Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đặc điểm giải phẫu động mạch vành trái người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.71 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ĐỘNG MẠCH VÀNH TRÁI NGƯỜI VIỆT NAM 
Nguyễn Hoàng Vũ*, Dương Văn Hải*, Trần Minh Hoàng**

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm giải phẫu động mạch vành trái.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 50 quả tim lấy từ tử thi được ướp dung dịch formol tại bộ môn 
Giải phẫu học, đại học Y Dược TP.HCM. 
Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Trong 50 trường hợp nghiên cứu, 29 trường hợp động mạch vành trái xuất phát từ xoang vành 
trái của động mạch chủ, chiều dài trung bình của động mạch vành trái là 10,81±3,78mm và đường kính trung 
bình là 4,61 ± 0,54mm. 1 trường hợp động mạch mũ và động mạch gian thất trước đều xuất phát từ xoang trái 
động mạch chủ mà không có thân chung động mạch vành trái. Có 2 trường hợp động mạch mũ tận hết trước khi 
đến bờ trái, 16 trường hợp ở bờ trái, 30 trường hợp ở giữa bờ trái và tâm điểm, 2 trường hợp ở tâm điểm. Tất cả 
các trường hợp động mạch mũ đều cho nhánh bờ tù (nhánh bờ trái). Động mạch gian thất trước tận hết ở tại 
mỏm tim hoặc ra phía sau mỏm tim hoặc đi vào rãnh gian thất sau. 33 trường hợp động mạch vành trái cho 
nhánh trung gian. 
Kết luận: Động mạch vành trái xuất phát từ  xoang trái động mạch chủ. Nó có thể cho 2  nhánh hoặc 3 
nhánh, đôi khi 4 nhánh bên. Sự phân bố và điểm tận của các nhánh này có thể rất thay đổi. Mặc dù dị dạng động 
mạch vành rất hiếm nhưng những thay đổi về giải phẫu thì rất đa dạng và cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.  
Từ khóa: thân chung động mạch vành trái, động mạch mũ, động mạch gian thất trước, nhánh trung gian, 
tâm điểm 

ABSTRACT 
STUDY OF ANATOMY OF THE LEFT CORONARY ARTERY IN VIETNAMESE 
Nguyen Hoang Vu, Duong Van Hai, Tran Minh Hoang  
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 107 ‐ 113 
Objective: To study the anatomical characteristics of the main left coronary artery (MLCA). 


Materials and methods: 50 hearts of 50 cadavers preseved in formalin solution in department of Anatomy, 
the University of Medicine and Pharmacy in HCM city. 
Design: A descriptive cross‐sectional study. 
Results: In 50 specimens studied, the MLCA originates at the left sinus of aorta in 29 specimens with its 
average length is 10.81±3.78mm and the diameter is 4.61±0.54mm. The MLCA dose not appear in 1 specimen 
but the circumflex artery (Cx) and the anterior interventricular artery (AIVA) directly originate at the left sinus 
of aorta. The Cx ends before reaching at the left border in 2 specimens, at the left border in 16 specimens, between 
the left border and the crux in 30 specimens, and at the crux in 2 specimens. The Cx gives off the obtuse branch in 
all of the speciments. The AIVA ends at the apex or behind it in all of the studied sepcimens. The intermediate 
branch presents in 33 specimens.  
Conclusion: The MLCA originates at the left sinus of aorta. It can divide into two branches, three branches 
and sometimes four branches. These branches may vary in distribution and terminal. Although the abnormality 
*Bộ môn Giải phẫu học, ĐH Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Nguyễn Hoàng Vũ  

108

**Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh, ĐH Y Dược TP.HCM 
ĐT: 0903863252 
Email:  

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

is very rare but the variation about anatomy of coronary artery is plentiful, it is need additional research with 
more specimens. 

