Hồng với đề tài “ Thành phố
Vinh, quá trình hình thành và phát triển, từ năm 1908 đến trước cách mạng tháng
Tám 1945” [54]. Luận án đã chỉ ra sự phát triển của các trung tâm đô thị Vinh, Bến
Thủy, Trường Thi và sự ra đời của thành phố Vinh Bến Thủy, cùng với việc khái
quát các đặc điểm phát triển của thành phố Vinh trong hai hình thái tổ chức xã hội
từ năm 1804 đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác giả Phạm Thị Tuyết
(2011), đã bảo vệ thành công luận án “Đô thị Hải Dương thời kì thuộc địa (1886
1945)” [115] với nội dung chủ yếu làm rõ Hải Dương từ một đô thị cổ phong kiến
thành đô thị thuộc địa trên tất cả các phương diện cùng quá trình nâng cấp lên thành
phố.
Năm 2012, luận án “Từ hành cung Tức Mặc Thiên Trường đến đô thị Vị
hoàng (thế kỉ XIIIXIX)” [44] của tác giả Trần Thị Thái Hà, đã trình bày rõ nét quá
trình hình thành, phát triển và chức năng của trung tâm Thiên Trường thế kỉ XIII
XIV của đô thị Vị Hoàng Nam Định thế kỉ XVXIX, phản ánh rõ nét những đặc
trưng của đô thị Vị Hoàng. Điều cần nhấn mạnh là, tác giả đã lý giải được vì
sao, Tức Mặc Thiên Trường Sơn Nam Hạ Nam Định luôn trở thành trung tâm
của một xứ trong nhiều thế kỷ (từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX). Đó là do vị trí
địa lý trọng yếu mà đóng vai trò quan trọng là hệ thống giao thông sông, biển. Từ
đây thuyền bè có thể thuận tiện ra biển Đông, vào Nam, ra Thăng Long v.v. Đặc
biệt là các cửa biển Liêu, Lác dưới thời Nguyễn đóng vai trò hết sức quan trọng
trong vận tải và giao thông của quốc gia. Đô thị Vị Hoàng ra đời, hội tụ các yếu
tố căn bản: từ làng Vị Hoàng; từ trị sở của lộ Sơn Nam Hạ (1741) và từ hệ thống
giao thông đường sông và các cửa biển cho thuyền bè vào. Quá trình đô thị hóa
làng Vị Hoàng để trở thành đô thị Vị Hoàng, mặc dù có những đổi thay nhưng
điều đặc biệt là đã không làm cho làng Vị Hoàng bị tan biến mà vẫn tồn tại song
song với phố Vị Hoàng. Năm 2014, luận án “Thành phố Thanh Hóa, quá trình
hình thành và phát triển từ năm 1804 đến nay (2010)” [46] của tác giả Nguyễn
Thị Thu Hà đã nghiên cứu một cách có hệ thống về quá trình hình thành và phát
triển của thành phố Thanh Hóa từ khi thành lập đến 2010 với một bước chuyển.
Từ một lỵ sở sang một đô thị rồi một thành phố ở cửa ngõ Bắc Trung Bộ. Năm
2015, luận án “Thành phố Hải Phòng từ 1888 đến 1945” [79] của tác giả Nguyễn
Thị Hoài Phương. Luận án tập trung nghiên cứu vào quá trình hình thành và sự ra
đời của thành phố Hải Phòng cùng với sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội. Đồng thời cũng rút ra những nhận xét về hình thái phát triển cũng như