Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ĐỘNG MẠCH VÀNH TRÁI NGƯỜI VIỆT NAM
Nguyễn Hoàng Vũ*, Dương Văn Hải*, Trần Minh Hoàng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm giải phẫu động mạch vành trái.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 50 quả tim lấy từ tử thi được ướp dung dịch formol tại bộ môn
Giải phẫu học, đại học Y Dược TP.HCM.
Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.
Kết quả: Trong 50 trường hợp nghiên cứu, 29 trường hợp động mạch vành trái xuất phát từ xoang vành
trái của động mạch chủ, chiều dài trung bình của động mạch vành trái là 10,81±3,78mm và đường kính trung
bình là 4,61 ± 0,54mm. 1 trường hợp động mạch mũ và động mạch gian thất trước đều xuất phát từ xoang trái
động mạch chủ mà không có thân chung động mạch vành trái. Có 2 trường hợp động mạch mũ tận hết trước khi
đến bờ trái, 16 trường hợp ở bờ trái, 30 trường hợp ở giữa bờ trái và tâm điểm, 2 trường hợp ở tâm điểm. Tất cả
các trường hợp động mạch mũ đều cho nhánh bờ tù (nhánh bờ trái). Động mạch gian thất trước tận hết ở tại
mỏm tim hoặc ra phía sau mỏm tim hoặc đi vào rãnh gian thất sau. 33 trường hợp động mạch vành trái cho
nhánh trung gian.
Kết luận: Động mạch vành trái xuất phát từ xoang trái động mạch chủ. Nó có thể cho 2 nhánh hoặc 3
nhánh, đôi khi 4 nhánh bên. Sự phân bố và điểm tận của các nhánh này có thể rất thay đổi. Mặc dù dị dạng động
mạch vành rất hiếm nhưng những thay đổi về giải phẫu thì rất đa dạng và cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.
Từ khóa: thân chung động mạch vành trái, động mạch mũ, động mạch gian thất trước, nhánh trung gian,
tâm điểm
ABSTRACT
STUDY OF ANATOMY OF THE LEFT CORONARY ARTERY IN VIETNAMESE
Nguyen Hoang Vu, Duong Van Hai, Tran Minh Hoang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 107 ‐ 113
Objective: To study the anatomical characteristics of the main left coronary artery (MLCA).
Materials and methods: 50 hearts of 50 cadavers preseved in formalin solution in department of Anatomy,
the University of Medicine and Pharmacy in HCM city.
Design: A descriptive cross‐sectional study.
Results: In 50 specimens studied, the MLCA originates at the left sinus of aorta in 29 specimens with its
average length is 10.81±3.78mm and the diameter is 4.61±0.54mm. The MLCA dose not appear in 1 specimen
but the circumflex artery (Cx) and the anterior interventricular artery (AIVA) directly originate at the left sinus
of aorta. The Cx ends before reaching at the left border in 2 specimens, at the left border in 16 specimens, between
the left border and the crux in 30 specimens, and at the crux in 2 specimens. The Cx gives off the obtuse branch in
all of the speciments. The AIVA ends at the apex or behind it in all of the studied sepcimens. The intermediate
branch presents in 33 specimens.
Conclusion: The MLCA originates at the left sinus of aorta. It can divide into two branches, three branches
and sometimes four branches. These branches may vary in distribution and terminal. Although the abnormality
*Bộ môn Giải phẫu học, ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Nguyễn Hoàng Vũ
108
**Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh, ĐH Y Dược TP.HCM
ĐT: 0903863252
Email:
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
is very rare but the variation about anatomy of coronary artery is plentiful, it is need additional research with
more specimens.