Key words:  main  left  coronary  artery,  circumflex  artery,  anterior  interventricular  artery  (left  anterior 
descending), intermediate branch, crux.  
mạch mũ.  
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những năm gần đây, tỷ lệ tử vong do 
bệnh  động  mạch  vành  có  xu  hướng  giảm  đi  ở 
các  nước  phát  triển  nhưng  lại  tăng  lên  ở  các 
nước đang phát triển. Sự tiến bộ của các kỹ thuật 
chẩn đoán và điều trị đã làm giảm tỷ lệ tử vong 
do  bệnh  động  mạch  vành.  Kiến  thức  giải  phẫu 
rất  quan  trọng  trong  việc  chẩn  đoán,  điều  trị 
bệnh  động  mạch  vành,  đặc  biệt  trong  các 
phương  pháp  can  thiệp.  Nghiên  cứu  này  khảo 
sát các đặc điểm giải phẫu động mạch vành trái, 
góp  phần  nghiên  cứu  giải  phẫu  hệ  thống  động 
mạch vành trên người Việt Nam.  

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
50 tử thi người Việt Nam gồm 41 nam, 9 nữ, 
từ 38 đến 91tuổi. Các tử thi đã ngâm formol 10% 
tại  bộ  môn  Giải  Phẫu  học,  Đại  học  Y  Dược 
Thành phố Hồ Chí Minh.  

Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 

Phương  pháp  chọn  mẫu  và  kỹ  thuật  phẫu 
tích 
Mẫu được chọn lựa thuận tiện, là những tử 

thi  được  sử  dụng  chuẩn  bị  cho  việc  giảng  dạy 
năm học 2012‐2013 và 2013‐2014. 
Phẫu  tích:  Tử  thi  được  mở  ngực  và  cắt  các 
mạch  máu  lớn  (động  mạch  chủ,  động  mạch 
phổi,  tĩnh  mạch  chủ  trên,  tĩnh  mạch  chủ  dưới, 
tĩnh  mạch  phổi)  để  đưa  tim  ra  ngoài.  Sau  đó, 
chúng tôi bóc đi lớp màng ngoài tim để bộc lộ hệ 
thống động mạch vành rồi quan sát, đo đạc các 
chỉ số sau: 
‐ Vị trí lỗ động mạch vành trái. 
‐  Đường  kính  và  độ  dài  thân  chung  động 
mạch vành trái. 
‐ Đường kính và độ dài từng đoạn của động 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

‐ Đường kính và độ dài từng đoạn của động 
mạch gian thất trước.  
‐  Sự  phân  nhánh  của  động  mạch  mũ  và 
động mạch gian thất trước. 
‐  Điểm  tận  của  động  mạch  mũ  và  động 
mạch gian thất trước. 
‐ Tỷ lệ tồn tại nhánh trung gian. 
Kỹ  thuật  đo  đường  kính:  Sau  khi  bóc  sạch 
lớp  mỡ  bao  quanh  động  mạch,  chúng  tôi  kẹp 
dẹp  động  mạch  lại  và  đo  chiều  ngang  tại  vị  trí 
kẹp  bằng  thước  kẹp  điện  tử,  đọc  đến  0,01mm. 
Đường  kính  (ĐK)  ngoài  động  mạch  được  tính 
như sau: 
ĐK= (số đo đượcx2)/3,1416 (mm). 

 Đo chiều dài động mạch: dùng chỉ màu uốn 
theo  đường  đi  động  mạch  rồi  kẹp  hai  đầu  giới 
hạn và đo độ dài giữa hai đầu kẹp. 
Số  liệu  được  xử  lý  bằng  phần  mềm  Excel 
2007. 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Vị trí lỗ động mạch vành trái 
Trong  50  mẫu  nghiên  cứu,  có  49  mẫu  hiện 
diện động mạch vành trái, 1 mẫu không có thân 
chung  động  mạch  vành  trái,  động  mạch  gian 
thất trước và động mạch mũ xuất phát riêng biệt 
(hình 1). Tất cả thân chung động mạch vành trái 
đều xuất phát từ xoang vành trái của động mạch 
chủ. Vũ Duy Tùng và Nguyễn Văn Huy nghiên 
cứu trên 1108 trường hợp chụp động mạch vành 
bằng 64‐MSCT phát hiện có 6 trường hợp không 
có thân chung động mạch vành trái, chiếm tỷ lệ 
0,54%(17). Trong một nghiên cứu trên 429 trường 
hợp  chụp  x‐quang  động  mạch  vành  của 
Abdellah và các cộng sự, 24 trường hợp (chiếm 
5,6%)  không  có  thân  chung  động  mạch  vành 
trái(1),  Bendajs  D  chỉ  gặp  một  trường  hợp  trong 
500 trường  hợp  phẫu  thuật(3),  Cadametri  và  các 

109


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

cộng  sự  nghiên  cứu  trên  chụp  cắt  lớp,  tỷ  lệ 
không  có  thân  chung  động  mạch  vành  trái  là 
4,2%(5). 

Đường  kính  ngoài  và  độ  dài  của  thân 
chung động mạch vành trái (bảng 1) 
Đường  kính  của  thân  chung  động  mạch 
vành trái từ 3,44mm đến 5,64mm, trung bình là 
4,61±0,54mm.  
Chiều dài của  thân  chung  động  mạch  vành 
trái được đo từ nơi xuất phát đến chỗ cho nhánh 
động  mạch  mũ  và  động  mạch  gian  thất  trước, 
kết quả là 10,81±3,78mm, nhỏ nhất là 4,40mm và 
lớn nhất là 22,85mm. 
Độ dài của thân chung động mạch vành trái 
rất thay đổi và có liên quan đến bệnh lý xơ vữa 
động mạch vành cũng như có liên quan với các 
thủ  thuật  trong  can  thiệp  động  mạch  vành. 
Những trường hợp có độ  dài  thân  chung  động 
mạch vành trái càng ngắn thì nguy cơ xảy ra xơ 
vữa động mạch ở nhánh mũ và nhánh gian thất 
trước càng sớm(11). 

 
Hình 2: Thân chung ĐMV trái (1) khá dài 
2. ĐM mũ 

3. ĐM gian thất trướcS 


Bảng 1: Kích thước động mạch vành trái 
Tác giả
Fox C. et al(9)
James TN(12)
Bhimalli S. et al(4)
Gazetopoulos N et al(11)
Ortale JR(15)
Nghiên cứu này

Cỡ
mẫu
100
106
60
204
50
50

Đường
Độ dài (mm)
kính (mm)
5,5
5 - 10
2 - 40
5,73±0,74
13,5±2,7
11,02±4,5
5,0±0,9
13,1±2,8

4,61±0,54 10,81±3,78

Đường  kính  và  độ  dài  thân  chung  động 
mạch vành trái của nghiên cứu này so với tác giả 
khác không có khác biệt nhiều, tuy nhiên số mẫu 
của nghiên cứu này còn quá nhỏ để có thể rút ra 
kết luận đầy đủ.  

Động mạch mũ 

 
Hình 1: Không có thân chung ĐMV trái 
2. ĐM mũ 
 

110

 3. ĐM gian thất trước 

Nguyên ủy
Trong 50 mẫu nghiên cứu, có 49  mẫu  động 
mạch  mũ  xuất  phát  từ  thân  chung  động  mạch 
vành  trái;  1  mẫu  xuất  phát  trực  tiếp  từ  động 
mạch chủ.  
Phân đoạn động mạch mũ:
Nhiều tác giả dùng bờ trái tim làm mốc chia 
động mạch mũ thành hai đoạn, trước và sau bờ 
trái.  Nhưng  cách  này  sẽ  khó  khăn  và  không 
chính xác vì bờ trái tim không rõ ràng. Trên thực 
tế lâm sàng, nhánh bờ trái (còn gọi là nhánh bờ 