Key words: main left coronary artery, circumflex artery, anterior interventricular artery (left anterior
descending), intermediate branch, crux.
mạch mũ.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, tỷ lệ tử vong do
bệnh động mạch vành có xu hướng giảm đi ở
các nước phát triển nhưng lại tăng lên ở các
nước đang phát triển. Sự tiến bộ của các kỹ thuật
chẩn đoán và điều trị đã làm giảm tỷ lệ tử vong
do bệnh động mạch vành. Kiến thức giải phẫu
rất quan trọng trong việc chẩn đoán, điều trị
bệnh động mạch vành, đặc biệt trong các
phương pháp can thiệp. Nghiên cứu này khảo
sát các đặc điểm giải phẫu động mạch vành trái,
góp phần nghiên cứu giải phẫu hệ thống động
mạch vành trên người Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
50 tử thi người Việt Nam gồm 41 nam, 9 nữ,
từ 38 đến 91tuổi. Các tử thi đã ngâm formol 10%
tại bộ môn Giải Phẫu học, Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Phương pháp chọn mẫu và kỹ thuật phẫu
tích
Mẫu được chọn lựa thuận tiện, là những tử
thi được sử dụng chuẩn bị cho việc giảng dạy
năm học 2012‐2013 và 2013‐2014.
Phẫu tích: Tử thi được mở ngực và cắt các
mạch máu lớn (động mạch chủ, động mạch
phổi, tĩnh mạch chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới,
tĩnh mạch phổi) để đưa tim ra ngoài. Sau đó,
chúng tôi bóc đi lớp màng ngoài tim để bộc lộ hệ
thống động mạch vành rồi quan sát, đo đạc các
chỉ số sau:
‐ Vị trí lỗ động mạch vành trái.
‐ Đường kính và độ dài thân chung động
mạch vành trái.
‐ Đường kính và độ dài từng đoạn của động
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
‐ Đường kính và độ dài từng đoạn của động
mạch gian thất trước.
‐ Sự phân nhánh của động mạch mũ và
động mạch gian thất trước.
‐ Điểm tận của động mạch mũ và động
mạch gian thất trước.
‐ Tỷ lệ tồn tại nhánh trung gian.
Kỹ thuật đo đường kính: Sau khi bóc sạch
lớp mỡ bao quanh động mạch, chúng tôi kẹp
dẹp động mạch lại và đo chiều ngang tại vị trí
kẹp bằng thước kẹp điện tử, đọc đến 0,01mm.
Đường kính (ĐK) ngoài động mạch được tính
như sau:
ĐK= (số đo đượcx2)/3,1416 (mm).
Đo chiều dài động mạch: dùng chỉ màu uốn
theo đường đi động mạch rồi kẹp hai đầu giới
hạn và đo độ dài giữa hai đầu kẹp.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel
2007.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Vị trí lỗ động mạch vành trái
Trong 50 mẫu nghiên cứu, có 49 mẫu hiện
diện động mạch vành trái, 1 mẫu không có thân
chung động mạch vành trái, động mạch gian
thất trước và động mạch mũ xuất phát riêng biệt
(hình 1). Tất cả thân chung động mạch vành trái
đều xuất phát từ xoang vành trái của động mạch
chủ. Vũ Duy Tùng và Nguyễn Văn Huy nghiên
cứu trên 1108 trường hợp chụp động mạch vành
bằng 64‐MSCT phát hiện có 6 trường hợp không
có thân chung động mạch vành trái, chiếm tỷ lệ
0,54%(17). Trong một nghiên cứu trên 429 trường
hợp chụp x‐quang động mạch vành của
Abdellah và các cộng sự, 24 trường hợp (chiếm
5,6%) không có thân chung động mạch vành
trái(1), Bendajs D chỉ gặp một trường hợp trong
500 trường hợp phẫu thuật(3), Cadametri và các
109
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
cộng sự nghiên cứu trên chụp cắt lớp, tỷ lệ
không có thân chung động mạch vành trái là
4,2%(5).
Đường kính ngoài và độ dài của thân
chung động mạch vành trái (bảng 1)
Đường kính của thân chung động mạch
vành trái từ 3,44mm đến 5,64mm, trung bình là
4,61±0,54mm.