tù) được dùng làm mốc vì nhánh này tương đối 
hằng định và dễ xác định trên các phim x‐quang 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
hoặc  trên  CT  scan(2,8).  Đoạn  gần  tính  từ  nguyên 
ủy đến khi cho nhánh bờ trái thứ nhất, đoạn xa 
là  phần  còn  lại.  Đây  cũng  là  cách  chúng  tôi  áp 
dụng trong nghiên cứu này. Khi động mạch mũ 
chấm dứt ngay sau khi cho nhánh bờ trái thì nó 
chỉ  có  một  đoạn  (đoạn  gần).  Nghiên  cứu  này 
chúng tôi gặp 12 trường hợp động mạch mũ chỉ 
có đoạn gần, 38 trường hợp có đủ hai đoạn. 
Kết  quả  là  đường  kính  và  chiều  dài  trung 
bình  của  đoạn  gần  lần  lượt  là  3,55±0,69mm  và 
37,54±18,11mm  (bảng  3).  Trong  38  trường  hợp 
có đoạn xa, chúng tôi tính được đường kính và 
chiều  dài  trung  bình  của  đoạn  xa  lần  lượt  là 
2,50±0,84mm và 32,87±17,98mm (bảng 3).  
Bảng 3: Đường kính và độ dài trung bình các đoạn 
của động mạch mũ 
Đường kính (mm)
Độ dài (mm)

Đoạn gần
3,55±0,69
37,54±18,11


Đoạn xa
2,50±0,84
32,87±17,98

Đường kính đoạn gần và đoạn xa khác nhau 
rất rõ ràng và có ý nghĩa thống kê vì sau khi cho 
nhánh  bờ  trái,  động  mạch  mũ  còn  lại  hầu  như 
không cho nhánh lớn nào. 

Phân nhánh
Động  mạch  mũ  đi  trong  rãnh  vành  trái,  từ 
phải sang trái và cho các loại nhánh sau đây: 
‐  Nhánh  trước  thất  trái:  Không  hằng  định, 
thường  có  1  đến  3  nhánh  nhỏ,  đi  ở  mặt  trước 
bên  thất  trái.  Kết  quả  nghiên  cứu  này,  có  42 
trường hợp cho nhánh  trước  thất  trái,  8  trường 
hợp không có nhánh này. Ortale không gọi nháh 
này  là  nhánh  trước  thất  mà  gọi  là  nhánh  bên, 
hay nhánh ngoài (lateral branch) và theo kết quả 
nghiên  cứu  của  ông  trên  50  quả  tim,  44  trường 
hợp có nhánh này(15). 

Nghiên cứu Y học

tồn  tại,  đi  hướng  ra  trước  và  xuống  dưới,  dọc 
theo bờ trái tim. Kết quả của chúng tôi là tất cả 
các  trường  hợp  đều  cho  nhánh  bờ  trái.  Nhánh 
bờ trái dùng làm mốc để phân đoạn động mạch 
mũ. Khi có nhiều hơn 1 nhánh bờ trái thì nhánh 
đầu tiên sẽ được sử dụng làm mốc. Sự xuất hiện 

của  nhánh  bờ  trái  không  phụ  thuộc  vị  trí  điểm 
tận của động mạch mũ. Bởi vì nhánh bờ trái có 
thể  xuất  phát  sớm,  ngay  khi  động  mạch  mũ 
chưa đến, thậm chí không đến bờ trái. 
‐  Nhánh  sau  bên  đi  ở  mặt  hoành  thất  trái. 
Các  nhánh  này  cũng  không  cố  định,  thường  là 
những  nhánh  nhỏ.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
chỉ có 20 trường hợp cho nhánh sau bên. 
Các tài liệu mà chúng tôi tham khảo không 
có thống kê số nhánh sau bên và nhánh bờ trái. 
‐  Nhánh  gian  thất  sau:  đôi  khi  động  mạch 
mũ  đi  đến  điểm  crux  và  cho  nhánh  gian  thất 
sau.  Trường  hợp  này  gọi  là  ưu  thế  trái  và 
thường chiếm khoảng 10‐20%(6,7,15). Trong nghiên 
cứu  này,  chúng  tôi  gặp  hai  trường  hợp  (4%) 
tương tự. 

Điểm tận của động mạch mũ (bảng 2
Trong 50 mẫu nghiên cứu có: 

+ 2 trường hợp động mạch mũ khá ngắn, tận 
hết trước khi đến bờ trái của tim. 
+ 16 trường hợp động mạch mũ tận hết ở bờ 
trái. 
+  30  trường  hợp  đi  qua  khỏi  bờ  trái  tim  và 
tận hết trước khi đến tâm điểm (đó là giao điểm 
giữa rãnh gian thất sau và rãnh vành).  
+  2  trường  hợp  động  mạch  mũ  đi  qua  khỏi 
bờ trái và tận hết ở tâm điểm sau khi cho nhánh 
gian thất sau.  


‐ Nhánh bờ trái: là nhánh khá lớn và thường 
Bảng 2: Điểm tận của động mạch mũ 
Tác giả
James TN(12)
Kalpana R(13)
Das H(6)
Nghiên cứu này

Số mẫu Trước khi đến bờ
trái
106
1%
100
3%
70
0
30
2

Điểm tận hết của động mạch mũ
Giữa bờ trái và
Tại bờ trái
Tại “tâm điểm”
“tâm điểm”
20%
60%
9%
13%
67%

6%
17,4%
52,86%
18,57%
16/50
30/50
2/50

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

Qua khỏi “tâm
điểm”
9%
11%
11,43%
0

111


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Điểm tận của động mạch mũ liên quan đến 
tính  ưu  thế  động  mạch  vành.  Khi  động  mạch 
mũ  ngắn,  tận  hết  ở  bờ  trái  hoặc  trước  bờ  trái, 
động mạch vành phải đảm nhiệm việc cấp máu 
cho mặt hoành thất trái, đó là trường hợp ưu thế 
phải.  Khi  động  mạch  mũ  qua  khỏi  bờ  trái,  cho 

nhánh  đến  mặt  hoành  thất  trái  nhưng  không 
cho nhánh gian thất sau, đó là trường hợp trung 
gian.  Và  trường  hợp  ưu  thế  trái  là  khi  động 
mạch  mũ  đi  hết  rãnh  vành  trái,  xuống  mặt 
hoành và tận hết ở tâm điểm sau khi cho nhánh 
gian thất sau(6,12,13,8,14). 

nhánh chéo thứ hai. 
‐ Đoạn xa: phần còn lại. 
Bảng 4: Đường kính và độ dài các đoạn của động 
mạch gian thất trước 
Đường kính
(mm)
Độ dài (mm)

Đoạn gần
3,92±0,44

Đoạn giữa
3,29±0,65

Đoạn xa
2,35±0,55

20,35±7,87

26,76±17,78 94,44±30,80

Đoạn  xa,  phần  còn  lại  sau  khi  cho  nhánh 
chéo thứ hai, là đoạn dài nhất vì động mạch gian 

thất  trước  sau  khi  cho  nhánh  chéo  thứ  hai  còn 
tiếp  tục  cho  nhiều  nhánh  chéo  nữa  và  đi  hết 
rãnh  gian  thất  trước,  vòng  ra  sau  mỏm  tim,  có 
khi vào rãnh gian thất sau. 

Phân nhánh
+ Nhánh vách: Trung  bình  động  mạch  gian 
thất trước cho 6 nhánh vách (ít nhất là 2 nhánh, 
nhiều nhất là 13 nhánh) đi vào vách gian thất. 

 
Hình 3: ĐM mũ (1) tận hết trước khi đến tâm điểm 

+  Nhánh  chéo  trái:  các  nhánh  này  đi  ở  bề 
mặt tâm thất trái, hướng từ rãnh gian thất chéo 
xuống  dưới  và  sang  trái.  Động  mạch  gian  thất 
trước  cho  từ  2  đến  11  nhánh,  trung  bình  là  5 
nhánh chéo trái (hình 5). Theo Fiss D, động mạch 
gian thất trước (mà ông gọi là động mạch xuống 
trước trái (left anterior descending) cho từ 2 đến 
9 nhánh chéo trái(8). 