Chiều dài của thân chung động mạch vành
trái được đo từ nơi xuất phát đến chỗ cho nhánh
động mạch mũ và động mạch gian thất trước,
kết quả là 10,81±3,78mm, nhỏ nhất là 4,40mm và
lớn nhất là 22,85mm.
Độ dài của thân chung động mạch vành trái
rất thay đổi và có liên quan đến bệnh lý xơ vữa
động mạch vành cũng như có liên quan với các
thủ thuật trong can thiệp động mạch vành.
Những trường hợp có độ dài thân chung động
mạch vành trái càng ngắn thì nguy cơ xảy ra xơ
vữa động mạch ở nhánh mũ và nhánh gian thất
trước càng sớm(11).
Hình 2: Thân chung ĐMV trái (1) khá dài
2. ĐM mũ
3. ĐM gian thất trướcS
Bảng 1: Kích thước động mạch vành trái
Tác giả
Fox C. et al(9)
James TN(12)
Bhimalli S. et al(4)
Gazetopoulos N et al(11)
Ortale JR(15)
Nghiên cứu này
Cỡ
mẫu
100
106
60
204
50
50
Đường
Độ dài (mm)
kính (mm)
5,5
5 - 10
2 - 40
5,73±0,74
13,5±2,7
11,02±4,5
5,0±0,9
13,1±2,8
4,61±0,54 10,81±3,78
Đường kính và độ dài thân chung động
mạch vành trái của nghiên cứu này so với tác giả
khác không có khác biệt nhiều, tuy nhiên số mẫu
của nghiên cứu này còn quá nhỏ để có thể rút ra
kết luận đầy đủ.
Động mạch mũ
Hình 1: Không có thân chung ĐMV trái
2. ĐM mũ
110
3. ĐM gian thất trước
Nguyên ủy
Trong 50 mẫu nghiên cứu, có 49 mẫu động
mạch mũ xuất phát từ thân chung động mạch
vành trái; 1 mẫu xuất phát trực tiếp từ động
mạch chủ.
Phân đoạn động mạch mũ:
Nhiều tác giả dùng bờ trái tim làm mốc chia
động mạch mũ thành hai đoạn, trước và sau bờ
trái. Nhưng cách này sẽ khó khăn và không
chính xác vì bờ trái tim không rõ ràng. Trên thực
tế lâm sàng, nhánh bờ trái (còn gọi là nhánh bờ
tù) được dùng làm mốc vì nhánh này tương đối
hằng định và dễ xác định trên các phim x‐quang
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
hoặc trên CT scan(2,8). Đoạn gần tính từ nguyên
ủy đến khi cho nhánh bờ trái thứ nhất, đoạn xa
là phần còn lại. Đây cũng là cách chúng tôi áp
dụng trong nghiên cứu này. Khi động mạch mũ
chấm dứt ngay sau khi cho nhánh bờ trái thì nó
chỉ có một đoạn (đoạn gần). Nghiên cứu này
chúng tôi gặp 12 trường hợp động mạch mũ chỉ
có đoạn gần, 38 trường hợp có đủ hai đoạn.
Kết quả là đường kính và chiều dài trung
bình của đoạn gần lần lượt là 3,55±0,69mm và
37,54±18,11mm (bảng 3). Trong 38 trường hợp
có đoạn xa, chúng tôi tính được đường kính và
chiều dài trung bình của đoạn xa lần lượt là
2,50±0,84mm và 32,87±17,98mm (bảng 3).
Bảng 3: Đường kính và độ dài trung bình các đoạn
của động mạch mũ
Đường kính (mm)
Độ dài (mm)
Đoạn gần
3,55±0,69
37,54±18,11
Đoạn xa
2,50±0,84
32,87±17,98
Đường kính đoạn gần và đoạn xa khác nhau
rất rõ ràng và có ý nghĩa thống kê vì sau khi cho
nhánh bờ trái, động mạch mũ còn lại hầu như
không cho nhánh lớn nào.
Phân nhánh
Động mạch mũ đi trong rãnh vành trái, từ
phải sang trái và cho các loại nhánh sau đây:
‐ Nhánh trước thất trái: Không hằng định,
thường có 1 đến 3 nhánh nhỏ, đi ở mặt trước
bên thất trái. Kết quả nghiên cứu này, có 42
trường hợp cho nhánh trước thất trái, 8 trường
hợp không có nhánh này. Ortale không gọi nháh
này là nhánh trước thất mà gọi là nhánh bên,
hay nhánh ngoài (lateral branch) và theo kết quả
nghiên cứu của ông trên 50 quả tim, 44 trường
hợp có nhánh này(15).
Nghiên cứu Y học
tồn tại, đi hướng ra trước và xuống dưới, dọc
theo bờ trái tim. Kết quả của chúng tôi là tất cả
các trường hợp đều cho nhánh bờ trái. Nhánh
bờ trái dùng làm mốc để phân đoạn động mạch
mũ. Khi có nhiều hơn 1 nhánh bờ trái thì nhánh
đầu tiên sẽ được sử dụng làm mốc. Sự xuất hiện
của nhánh bờ trái không phụ thuộc vị trí điểm
tận của động mạch mũ. Bởi vì nhánh bờ trái có
thể xuất phát sớm, ngay khi động mạch mũ
chưa đến, thậm chí không đến bờ trái.
‐ Nhánh sau bên đi ở mặt hoành thất trái.
Các nhánh này cũng không cố định, thường là
những nhánh nhỏ. Nghiên cứu của chúng tôi,
chỉ có 20 trường hợp cho nhánh sau bên.
Các tài liệu mà chúng tôi tham khảo không
có thống kê số nhánh sau bên và nhánh bờ trái.
‐ Nhánh gian thất sau: đôi khi động mạch
mũ đi đến điểm crux và cho nhánh gian thất
sau. Trường hợp này gọi là ưu thế trái và
thường chiếm khoảng 10‐20%(6,7,15). Trong nghiên
cứu này, chúng tôi gặp hai trường hợp (4%)
tương tự.
Điểm tận của động mạch mũ (bảng 2
Trong 50 mẫu nghiên cứu có:
+ 2 trường hợp động mạch mũ khá ngắn, tận
hết trước khi đến bờ trái của tim.
+ 16 trường hợp động mạch mũ tận hết ở bờ
trái.
+ 30 trường hợp đi qua khỏi bờ trái tim và
tận hết trước khi đến tâm điểm (đó là giao điểm
giữa rãnh gian thất sau và rãnh vành).
+ 2 trường hợp động mạch mũ đi qua khỏi
bờ trái và tận hết ở tâm điểm sau khi cho nhánh
gian thất sau.
‐ Nhánh bờ trái: là nhánh khá lớn và thường
Bảng 2: Điểm tận của động mạch mũ
Tác giả
James TN(12)
Kalpana R(13)
Das H(6)
Nghiên cứu này
Số mẫu Trước khi đến bờ
trái
106
1%
100
3%
70
0
30
2
Điểm tận hết của động mạch mũ
Giữa bờ trái và
Tại bờ trái
Tại “tâm điểm”
“tâm điểm”
20%
60%
9%
13%
67%
6%
17,4%
52,86%
18,57%
16/50
30/50
2/50
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
Qua khỏi “tâm
điểm”
9%
11%
11,43%
0
111
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Điểm tận của động mạch mũ liên quan đến
tính ưu thế động mạch vành. Khi động mạch
mũ ngắn, tận hết ở bờ trái hoặc trước bờ trái,
động mạch vành phải đảm nhiệm việc cấp máu
cho mặt hoành thất trái, đó là trường hợp ưu thế
phải. Khi động mạch mũ qua khỏi bờ trái, cho
nhánh đến mặt hoành thất trái nhưng không
cho nhánh gian thất sau, đó là trường hợp trung
gian. Và trường hợp ưu thế trái là khi động
mạch mũ đi hết rãnh vành trái, xuống mặt
hoành và tận hết ở tâm điểm sau khi cho nhánh
gian thất sau(6,12,13,8,14).
nhánh chéo thứ hai.