Động mạch gian thất trước 
Nguyên ủy
49  trường  hợp  động  mạch  gian  thất  trước 
xuất phát từ thân chung động mạch vành trái; 1 
trường  hợp  xuất  phát  trực  tiếp  từ  động  mạch 
chủ.  Đây  chính  là  trường  hợp  không  có  thân 
chung động mạch vành trái, động mạch mũ và 
động mạch gian thất trước xuất phát bằng hai lỗ 

riêng biệt đã nêu ở trên. 
Kích thước từng đoạn của động mạch gian
thất trước (bảng 4)
Trên  lâm  sàng,  động  mạch  gian  thất  trước 
chia thành ba đoạn: 
‐ Đoạn gần: Từ nguyên ủy đến nhánh vách 
thứ nhất. 
‐  Đoạn  giữa:  Từ  nhánh  vách  thứ  nhất  đến 

112

 

Hình 5: ĐM gian thất trước (1) cho các nhánh bên 
chủ yếu là nhánh chéo trái 
+  Nhánh  chéo  phải:  Nhánh  chéo  phải  đi  ở 
mặt trước tâm thất phải, bên phải rãnh gian thất. 
Khác với nhánh chéo trái, số lượng nhánh chéo 
phải  rất  ít  vì  mặt  trước  tâm  thất  phải  chủ  yếu 
được cung cấp máu bởi các nhánh trước thất và 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
nhánh bờ phải của động mạch vành phải. Trong 
số  50  mẫu,  chỉ  có  1  trường  hợp  cho  ba  nhánh 
chéo  phải,  10  trường  hợp  cho  hai  nhánh,  18 
trường hợp cho một nhánh và có đến 21 trường 
hợp không có nhánh chéo phải.  


Điểm tận
Tất  cả  50  trường  hợp,  động  mạch  gian  thất 
trước  đi  hết  rãnh  gian  thất  trước.  Trong  đó,  15 
trường  hợp  tận  hết  phía  trước  mỏm  tim,  16 
trường  hợp  đi  vòng  ra  phía  sau  và  tận  hết  ở 
ngay  phía  sau  mỏm  tim,  19  trường  hợp  động 
mạch  gian  thất  trước  tiếp  tục  đi  lên  trong  rãnh 
gian thất sau và tận hết ở khoảng 1/3 dưới rãnh 
này. Động mạch gian thất trước đi vòng ra sau 
mỏm  tim  bù  trừ  cho  động  mạch  gian  thất  sau 
vốn ngắn và không đi đến mỏm tim. 

Nghiên cứu Y học

(intermediate  branch,  hình  4).  Kết  quả  nghiên 
cứu này cho thấy 32/50 trường hợp có sự hiện 
diện  nhánh  trung  gian,  trong  đó  có  3  trường 
hợp  có  đến  hai  nhánh  trung  gian,  29  trường 
hợp  còn  lại  có  một  nhánh  trung  gian.  Đường 
kính,  nhánh  trung  gian  thứ  nhất  (lớn  hơn)  có 
đường  kính  trung  bình  là  1,83±0,51mm  và 
nhánh  trung  gian  nhỏ  hơn  có  đường  kính 
1,30±0,43mm.  Một  số  tác  giả  gọi  nhánh  trung 
gian này là nhánh chéo 1(3,16) và theo Berdajs D 
và Turina MI, tỷ lệ hiện diện nhánh trung gian 
này khoảng 58‐60% trường hợp(3). 
Bảng  6  biểu  thị  số  nhánh  trung  gian  của 
động mạch vành trái trong nghiên cứu này và so 
sánh với một số tác giả khác.  