‐ Đoạn xa: phần còn lại.
Bảng 4: Đường kính và độ dài các đoạn của động
mạch gian thất trước
Đường kính
(mm)
Độ dài (mm)
Đoạn gần
3,92±0,44
Đoạn giữa
3,29±0,65
Đoạn xa
2,35±0,55
20,35±7,87
26,76±17,78 94,44±30,80
Đoạn xa, phần còn lại sau khi cho nhánh
chéo thứ hai, là đoạn dài nhất vì động mạch gian
thất trước sau khi cho nhánh chéo thứ hai còn
tiếp tục cho nhiều nhánh chéo nữa và đi hết
rãnh gian thất trước, vòng ra sau mỏm tim, có
khi vào rãnh gian thất sau.
Phân nhánh
+ Nhánh vách: Trung bình động mạch gian
thất trước cho 6 nhánh vách (ít nhất là 2 nhánh,
nhiều nhất là 13 nhánh) đi vào vách gian thất.
Hình 3: ĐM mũ (1) tận hết trước khi đến tâm điểm
+ Nhánh chéo trái: các nhánh này đi ở bề
mặt tâm thất trái, hướng từ rãnh gian thất chéo
xuống dưới và sang trái. Động mạch gian thất
trước cho từ 2 đến 11 nhánh, trung bình là 5
nhánh chéo trái (hình 5). Theo Fiss D, động mạch
gian thất trước (mà ông gọi là động mạch xuống
trước trái (left anterior descending) cho từ 2 đến
9 nhánh chéo trái(8).
Động mạch gian thất trước
Nguyên ủy
49 trường hợp động mạch gian thất trước
xuất phát từ thân chung động mạch vành trái; 1
trường hợp xuất phát trực tiếp từ động mạch
chủ. Đây chính là trường hợp không có thân
chung động mạch vành trái, động mạch mũ và
động mạch gian thất trước xuất phát bằng hai lỗ
riêng biệt đã nêu ở trên.
Kích thước từng đoạn của động mạch gian
thất trước (bảng 4)
Trên lâm sàng, động mạch gian thất trước
chia thành ba đoạn:
‐ Đoạn gần: Từ nguyên ủy đến nhánh vách
thứ nhất.
‐ Đoạn giữa: Từ nhánh vách thứ nhất đến
112
Hình 5: ĐM gian thất trước (1) cho các nhánh bên
chủ yếu là nhánh chéo trái
+ Nhánh chéo phải: Nhánh chéo phải đi ở
mặt trước tâm thất phải, bên phải rãnh gian thất.
Khác với nhánh chéo trái, số lượng nhánh chéo
phải rất ít vì mặt trước tâm thất phải chủ yếu
được cung cấp máu bởi các nhánh trước thất và
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nhánh bờ phải của động mạch vành phải. Trong
số 50 mẫu, chỉ có 1 trường hợp cho ba nhánh
chéo phải, 10 trường hợp cho hai nhánh, 18
trường hợp cho một nhánh và có đến 21 trường
hợp không có nhánh chéo phải.
Điểm tận
Tất cả 50 trường hợp, động mạch gian thất
trước đi hết rãnh gian thất trước. Trong đó, 15
trường hợp tận hết phía trước mỏm tim, 16
trường hợp đi vòng ra phía sau và tận hết ở
ngay phía sau mỏm tim, 19 trường hợp động
mạch gian thất trước tiếp tục đi lên trong rãnh
gian thất sau và tận hết ở khoảng 1/3 dưới rãnh
này. Động mạch gian thất trước đi vòng ra sau
mỏm tim bù trừ cho động mạch gian thất sau
vốn ngắn và không đi đến mỏm tim.