Kết quả này cũng tương tự như các tác giả 
khác  mà  chúng  tôi  so  sánh  đại  diện  ở  bảng  5 
dưới đây.  
Bảng 5: Điểm tận của động mạch gian thất trước 
Tác giả

Số
mẫu

Điểm tận của động mạch gian thất
trước
Trước Sau mỏm Trong rãnh
mỏm tim
tim
gian thất sau

James TN(12) 106
Kalpana R(13) 100
Nghiên cứu này 30

17%
8/100
15/50

23%
12/100
16/50

60%

80/100
19/50

 

Nhánh trung gian  
Có  trường  hợp  thân  động  mạch  vành  trái 
cho một (đôi khi là 2 hoặc 3) nhánh nằm giữa 
động mạch mũ và động mạch gian thất trước, 
nhánh  này  được  gọi  là  nhánh  trung  gian 

Hình 6: ĐM vành trái (1) cho nhánh ĐM mũ (2), 
ĐM gian thất trước (3) và nhánh trung gian (4) 

Bảng 6: Số nhánh trung gian 
Số nhánh trung gian
1
2

Tác giả

Số mẫu

Kalpana R(13)

100

47%

40%


Ortale JR et al(15)
Fazliogullari Z(7)
Bhimalli S et al(4)
Pejkovic P et al(16)
Nghiên cứu này

50
50
50
150
50

50%
46%
56,66%

46%
44%
33,33%

18/50

29/50

0

Như  vậy,  ngoài  nhánh  mũ  và  nhánh  gian 
thất  trước,  trên  60%  trường  hợp  động  mạch 


Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

3

11%

1%

4%
10%
8%
50%
3/50

2%

Ghi chú
Có 1 trường hợp không có ĐM
mũ, động mạch vành trái chỉ
cho ĐM gian thất trước.

vành  trái  còn  cho  thêm  một  hoặc  nhiều  nhánh 
nữa và được gọi là nhánh trung gian. Điều này 
rất ít được nói đến trong các tài liệu về giải phẫu 

113


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

học, nhất là các tài liệu trong nước. 

KẾT LUẬN  
6.

Động mạch vành trái xuất phát từ xoang trái 
động mạch chủ. 1/50 trường hợp không có thân 
chung  động  mạch  vành  trái,  khi  đó  nhánh  mũ 
và nhánh gian thất trước xuất phát riêng biệt từ 
xoang  vành  trái  động  mạch  chủ.  32/50  trường 
hợp động mạch vành trái cho nhánh thứ ba hoặc 
thứ  tư  ngoài  nhánh  mũ  và  nhánh  gian  thất 
trước.  Nhánh  bờ  trái  của  động  mạch  mũ  luôn 
luôn  tồn  tại  và  là  nhánh  chính,  trong  khi  các 
nhánh  chéo  trái  là  nhánh  chủ  yếu  của  động 
mạch  gian  thất  trước.  Vị  trí  điểm  tận  của  động 
mạch mũ và động mạch gian thất trước rất thay 
đổi. 
Mặc  dù  dị  dạng  động  mạch  vành  rất  hiếm 
nhưng  những  thay  đổi  về  giải  phẫu  thì  rất  đa 
dạng và rất có ý nghĩa trong chẩn đoán và điều 
trị  bệnh  động  mạch  vành,  nhất  là  trong  các  kỹ 
thuật  can  thiệp.  Nghiên  cứu  giải  phẫu  động 
mạch vành một cách toàn diện hơn, với cỡ mẫu 
lớn hơn là điều rất cần thiết. 

7.


8.
9.
10.

11.

12.

13.

14.

15.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.
4.

5.

114

Abdellah  AAA,  Elsayed  ASA,  Hassan  MA  (2009). 
Angiographic  coronary  artery  anatomy  in  the  Sudan  Heart 
Center. Khartoum Medical Journal, vol 02, No 01: 162‐164. 
Achenbach  S.  (2011).  Coronary  Anatomy  for 

interventionalists.  In  Revisitting  cardiac  anatomy:  A  computed 
tomography based atlas and reference (Eds. Saremi F., Achenbach 
S., Arbustini E, Narula J.). Blackwell publishing, Erlangen; pp. 
162‐178. 
Berdajs  D,  Turina  MI  (2011).  Operative  Anatomy  of  the  Heart. 
Springer‐Verlag, Berlin, pp: 162‐ 198. 
Bhimalli S, Dixi D, Siddibhavi M, Shirol VS (2011). A study of 
variations  in  coronary  arterial  system  in  cadaveric  human 
hearts. World Journal of Science and Technology, No1 (5): 31‐35. 
Cademartiri F, Crutta LL, Malagò R, Alberghina F, Meijboom 
WB, Pugliese F et al (2008). Prevalence of anatomical variants 
 

16.

17.

and  coronary  anomalies  in  543  consecutive  patients  studied 
with  64‐slice  CT  coronary  angiography.  European  Radiology, 
18: 781 – 791.  
Das  H  et  al  (2010).  A  study  of  coronary  dominance  in  the 
population of ASSAM. J Anat. So. India 59(2) 187‐191. 
Fazliogullari  Z,  Karabulut  A  K,  Ulver  Dugan  N,  Uysal  I  I 
(2010).  Coronary  artery  variations  and  median  artery  in 
Turkish cadaver hearts. Singapore Medical Journal 2010; 51 (10): 
775 – 780. 
Fiss  DM  (2007).  Normal  coronary  anatomy  and  anatomic 
variations. Applied Radiology Vol 36, No1: 14‐26. 
Fox  C,  Davies  MJ,  Webb‐Peploe  MM  (1973).  Length  of  left 
main coronary artery. British Heart Journal, 35: 796 – 798.  

Gatzoulis  MA  (2008).  Heart  and  great  vessels.  In  Gray’s 
Anatomy,  The  Anatomy  Basis  of  Clinical  Practic,  (eds.  Suan 
Standring), 40th edition, Churchill Livingstone, pp 960‐981. 
Gazetopoulos  N,  Ioannidis  PJ,  Karidys  C,  Lolas  C,  Kiriakou 
K, and Toutas C (1976). Short left coronary artery trunk as a 
risk  factor  in  the  development  of  coronary  atherosclerosis. 
British Heart Journal, 38: 1160 – 1165. 
James  TN  (1961).  Anatomy of the coronary arteries,  1st  edition, 
Harper & Row, Publishers, Inc., Hagerstown, Maryland, pp 3‐
202. 
Kalpana R (2003). A Study on Principal Branches of Coronary 
Arteries  in  Humans.  Journal  of  Anatomy  of  the  Anatomical 
Society of India, 52 (2): 137 – 140 
Nguyễn  Hoàng  Vũ,  Dương  Văn  Hải,  Trần  Minh  Hoàng, 
Nguyễn Văn Nhựt (2013). Nghiên cứu giải phẫu động mạch 
vành phải trên người Việt Nam; Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 
số 1, tập 17; tr 292‐298. 
Ortale  JR,  Filho  JM,  Paccola  AMF,  Leal  JGPG,  Scaranari  CA 
(2005).  Anatomy  of  the  lateral,  diagonal  and  anterosuperior 
arterial branches of the left ventricle of the human heart. Brazil 
Journal Cardiovascular Surgery; 20(2): 149‐158. 
Pejkovic  P,  Krajnc  I,  Anderhuber  F  (2008).  Anatomical 
variations of coronary ostia, Aortocoronary angles and angles 
of  division  of  the  left  coronary  artery  of  human  heart.  The 
Journal of International Medical Research; 36: 914‐922. 
Vũ Duy Tùng, Nguyễn Văn Huy (2013). Cầu cơ động mạch 
vành trên phim chụp 64‐MSCT; Y học Việt Nam, tập 411; tr: 
168‐173. 

 

Ngày nhận bài báo: 07/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo 12/11/2013 
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014 
 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×