Nghiên cứu Y học
(intermediate branch, hình 4). Kết quả nghiên
cứu này cho thấy 32/50 trường hợp có sự hiện
diện nhánh trung gian, trong đó có 3 trường
hợp có đến hai nhánh trung gian, 29 trường
hợp còn lại có một nhánh trung gian. Đường
kính, nhánh trung gian thứ nhất (lớn hơn) có
đường kính trung bình là 1,83±0,51mm và
nhánh trung gian nhỏ hơn có đường kính
1,30±0,43mm. Một số tác giả gọi nhánh trung
gian này là nhánh chéo 1(3,16) và theo Berdajs D
và Turina MI, tỷ lệ hiện diện nhánh trung gian
này khoảng 58‐60% trường hợp(3).
Bảng 6 biểu thị số nhánh trung gian của
động mạch vành trái trong nghiên cứu này và so
sánh với một số tác giả khác.
Kết quả này cũng tương tự như các tác giả
khác mà chúng tôi so sánh đại diện ở bảng 5
dưới đây.
Bảng 5: Điểm tận của động mạch gian thất trước
Tác giả
Số
mẫu
Điểm tận của động mạch gian thất
trước
Trước Sau mỏm Trong rãnh
mỏm tim
tim
gian thất sau
James TN(12) 106
Kalpana R(13) 100
Nghiên cứu này 30
17%
8/100
15/50
23%
12/100
16/50
60%
80/100
19/50
Nhánh trung gian
Có trường hợp thân động mạch vành trái
cho một (đôi khi là 2 hoặc 3) nhánh nằm giữa
động mạch mũ và động mạch gian thất trước,
nhánh này được gọi là nhánh trung gian
Hình 6: ĐM vành trái (1) cho nhánh ĐM mũ (2),
ĐM gian thất trước (3) và nhánh trung gian (4)
Bảng 6: Số nhánh trung gian
Số nhánh trung gian
1
2
Tác giả
Số mẫu
Kalpana R(13)
100
47%
40%
Ortale JR et al(15)
Fazliogullari Z(7)
Bhimalli S et al(4)
Pejkovic P et al(16)
Nghiên cứu này
50
50
50
150
50
50%
46%
56,66%
46%
44%
33,33%
18/50
29/50
0
Như vậy, ngoài nhánh mũ và nhánh gian
thất trước, trên 60% trường hợp động mạch
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
3
11%
1%
4%
10%
8%
50%
3/50
2%
Ghi chú
Có 1 trường hợp không có ĐM
mũ, động mạch vành trái chỉ
cho ĐM gian thất trước.
vành trái còn cho thêm một hoặc nhiều nhánh
nữa và được gọi là nhánh trung gian. Điều này
rất ít được nói đến trong các tài liệu về giải phẫu
113
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
học, nhất là các tài liệu trong nước.
KẾT LUẬN
6.
Động mạch vành trái xuất phát từ xoang trái
động mạch chủ. 1/50 trường hợp không có thân
chung động mạch vành trái, khi đó nhánh mũ
và nhánh gian thất trước xuất phát riêng biệt từ
xoang vành trái động mạch chủ. 32/50 trường
hợp động mạch vành trái cho nhánh thứ ba hoặc
thứ tư ngoài nhánh mũ và nhánh gian thất
trước. Nhánh bờ trái của động mạch mũ luôn
luôn tồn tại và là nhánh chính, trong khi các
nhánh chéo trái là nhánh chủ yếu của động
mạch gian thất trước. Vị trí điểm tận của động
mạch mũ và động mạch gian thất trước rất thay
đổi.
Mặc dù dị dạng động mạch vành rất hiếm
nhưng những thay đổi về giải phẫu thì rất đa
dạng và rất có ý nghĩa trong chẩn đoán và điều
trị bệnh động mạch vành, nhất là trong các kỹ
thuật can thiệp. Nghiên cứu giải phẫu động
mạch vành một cách toàn diện hơn, với cỡ mẫu
lớn hơn là điều rất cần thiết.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
114
Abdellah AAA, Elsayed ASA, Hassan MA (2009).
Angiographic coronary artery anatomy in the Sudan Heart
Center. Khartoum Medical Journal, vol 02, No 01: 162‐164.
Achenbach S. (2011). Coronary Anatomy for
interventionalists. In Revisitting cardiac anatomy: A computed
tomography based atlas and reference (Eds. Saremi F., Achenbach
S., Arbustini E, Narula J.). Blackwell publishing, Erlangen; pp.
162‐178.
Berdajs D, Turina MI (2011). Operative Anatomy of the Heart.
Springer‐Verlag, Berlin, pp: 162‐ 198.
Bhimalli S, Dixi D, Siddibhavi M, Shirol VS (2011). A study of
variations in coronary arterial system in cadaveric human
hearts. World Journal of Science and Technology, No1 (5): 31‐35.
Cademartiri F, Crutta LL, Malagò R, Alberghina F, Meijboom
WB, Pugliese F et al (2008). Prevalence of anatomical variants
16.
17.
and coronary anomalies in 543 consecutive patients studied
with 64‐slice CT coronary angiography. European Radiology,
18: 781 – 791.
Das H et al (2010). A study of coronary dominance in the
population of ASSAM. J Anat. So. India 59(2) 187‐191.
Fazliogullari Z, Karabulut A K, Ulver Dugan N, Uysal I I
(2010). Coronary artery variations and median artery in
Turkish cadaver hearts. Singapore Medical Journal 2010; 51 (10):
775 – 780.
Fiss DM (2007). Normal coronary anatomy and anatomic
variations. Applied Radiology Vol 36, No1: 14‐26.
Fox C, Davies MJ, Webb‐Peploe MM (1973). Length of left
main coronary artery. British Heart Journal, 35: 796 – 798.
Gatzoulis MA (2008). Heart and great vessels. In Gray’s
Anatomy, The Anatomy Basis of Clinical Practic, (eds. Suan
Standring), 40th edition, Churchill Livingstone, pp 960‐981.
Gazetopoulos N, Ioannidis PJ, Karidys C, Lolas C, Kiriakou
K, and Toutas C (1976). Short left coronary artery trunk as a
risk factor in the development of coronary atherosclerosis.
British Heart Journal, 38: 1160 – 1165.
James TN (1961). Anatomy of the coronary arteries, 1st edition,
Harper & Row, Publishers, Inc., Hagerstown, Maryland, pp 3‐
202.
Kalpana R (2003). A Study on Principal Branches of Coronary
Arteries in Humans. Journal of Anatomy of the Anatomical
Society of India, 52 (2): 137 – 140
Nguyễn Hoàng Vũ, Dương Văn Hải, Trần Minh Hoàng,
Nguyễn Văn Nhựt (2013). Nghiên cứu giải phẫu động mạch
vành phải trên người Việt Nam; Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
số 1, tập 17; tr 292‐298.
Ortale JR, Filho JM, Paccola AMF, Leal JGPG, Scaranari CA
(2005). Anatomy of the lateral, diagonal and anterosuperior
arterial branches of the left ventricle of the human heart. Brazil
Journal Cardiovascular Surgery; 20(2): 149‐158.
Pejkovic P, Krajnc I, Anderhuber F (2008). Anatomical
variations of coronary ostia, Aortocoronary angles and angles
of division of the left coronary artery of human heart. The
Journal of International Medical Research; 36: 914‐922.
Vũ Duy Tùng, Nguyễn Văn Huy (2013). Cầu cơ động mạch
vành trên phim chụp 64‐MSCT; Y học Việt Nam, tập 411; tr:
168‐173.
Ngày nhận bài báo: 07/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo 12/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa